favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
La Vita
Next

Mardi

106 trang
5 lượt xem
2 lượt tải

Cách đây không lâu, sau khi xuất bản hai thuật truyện về hải trình Thái Bình Dương, nhiều nơi đã đón nhận chúng với lòng hồ nghi, tôi thoáng có ý nghĩ, hay là thử viết hẳn một Polynesia phiêu lưu ký rồi công bố nó như một tác phẩm hư cấu, xem câu chuyện bịa đặt ấy liệu có được tin là thật: một phần là để đảo chiều thử nghiệm trước đây của mình. Ý nghĩ này làm nảy mầm những ý khác, và đơm hoa kết quả nên quyển Mardi.

New York, Tháng Giêng, 1849

 

Mardi

- Melville

Tặng em trai tôi,

Allan Melville

CHƯƠNG I

GIƯƠNG BUỒM[1]

 

          Chúng ta ra khơi! Các buồm chính và buồm trên đã căng xong: mỏ neo bám đầy san hô đu đưa nơi mũi tàu: và cùng một lượt, cả ba lá buồm ngọn cũng đón lấy làn gió nhẹ, đuổi theo chúng tôi ra biển như tiếng sủa của một con chó săn. Buồm giương - bên dưới, trên cao - căng sào, cả hai bên mạn cùng nhiều buồm phụ; cho đến tựa một con chim ưng cánh sải rộng, chúng tôi rợp bóng buồm mà lướt đi ngả nghiêng trên làn nước mặn, xé sóng lao về phía trước.

          Nhưng các bạn từ đâu, và đi đâu, này các thủy thủ?

          Chúng tôi khởi hành từ Ravavai, một hải đảo ngoài khơi, về hướng bắc không xa Nam Chí Tuyến, về hướng tây cũng không xa đảo Pitcairn, nơi bọn phản loạn tàu Bounty sinh sống. Tôi đã đặt chân lên Ravavai vài tháng trước đó; còn bây giờ, tôi đang lên đường trên một chuyến săn cá voi – loài sinh vật có bộ não thắp sáng cả thế gian.[2]

          Và từ Ravavai chúng tôi đi tàu đến Gallipagos, gọi khác là Quần Đảo Mê Hoặc, bởi những dòng hải lưu và xoáy nước điên cuồng gặp nhau nơi đó.

          Lúc bấy giờ, quanh những hòn đảo mà Dampier từng đặt chân lên ấy, nơi những tên cướp biển Tây Ban Nha từng đõ những đồng vàng moidore, Cachalot, hay cá nhà táng, cứ đến mùa lại xuất hiện dày đặc.

          Nhưng từ Ravavai đi đến đấy, tàu của bạn hẳn không thể lướt nhanh như mòng biển lướt thẳng về tổ được. Vì gió mậu dịch thường thổi mạnh, nên những con tàu muốn từ Ravavai đi về hướng đông bắc buộc phải đi vòng, độ vài ngàn dặm có khi. Ban đầu, để đuổi theo những ngọn gió biến thiên, chúng hướng về phía nam hết tốc lực; và tại đó, sau cùng cũng góp nhặt được một ngọn gió lang, chúng lấy đấy làm nguồn gió chính: sau đó, quay sang hướng đông, thẳng lái, rồi tuốt xuống duyên hải, hướng về đường Xích Đạo.

          Đường vòng này là lộ trình mà tàu Arcturion[3] đã đi qua; và thú thật nó chán rã rời. Cả đời tôi chưa bao giờ gặp cái biển nào đơn điệu đến thế này; đội ơn số phận, chưa bao giờ.

          Nhưng hoan hô! chưa đầy hai tuần, đã có một sự kiện. Ra khỏi lúc xám sương buổi sớm và ngay trước mặt, khi chúng tôi đang lướt, một vật thể tối sẫm hiện ra trên mặt nước; lờ mờ đứng trước chúng tôi, những khối sương mù bện và cuộn ở trên, còn những khối sóng xô bọt kem thì sủi quanh dưới đế của nó. Chúng tôi tránh sang bên, và, dần dà, lúc trời hửng sáng, thì đã đi qua đảo Massafuero. Bằng một chiếc ống nhòm, chúng tôi soi thấy hai ba con dê núi thong thả đi ra biển, trong một hẻm núi và ngay lúc đó thì thấy một tín hiệu: một lá cờ tả tơi trên đỉnh ngoài xa. Song, quá rành chuyện chẳng có ai trên đảo ngoại trừ vài tên tù nhân đào ngũ, mình dắt đầy thòng lọng từ Chili, thuyền trưởng của chúng tôi không có hứng nghe lời mời cập bến của mấy tên này. Dù sao, có lẽ ông đã lầm khi không cho thuyền con ghé lại, để ít nhất gửi danh thiếp chào hỏi.

          Vài hôm sau thì chúng tôi gặp “tín phong”. Chúng đến với chúng tôi như ân huệ chiếu cố, giống mọi khi, bằng một trận gió giật; cơn choáng váng chúng mang tới làm bay mất một cái xà buồm của chúng tôi; cả lão bếp béo cũng đứng hết vững, ngã đánh phịch xuống mấy cái lỗ thoát nước ở mạn dưới gió.

          Ngay lúc đến được kinh độ mong muốn trên xích đạo, vài lý về hướng tây Gallipagos, chúng tôi dành nhiều tuần đánh chích trắc theo đường Xích Đạo, lượn qua lượn lại, hoài công tìm mồi. Vì có những tay săn tin rằng bọn cá voi, như quặng bạc bên Peru, đi theo mạch xuyên biển. Thành thử từ ngày này qua ngày kia, mỗi ngày; từ tuần này sang tuần nọ, mỗi tuần, chúng tôi cứ bám riết lấy cái giao điểm kinh độ ấy trên đường Xích Đạo; thiếu điều chực thề rằng đã cảm thấy con tàu va đập mỗi lần sống thuyền giao nhau với cái đường tưởng tượng này.

          Rốt cuộc, chết điếng với gió xích đạo thổi thẳng mạn sau, chúng tôi cứ dong thẳng đường Xích Đạo. Dong buồm về hướng tây; ngó sang phải, ngó sang trái, nhưng chẳng thấy gì sất.

          Ngay lúc mệt mỏi chán chường ấy, tôi kinh qua những cơn đầu tiên của chứng mất kiên nhẫn đắng cay với con tàu đơn điệu, đỉnh điểm là những cuộc phiêu lưu thuật lại từ đây.

          Nhưng gượm đã! Tôi không hề có một lời chống lại con tàu già hy hữu và cả thủy thủ đoàn đâu nhé.  Các thủy thủ cũng là anh em với nhau, tính luôn cả nửa trấp người ngoại giáo mà chúng tôi đã cho đáp tàu từ các đảo. Dẫu vậy, chẳng ai trong số họ thực sự hợp ý tôi.  Chẳng có tâm hồn nào thu hút tôi; chẳng có ai để hòa lòng đồng cảm, để gửi gắm bất mãn khi những đợt biển lặng chốc chốc xuất hiện, hoặc hoan nghênh đón mừng mỗi khi gió đến. Nếu được nuôi nấng theo một kiểu khác và có sinh khí hơn, biết đâu mấy gã bồi lem luốc hắc ín đã hình thành những phẩm chất thu hút hơn. Nếu như chúng tôi bị rò nước, bị một con cá voi “đâm”, hoặc được ban cho một gã thuyền trưởng chuyên chế để chống lại, khích động nổi loạn với đầy khí thế, thì các bạn thuyền của tôi hẳn đã tỏ ra là những thanh niên phong nhã và là những người đầy dũng khí. Nhưng như thường lệ, chẳng thể làm bật lên tia lửa nào từ thứ thép ấy của họ.

          Đã vậy còn có những chuyện khác, thường khiến phần số của tôi trên tàu không thể chịu đựng nổi. Đúng là cha nội hoa tiêu trưởng rất hào sảng, không hề kiểu cách như bọn quan đốc trên boong[4]; và ông có cái mồm phun tục nhổ tĩu. Ngoài ra, nói đi cũng phải nói lại: ông này cũng gọi là đặc biệt lưu ý đến tôi; ông hay hỏi chuyện, đúng ra, ba hoa chích chòe, mỗi khi tôi có dịp đứng ngay vô lăng lái. Nhưng vậy thì sao? Liệu ông này có nói được chuyện gì sâu sắc hay triết lý chăng? Một chút cũng không. Thư viện của cha nội thì tám nhân tư tấc: Bowditch, và Hamilton Moore.

          Còn về phần tôi - kẻ đang khao khát có ai đó đọc cho nghe một đoạn trích từ Burton về Lũ Quỷ Xanh[5] - thì thú thực có là gì với tôi những chuyện dài dòng ngáp ngắn ngáp dài, hay mấy khúc Susan Mắt Đen tràng giang đại hải do cả dàn hợp xướng ở mũi thuyền cất lên? Hẩm hơn cả bia hẩm.

          Ấy, ấy, Arcturion! Ta nói điều này không hề ác ý, nhưng mi buồn tẻ lắm. Nếu chỉ mỗi chuyện đi tàu thì vất vả dẫu rằng, ta còn chịu được; nhưng mà lại còn trong mọi chuyện khác. Ngày ngày trôi qua đều đều, vô tận, không biến cố như những vòng tuần hoàn trôi lơ lửng trong không gian. Thời gian, lại cả thời biểu! Chiếc võng ta nằm đã báo được bao thế kỷ, như quả lắc đồng hồ đu đưa theo con tàu tròng trành chán ngắt, và tích tắc hàng giờ hàng thời. Mãi thiêng liêng thay cái khoang trước tàu Arcturion - than ôi! rêu biển giờ đã bám đầy - và mãi han gỉ những chốt sắt đã giữ chặt tấm đá lót lò, nơi chúng ta thường tựa lưng trò chuyện. Dẫu là như vậy, mi, những giờ đã phí và nặng như chì kia, ta sẽ oán trách mi suốt phần đời còn lại.

          Rồi những tuần lễ - tính theo lịch dương - cứ thế trôi qua. Những câu chuyện của Bill Marvel được kể đi kể lại đến mức đầu cuối lắp mộng đuôi én vào nhau, và được hợp nhất đến muôn thuở muôn đời. Những bài ca của Ned Ballad thì được hát đến khi những tiếng vọng phải bay lên các đỉnh cột buồm mà trốn, rồi làm tổ trên các rốn buồm. Sự kiên nhẫn đáng thương của tôi đã bay sạch.

          Nhưng, cuối cùng sau một thời gian hướng chính tây dong buồm, chúng tôi cũng dẹp được đường xích đạo với nỗi chán chường ngao ngán; không một bóng cá voi.

           Nhưng đi đâu bây giờ? Đến miền duyên hải Papua nóng như thiêu ư? Cái miền của những cơn trúng nắng, những bão tố, và những cuộc rượt đuổi cay đắng theo mấy cá voi không thể bắt được ấy. Không, tệ hơn nhiều. Hóa ra chúng tôi sắp minh họa cho lý thuyết Whiston về những kẻ bị nguyền và sao chổi, bị quăng từ cái nóng thiêu đốt của xích đạo sang băng giá vùng cực. Tóm gọn là, với cái tính hay thay đổi của bộ tộc mình, cha nội hoa tiêu đã không còn nghĩ gì về cá Cachalot nữa. Hết hy vọng, ông đã quyết phải găm cho được con cá voi Đầu Bò[6] ở Duyên Hải Tây Bắc và ở Vịnh Kamschatska.

          Những người không rành chuyện săn cá voi hẳn sẽ thấy cảm xúc của tôi là khó hiểu. Nhưng cũng xin để tôi nói: đi săn con cá voi Đầu Bò ở Duyên Hải Tây Bắc, trong cái lạnh và sương mù, mấy con quái vật ủ rũ rề rà kết bè khắp biển tựa khúc củi rừng Hartz trên sông Rhine và lăn ra dưới mũi lao cứ như thể mấy con bò thiến hơi giật mình vì găm dao - cuộc săn cá voi Đầu Bò kinh khủng và bỉ ổi này, tôi bảo, so với cuộc săn đầy khí thế con Cachalot phong nhã ở những vùng biển phía nam và những vùng biển ôn hòa hơn, thì cứ như là đem so trò diệt gấu trắng trên những tảng băng trôi Greenland trống không với cuộc săn ngựa vằn ở Caffraria, nơi con mồi nhảy phóng ra trước mặt bạn xuyên qua những trảng lá dày.

          Vậy nên, cái quyết định đột ngột của thuyền trưởng, kéo tôi thẳng lên vòng cực Bắc, chẳng khác gì ngầm vi phạm thỏa thuận giữa chúng tôi. Thỏa thuận ấy không cần phải kể chi ly. Gia nhập thủy thủ đoàn chỉ vì muốn dạo biển, tôi lên tàu của ông ví như người ta một hôm lên ngựa phi theo đám chó săn. Và giờ, Chúa ơi cứu tôi, ông ta lại đưa cái thằng tôi tít đến vùng Cực! Mà lại là vì cái công việc ghê tởm ấy nữa chứ! Có điều gì đó thật hèn hạ trong đó. Với thủy thủ săn cá voi đích thực, thể diện nằm ở chỗ biết để dành ngọn lao để vấy máu con Cachalot. Thánh thần tôi ơi, nó lại động chạm tinh thần nghĩa hiệp thủy thủ cơ. Đầu cá với chả não hương! Không thể chịu đựng được.

          “Thuyền trưởng,” một ngày nọ tôi nói, khều cái mũ sầm rê vào ông khi tôi đứng chỗ vô lăng, “Thật là hắc khi mà đưa tôi đi tới cảnh luyện ngục này. Tôi lên tàu có phải để đến đó đâu.”

          “Phải, và tôi cũng vậy,” là lời đáp của ông ta. “Nhưng đâu ai muốn chuyện này. Cá nhà táng thì hiếm hoi. Chúng ta đã đi tới nay đã là ba năm rồi, và phải kiếm được thứ gì đó chứ; bởi tàu thì đang đói dầu, còn hầm tàu nhìn vào đã thấy sâu hoắm. Nhưng vui vẻ lên cậu trai! Một khi đến Vịnh Kamschatka, chúng ta sẽ tha hồ muốn gì cũng có, dẫu không là thứ tốt nhất.”

          Càng lúc càng tệ! Cái viễn cảnh ngậm dầu được mở rộng thành vùng Macassar mênh mông. “Ông ơi,” tôi nói, “tôi không lên tàu vì điều này; cho tôi lên bờ đâu đó, tôi van ông.” Cha nội trừng mắt, nhưng không một lời chiếu cố; và trong một thoáng tôi nghĩ tôi đã khơi dậy được tinh thần độc đoán nơi lão thuyền trưởng, làm phương hại đến phần tử tế hơn nơi ông.

          Nhưng không. Đi ba lượt trên boong, ông đặt tay lên bánh lái, và nói, “Đúng hay sai, chàng trai, thì cậu cũng phải đi với bọn ta. Chuyện cho cậu lên bờ giờ không bàn được. Ta sẽ không cập bến chừng nào con tàu này được chất đầy hết các cửa khoang. Tiếng thế, nhưng cậu được phép rời tàu nếu có thể.” Nói xong thì ông bước vào cabin, như Julius Caesar bước vào lều. 

          Có thể ông chẳng có ý gì đâu, nhưng cái câu cuối cùng ấy vang lên trong tai tôi như một lời thách đố. Nó thoáng vẻ của viên cai ngục khen ngợi tù nhân ở Newgate, khi hắn đã dùng hết sức bình sinh.

          “Rời tàu nếu có thể!” Rời con tàu này khi chẳng thấy cả buồm lẫn bờ! Phải rồi, ông thuyền trưởng ơi, chuyện lạ từng xảy ra rồi. Vì từng lên chiếc tàu này, con tàu già Arcturion, có bốn gã lực điền, mà hai năm trước chính thằng cha hoa tiêu trưởng đã đưa lên từ một con thuyền không mui, cách xa bãi cạn xa nhất. Nói cho kỹ, bọn này thêu dệt một chuyện đẩu đâu về việc là những người sống sót duy nhất của một tàu buôn Ấn Độ bị cháy rụi đến mé nước. Nhưng ai làm chứng? Cũng như những người khác, họ là những kẻ mang bí mật trong người: đã nảy ra lòng khinh thường với một con tàu gớm guốc nào đó vẫn còn đang lênh đênh và đẫy hàng, rồi nhót của khỏi tàu, cách trăm sải ngoài khơi. Giữa các thủy thủ ở vùng Thái Bình Dương với nhau, chuyện phiêu lưu như thế này xảy ra không hiếm. Hoặc chúng cũng không được coi là cái gì to tát lắm. Chúng chỉ là các sự cố, không phải sự kiện trong sự nghiệp của các anh em chuyên lang thang biển Nam Dương. Bởi có gì quan trọng, dẫu có hàng trăm dặm cách đất liền, cho bằng một chiếc thuyền săn cá voi tử tế dưới chân, gió Mậu Dịch thổi phía sau và những vùng biển ấm áp êm dịu phía trước? Và chính đây là điểm khác biệt giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương: rằng một khi đã ở trong những vùng Nhiệt Đới, thủy thủ nào gan dạ nuôi ý định bỏ tàu quanh Cape Horn thì không cần đợi cảng. Anh ta có thể xem cái biển ấy như là một bến cảng to.

          Nói thế, chứ công cuộc được bóng gió ấy chẳng phải là chuyện dễ dàng; và tôi quyết cân nhắc các khả năng cho kỹ. Có điều cần phải nói, rằng theo cùng cách, tất cả chúng ta ai cũng đều canh cánh bên mình cái công cuộc mà, đối với người khác, chỉ là chuyện vô tích sự. Suy nghĩ đầu tiên của tôi là đi kiếm thuyền, và chuyện chôm nó trong hoàn cảnh này là đúng hay sai. Nhưng để không sa đà vào chi tiết, xin để tôi nói, rằng nếu một lần nữa có bị đặt vào tình huống tương tự, tôi cũng sẽ làm y như tôi đã. Lão thuyền trưởng biết rõ là lão định giam giữ tôi trái luật: trái với thỏa thuận của chúng tôi; và chính ông là người đã đưa ra lời bóng gió này, mà tôi chỉ đơn thuần làm theo và cảm ơn ông lắm lắm.

          Đang trong tâm trạng cố chấp như vậy, một ngày nọ tôi leo lên trên để đứng canh hai tiếng ngay đỉnh cột buồm[7]. Khi ấy đang lúc cuối ngày, trầm lắng và đẹp đẽ. Tôi đứng đấy, tít ở trên cột và xa thật xa, biển cuộn bên dưới đến vô tận. Chỗ của chúng tôi lúc bấy giờ có lẽ là vị trí ít người qua lại nhất và ít người biết đến nhất thuộc các vùng biển này. Tuy vậy, về hướng tây lại trải ra vô số những quần đảo nằm rải rác trên hải đồ và được ban cho hết thảy những nét mê hoặc trong mơ. Nhưng những vùng đất ấy rồi sẽ chóng qua; làn gió xích đạo dịu êm bị thay thế bằng những luồng gió dữ dội, lạnh buốt, cùng tất cả những khiếp hãi của cuộc hành trình phương bắc.

          Tôi đưa mắt nhìn xuống những tấm ván nâu của con tàu buồn tẻ, im lìm từ mũi đến đuôi; rồi phóng mắt ra xa.

          Từ đằng xa, những cảnh mộng nào trải ra đây! Toàn bộ đường chân trời phía tây chồng đầy những đám mây vàng kim và son tươi; những cung, những vòm, những tháp lộng gió; như thể mặt trời vàng Maroc đang lặn đằng sau pháo đài Alhambra rộng lớn nào. Những diệu cảnh dường như đang đưa đến những thế giới ngoài xa. Tới và lui, và khắp những tòa tháp của thành Nineveh trên trời này là những đoàn chim thả cánh chao liệng. Tôi đang ngắm nghía bọn chúng thì một con lướt qua tầm mắt tôi, lượn qua một vòm mây thấp rồi mất hút. Thần trí tôi lúc ấy hẳn đã bay đi cùng nó bởi ngay lúc ấy, như trong cơn mê sảng, nhịp vỗ những cuộn sóng hiền đang gội trên một bờ cát đầy vỏ sò, những cành cây phấp phới, và giọng các trinh nữ, và những nhịp đập êm ái con tim tan chảy của chính tôi, mọi thứ quyện lại với nhau.

          Giờ đây, toàn bộ chuyện này, nói trắng ra, chỉ là một trong số nhiều cảnh mộng xuất hiện khi người ta ở trên cao. Nhưng đến với tôi vào lúc ấy, nó tác động mạnh đến mức từ ấy trở đi, niềm khát khao rời bỏ Arcturion trở nên chẳng khác gì mê loạn vậy.

CHƯƠNG II

MỘT ĐỢT BIỂN LẶNG

 

Ngày hôm sau xảy ra một đợt biển lặng làm tăng không ít nỗi mất kiên nhẫn với con tàu. Và còn những kết hợp không tên nào đấy đã làm sống lại trong tôi những ấn tượng xưa cũ về lần đầu tiên, với tư cách là cư dân đất liền, được chứng kiến hiện tượng trên biển ấy. Những ấn tượng ấy có lẽ xứng đáng được dành riêng một trang.

Đối với một cư dân đất liền thì một đợt biển lặng không phải chuyện chơi. Nó không những làm đảo lộn dạ dày mà lại còn làm lung lay tâm trí người ta nữa, xui khiến hắn từ bỏ niềm tin vào sự phải lẽ vĩnh cữu của vạn vật; nói gọn là gần như biến anh ta thành một kẻ vô thần.

Ban đầu anh bị bất ngờ, vì chưa bao giờ tưởng tượng nổi một trạng thái tồn tại mà chính sự tồn tại tựa như ngưng lại. Anh lắc lư trong chiếc áo choàng, để xem mình có thật hiện diện hay không.  Anh nhắm mắt, để kiểm chứng thực tại của cái quãng mênh mông vô hồn. Anh hít một hơi dài, như một phép thử, và để xem hiệu ứng thế nào. Nếu là một độc giả hay xem sách, anh sẽ nghĩ đến Luận thuyết về tất yếu của Priestley và sẽ tin Sir Anthony Absolute đến tận chương cuối. Lòng tin vào Malte Brun của anh, tuy vậy, lại bắt đầu yếu đi; vì địa lý học, mà anh đã vững lòng vững dạ tin vào từ thời niên thiếu, luôn đoan chắc cho anh rằng dẫu biển có đi dông đi dài khắp địa cầu, nó vẫn bị đất liền giới hạn. Rằng phía đối diện châu Mỹ, chẳng hạn, là châu Á. Nhưng đây là một đợt biển lặng, cho nên anh đâm ra hoài nghi đến phát điên.

Với tưởng tượng đầy hoảng hốt của anh, các vĩ tuyến và kinh tuyến trở nên đúng như cái tên người ta quy cho chúng: những đường tưởng tượng vẽ quanh bề mặt trái đất.

Nhật ký hải trình thì đoan chắc với anh rằng con tàu đang ở một tọa độ xác định; nhưng nhật ký là kẻ nói dối; vì chẳng có nơi nào, chẳng có vật thể nào mang hình khối địa lý rõ ràng  xuất hiện trong cõi nước bao la ấy cả.

Lâu dần những nghi ngờ đáng sợ về năng lực định hướng con tàu của lão thuyền trưởng tóm lấy anh. Cái kẻ dốt nát ấy hẳn đã lạc đường, trôi dạt vào rìa ngoài của cõi tạo hóa, miền của cơn lặng vĩnh cửu, khúc dạo đầu của một khoảng không tuyệt đối.

Các suy tư về vĩnh cữu càng dày thêm. Anh bắt đầu thấy lo lắng về linh hồn mình.

Cái tĩnh của biển lặng thật sự ghê gớm. Giọng của anh trở nên xa lạ và báo điềm. Anh cảm thấy nó bên trong mình như thứ gì đó quá lớn để thực quản nuốt được. Nó phát ra một thứ vo ve không chủ ý trong anh, như một con bọ sống. Hộp sọ của anh là một cái vòm đầy những tiếng vang. Phần rỗng bên trong xương của anh thì như những hành lang đang thì thầm. Anh không dám nói lớn, để khỏi bị choáng; giống như người bị nhốt trong một cái trống đại.

Nhưng trên hết là ý thức về nỗi bất lực hoàn toàn của anh. Không có giúp đỡ hay thương cảm gì cả. Hối hận vì đã lên tàu cũng chẳng ích lợi gì. Ngay cả khoái cảm tuyệt vọng đến tận cùng cũng chẳng mang lại thích thú cho anh. Hão huyền thay cái ý giết thời gian ở ngay lúc biển lặng này. Anh ngủ được thì cứ ngủ, hoặc cố lừa mình sa vào một tưởng vọng điên rồ, rằng anh chỉ đang thư nhàn đấy thôi. Những chuyện này anh có thể thử, nhưng anh không thể thảnh thơi buông lỏng; vì buông lỏng tức là rỗi rãi, và rỗi rãi hàm ý chẳng có việc gì để làm; trong khi đang có một đợt biển lặng để chịu đựng: mà chỉ riêng việc đó thôi cũng đã là một công việc đủ đầy, có Chúa biết.

Thân thể vật lý của anh, rõ ràng là dành cho việc vận động, lại trở thành một thứ bất động; vì biển lặng đặt anh ở đâu thì anh ở nguyên tại đấy. Ngay cả những quyền bất khả xâm phạm của anh, gồm có quyền tự do ý chí hiển hách, cũng thành ra như không. Để làm gì chứ? Anh muốn đi: đi khỏi đợt biển lặng này: tránh như tránh ôn dịch trên bờ. Nhưng anh không thể; và thật ngu ngốc làm sao khi cứ toan tính những mưu mô chước kế. Nó còn vô vọng hơn cả một cuộc hôn nhân không hạnh phúc ở cái đất chẳng có lấy bóng một ông Đốc Dân. Anh đã nhận con tàu làm vợ, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi biển lặng cũng như lúc bão táp; và nàng chẳng phải là để bị phủi tay. Xà buồm chống nạnh, nàng khinh biệt nói với anh, như mụ phù thủy già với chú lùn: “Tự lo lấy mình đi.”

Và toàn bộ việc này, và hơn cả việc này - là một cơn biển lặng.

 

CHƯƠNG III

CÓ VUA LÀM BẠN

 

          Vào thời điểm mà tôi đang kể lại đây, chúng tôi hẳn đã ở đâu đó quá sáu mươi độ về phía tây quần đảo Gallipagos. Và khi đến được kinh độ mong muốn, chúng tôi bắt đầu chuyển hướng lên phía bắc, hướng về miền địa cực: chung quanh chúng tôi là một vùng biển rộng.

          Nhưng về hướng tây, cách một ngàn dặm, trải dài từ bắc chí nam là một quần đảo hầu như bất tận, dân cư sống rải rác, nhưng ít được biết đến và đa phần là ít được lui lới, thậm chí là với cả các thủy thủ săn cá voi, những người hầu như đi khắp nơi. Khởi hành tại điểm kết phía nam của dãy quần đảo lớn này, gồm các đảo quen gọi là cụm đảo Ellice; rồi các hải đảo Kingsmill; rồi các cụm đảo Radack và Mulgrave. Tôi hình dung các đảo ấy chủ yếu là hệ thống rạn san hô, thấp và phì nhiêu, đầy những loại trái cây. Người ta nói rằng tiếng của dân ở đây rất gần với tiếng của dân trên các đảo Navigator, tổ tiên của họ chắc đã di cư từ đấy.

Với bấy nhiêu điều đã nói, tất cả những gì tôi thuật lại về các đảo ấy vẫn còn trong diện nghi vấn. Nhưng chỉ cần biết rằng chúng tồn tại đã là đủ, và rằng con đường đi đến đó nằm trên một vùng biển dễ chịu, trước mặt là gió mậu dịch ổn định. Quãng đường, tuy lớn, nhưng chỉ là sự kéo dài của mặt nước; một khoảng trống cần vượt qua bằng đường thủy, và lại bằng một con thuyền, nếu được điều khiển chính xác cũng có thể sống thọ hơn mấy con tàu lớn khi trời giông bão. Điều này là thật: thuyền săn cá voi là một trong những vật khéo léo nhất từng được con người chế tác.

          Như vậy, tôi quyết tâm đặt chân lên một trong các đảo Kingsmill, cái gì đến thì cứ đến. Và tôi cũng quyết tâm không kém rằng một trong các thuyền của con tàu này sẽ đưa tôi đến đó. Nhưng tôi không hề có ý định đi một mình. Việc quan sát hẳn sẽ nhọc nhằn lắm nếu chỉ có mỗi một mình tôi phải lo mọi thứ, chẳng có gì sất ngoài đường chân trời trước mắt.

          Bấy giờ, trong thủy thủ đoàn có một lão thủy thủ ra trò phết, ông Jarl; bao nhiêu tuổi chẳng ai biết, ngay cả ông. Tính theo niên biểu boong mũi thì quả là mơ hồ và lại thiếu sót vô cùng. “Cả đời lão,” Jarl thực thà nói, “lão đã sống từ ngày lão còn nhớ được.” Và quả thực, ai mà nhớ được ngoài ông ra? Cả với chính chúng ta, tất cả chúng ta dường như đồng sinh với tạo hóa. Vì lẽ ấy, thật khó mà chết trước khi chính cái thế giới này qua đi.

          Ông Jarl người đảo Skye, một đảo thuộc quần đảo Hebrides. Thành thử bọn họ hay gọi ông là Ông Giời. Và dẫu ông không hề hải tặc về bề trong, nhưng ông trông như người Na-uy về bề ngoài. Bàn tay ông săn gân như tay gấu; giọng ông khản như bão gầm quanh đỉnh núi già đảo Mull; tóc ông vừa vàng vừa dài phất quanh đầu như hoàng hôn. Cả đời tôi chỉ muốn bấy nhiêu thôi, Jarl ơi, tổ tiên ông là những người Viking, biết bao lần dong buồm vượt biển Giéc-man và Ban-tích; những người đem gả các nàng Brynhildas bên Jutland và giờ đang nốc rượu mật trong đại sảnh Valhalla, và lấy vại gõ nhịp hát những bài tụng ca dân Scalds. A! những thiên anh hùng ca ấy chảy qua tôi!

          Thế mà Jarl, hậu duệ của các anh hùng và vua chúa, lại là một người cô độc, người thủy thủ không bạn trên sàn tàu, chỉ trung thành với gốc gác của ông ở chốn biển khơi mà ông nguyện sống đời. Nhưng chuyện đã như thế nào thì cũng sẽ mãi như thế ấy. Có người nông dân nào dám thề rằng mình không phải là hậu duệ của vua Alfred? Có anh chàng dốt nát nào dám quả quyết rằng máu mình chẳng liên can gì đến Homer xưa? Vua Noah, Chúa phù hộ ông! là cha của chúng ta hết thảy. Vậy hãy ngẩng cao đầu, hỡi những nô lệ thành Spartan các bạn, dòng máu tiềm tàng chảy trong huyết mạch của các bạn. Tất cả chúng ta đều có các quốc vương và nhà hiền triết làm bà con, các thiên thần và tổng thiên thần làm anh em họ; từ thời hồng thủy, các con trai của Chúa quả thực đã thành hôn với các bà mẹ chúng ta, những người con gái bất khả kháng cự của Eve. Như vậy, mọi thế hệ hòa lẫn với nhau: thiên đường và trái đất là một nhà: phẩm trật của các luyến thần trên các tầng trời cao nhất, các bệ thần và lãnh thần ngự trong hoàng đạo, các vong linh lang thang khắp không gian, các quốc gia và gia tộc, các đàn chiên và bầy thú trên trái đất, nhất loạt, về bản chất đều là anh em - ôi, đích thị chúng ta là anh em! Mọi sự đều có dạng nhưng đều trọn một; vũ trụ đều lấy xứ Giu-đê và Đấng Gia-vê làm đầu. Thế thì chúng ta đừng giật mình khiếp sợ nữa. Dưới một chế độ thần quyền, có gì mà phải sợ? Hãy bình tĩnh với cái chết như những kỵ sĩ kiệt sức ngủ trên yên ngựa. Hãy đón chào cả những hồn ma bóng quế khi chúng hiện lên. Hãy thôi những cái nhìn chòng chọc và nhăn nhó của chúng ta. Hình xăm trổ của người Tân Tây Lan không có gì ghê gớm, lối sống của người Tàu cũng không còn là bí ẩn. Chẳng có tập quán nào là kỳ lạ; chẳng có tín điều nào là vô lý; chẳng có kẻ thù nữa, mà sau cùng, ai muốn thì sẽ thấy một người bạn. Ở trên trời, sau này, người cha già tóc bạc Adam sẽ đón chào tất cả như nhau, và tinh thần huynh đệ sẽ ngự trị mãi mãi. Ki-tô hữu sẽ nắm tay Dân Ngoại và Do Thái; Dante tàn nhẫn quên đi các Hỏa Ngục của ông, bá vai với Rabelais béo; và thầy tu Luther bên bình rượu mật bàn luận về thời xưa cùng Giáo hoàng Leo. Khi ấy, chúng ta sẽ ngồi bên các bậc hiền nhân, ngày xưa từng ra luật cho dân Mê-đi và Ba-tư dưới ánh mặt trời; bên đồi sọ các đội trưởng trong Perseus đã la lớn, “Ra ngựa!” khi bị đánh thức bởi Tiếng Kèn Chót đang cất lên vì huấn lệnh; bên những thợ săn xưa - hàng thiên cổ trước đây từng săn nai sừng tấm trên chòm Lạp Hộ; bên những thi sĩ, từng hát ca trên Dải Ngân Hà khi Giê-su Đấng Cứu Thế được sinh ra. Khi ấy chúng ta sẽ không cắm đầu vào thứ chuyện gẫu nông cạn của những Magellan và Drake nữa mà sẽ lắng tai nghe những nhà du hành đã đi thuyền quanh đường Hoàng Đạo, những người đã vòng quanh Sao Bắc Đẩu như quanh Mũi Sừng. Khi ấy Stagirite[8] và Kant sẽ bị lãng quên và một quyển folio khác với quyển của họ sẽ được giở ra để mà học lấy khôn ngoan; thậm chí quyển folio lúc này đang mở với tử vi tới bây giờ còn chưa được giải mã, thiên đường của các thiên đường trên cao.

          Ngôn ngữ của ông già Jarl không hề có tiếng bản địa. Thủy thủ thổ dân của các bạn đây quá mức giang hồ[9] với nó. Từ lâu đã đánh bạn với các thủy thủ mọi tộc người: dân Manilla, Anglo-Saxon, Cholo, Lascar, và Đan Mạch, chẳng chốc đã làm mòn đi mọi ấp úng tiếng mẹ đẻ. Ông đánh đắm bè đảng ông; đánh chìm quốc gia ông; ông nói thứ ngôn ngữ của thế giới, sảng khoái liến thoắng bằng Lingua-Franca của boong mũi[10].

          Kiên định với sứ mệnh của mình, Ông Giời rất ít học; chẳng biết gì về Salamanca, Heidelberg, hoặc Brazen-Nose; ở Delhi, chưa bao giờ lật được cuốn sách nào về Bà-la-môn. Với địa lý, môn mà thủy thủ lẽ ra phải tinh thông, bởi họ suốt đời lật đi lật lại quả địa cầu, Jarl tội nghiệp cũng thiếu sót đến đáng trách. Theo quan điểm của ông về vật chất, cái thế giới gồm đất và nước này được nặn thành hình như một cái bánh nhân mứt; đất liền chỉ là mép vỏ bánh còn thế giới nước thì nằm trọn bên trong. Bấy nhiêu đấy có lẽ là lý thuyết về vũ trụ học của ông bạn hiền Viking. Còn về những thế giới khác, ông già còn chẳng nghĩ tới; tuy thế nhưng cũng sánh ngang với Gio-an Kim Khẩu[11] đấy.

          A, Jarl! con người trung thực tận tâm; quá thật và quá giản dị đến nỗi những hoạt động kín đáo của tâm hồn ông lại quá bí hiểm với những vận hành tinh vi của Spinoza.

          Bấy nhiêu là đủ để nói về Ông Giời, bởi vì ông trầm mặc quá chừng, hiếm khi chịu bộc bạch bản thân.

          Về phần tôi, gác lại mọi đồng cảm cao siêu, tôi thực sự yêu quý Jarl, bởi vì ông quý tôi; từ lần đầu gặp, ông đã gắn bó với tôi.

          Đôi khi xảy ra chuyện một thủy thủ già như ông nảy sinh một sự gắn bó mạnh mẽ với một thủy thủ trẻ tuổi nào đấy, bạn tàu của ông: một sự gắn bó quá mức hết lòng, chừng hoàn toàn vô phương cắt nghĩa, trừ phi nó bắt nguồn từ nỗi cô đơn trong lòng, vốn sẽ rờ gáy phần lớn các thủy thủ khi họ già đi và ép họ ràng buộc với bất kỳ đối tượng chú ý nào. Nhưng dù có thế nào thì, ơi ông Viking của tôi, cảm tình tự ý của ông là lòng kính trọng cao quý nhất mà tôi từng nhận được. Và thú thực, chính điều đó khiến tôi nghĩ tốt về mình, thấy mình ít nhiều xứng đáng với lòng tận tụy của ông, hơn là những lời khen rào trước đón sau của những cái đầu có học thức hơn.

          Trên biển, trong tình huống cộng sinh giữa anh em thủy thủ, ai nấy đều lộ diện con người thật của mình. Để tìm hiểu về bản chất con người, chẳng có trường lớp nào sánh bằng một con tàu. Tiếp xúc giữa người với người thì quá gần và quá liên tục để sự phỉnh phờ có dịp tung hoành. Tính cách của anh là cái quần anh mặc - không thể giấu. Vô ích thay mọi nỗ lực giả vờ những tố chất anh chẳng có, hoặc giấu đi những tố chất anh sở hữu. Mong muốn ẩn danh, dù có hấp dẫn đến đâu, cũng là điều không tưởng. Vì thế, trên mọi con tàu tôi từng đi, tôi luôn bị gán cho cái danh hiệu phòng rã đông. Không phải - để tôi nói nhanh - là tôi thọc tay vào thùng hắc ín với cái vẻ làm cao, hay là leo lên thừng chão với dáng uốn éo kiểu Chesterfield. Tôi chưa từng vượt mặt nghề của mình, mà nghề thì tôi đã trải qua không ít. Tôi có cái ngực thật là nâu rám và tay thật là cứng, thủy thủ đặc hắc ín nhất trần đời. Và chưa bao giờ có bạn tàu nào trách tôi là chểnh mảng hay kiểu cách quý tộc gì, kể cả khi công việc đưa tôi lên tận đỉnh cột buồm chính hoặc tận đầu mút trục buồm tam giác giữa trận gió chửi sói đầu sói trán.

          Vậy thì, do đâu mà lại có tên gọi khó chịu ấy? Bởi đúng là nó khó chịu, tất nhiên. Đó là vì trong tôi có điều gì đó không thể giấu được; lén lút hiện ra trong cuộc đa âm hàn hữu; ngoài ra còn một cuộc bàn luận khó hiểu ở bàn ăn; những bóng gió xa xôi, thiếu thận trọng về áp phe Văn Chương; và cả những chuyện vặt vãnh khác nữa.

          Nhưng nói thế này cũng đủ: trong thủy thủ đoàn của Arcturion đã lan truyền một lời đồn mơ hồ rằng vào một giai đoạn nào đó trong đời, tôi từng là một “công tử”. Nhưng Jarl dường như còn đi xa hơn. Ông chắc phải xem tôi là người thuộc Gia tộc Hanover cải trang hoặc có lẽ là Charles Edward Người Giả Dạng đội mũ mà, giống như Người Do Thái Lang Thang, còn chưa kịp lên đường đi đây đi đó. Dẫu sao đi nữa, lòng trung thành của ông cũng cực độ lắm. Không cần phải nhờ vả, ông đã là người thợ giặt và thợ may của tôi, thậm chí còn là một chuyên gia; và khi giờ ăn đến nhưng tôi phải đứng canh ở đỉnh cột buồm hoặc ngay bánh lái thì ông mang đồ ăn cho tôi giữa đám “nhóc tì” ở boong mũi bằng vẻ chuyên cần không mệt mỏi. Vì nhiều tảng “bánh” ngon mà tôi mắc nợ công chăm sóc của ông Viking. Như vua Sesostris, tôi được một quốc vương phục vụ. Song nói chung, ơn nghĩa cũng có qua có lại. Vì xin biết cho rằng, nói theo cách hàng hải, chúng tôi là bồ.

          Giờ thì chuyện bồ bịch giữa các thủy thủ xem như tình huynh đệ tồn tại giữa một cặp đồng môn (chung bồ) ở cùng nhau. Đấy là một mối Fidus-Achates, một liên minh thế công thế thủ, một mối đồng hợp tác giữa các rương đồ và hố xí, một mối liên kết yêu thương và thiện chí, và một cuộc thay phiên bênh vực người vắng mặt. Quả thực, những kỷ niệm hàng hải của tôi nhắc tôi về tạp nhạp những thứ bồ bịch lười nhác, vô tích sự, vô lợi lộc và đáng ghét; cái thứ bồ bịch mà vào giờ ăn thì ngâm đến tận phút cuối cùng trong đám “nhóc tì” còn thằng bạn bất hạnh của nó thì đang ở tít trên các xà buồm; thứ bồ bịch giả đò vụng về với kim la bàn và ngại ngùng đắn đo khi phải thọc tay vào xút; thế là anh bồ khờ phải làm hết mọi việc cho đồng đội, còn anh bồ khôn thì đóng vai cộng sự đang ngon giấc trên võng. Đi đời cái lũ bồ bịch ấy!

          Song le tôi van cùng ông, này Jarl thực thà, giả như tôi cứ là anh bồ khôn mãi. Xin chớ để bụng, giả như ông có mang tấm vải của tôi đem đi may, lại lấy lòng bác ái Sa-ma-ri[12] mà vá những nơi đã rách cùng trút kim rót chỉ vào những chỗ rạch kinh khiếp nhất mà tôi đây chẳng may phải chịu, mà ông quen gọi là “những đồ vải nhẹ;” Nhưng chẳng phải chính ông đã từng tuyên bố tỏ tường, rằng thảy những điều ấy,cùng nhiều điều khác, ông sẽ làm cho tôi, chẳng kỳ cái đê tay lạ lùng, khoét từ răng ngà con cá voi ru? Xét cho phải: chớ thì tôi có thể nào giành được khỏi bàn tay khư khư của ông cái áo của chính tôi đây, một khi ông đã đem nó mà ủ nước muối giấm cho mềm, trong cái chum rộng của ông, cái thùng không nắp ấy ru? Ông đã biết tường tận, này Jarl, rằng những sự ấy là thật; và tôi buộc phải nói điều này, để phủi đi mọi nghi ngờ rằng tôi từng có ý định lợi dụng lòng tốt của ông.

          Bây giờ ông Viking là của tôi, tôi nghĩ, khi tôi tìm kiếm một người đồng bạn; và chỉ ông Viking mà thôi.

CHƯƠNG IV

CUỘC TRÒ CHUYỆN TRÊN MÂY

          Ông Giời có vẻ là một thủy thủ nghiêm chỉnh và ngay thẳng đến độ, phải thú thật, dẫu cho ông mến tôi, thì tôi cũng có nhiều mối nghi ngại không biết ông có sẵn lòng chung sức trong công việc vốn sặc mùi thoái lui đạo đức này không. Nhưng cân nhắc hết thảy, tôi thấy quyết tâm của tôi cũng chẳng đến nỗi tội lỗi gì cho cam; và còn về phần xúi giục một người khác tham gia với mình thì, quả thực, là một sự đề phòng không thể thiếu, đến mức có thể gạt bỏ mọi băn khoăn khác.

          Thành thử tôi quyết mặc sức mở lòng mình với ông. Và để làm việc ấy một cách đàng hoàng, tôi trèo lên tận nơi ông đang đứng gác - một mình như con hải âu cổ lỗ - trên đỉnh cột buồm mũi, trông ra những con cá voi chẳng bao giờ thấy

          Phải nói, đứng lơ lửng trên một que gỗ cao cả trăm bộ, trong nhiều giờ liền, khi con tàu lướt vun vút giữa đại dương, cũng giống như ngồi trong một khinh khí cầu băng qua eo biển Manche. Cứ ngỡ như Manfred, bạn nói với các đám mây: bạn có tình cảm quý mến với mặt trời. Và khi Jarl và tôi chuyện trò trên ấy, hút những “tẩu đất sét” lùn, bất kỳ con mòng biển nào lướt qua hẳn cũng lầm chúng tôi với các Tôn Ông Blanchard và Jeffries, xã giao bập mấy hơi Bagdad sau bữa tối, nối kết với Calais, qua ngả Thiên Đường, từ Dover. Ông Jarl thực thà, tôi kể tất: cuộc nói chuyện với lão thuyền trưởng, gợi ý bóng gió trong những lời cuối cùng của lão, quyết tâm chắc nịch của tôi để mà bỏ con tàu này bằng thuyền cùng với phương tiện mà tôi nghĩ để tiến hành công việc. Rồi tôi nảy ra những nguyên nhân xui khiến, lập thành những mong đợi dễ chịu, mang đi theo gió dưới mạn đến những hòn đảo ngập nắng.

          Ông chăm chú lắng nghe; nhưng làm thinh hồi lâu đến nỗi tôi suýt tin rằng ở ông Jarl có gì đó quá sức với tôi và khả năng hùng biện của tôi.

          Sau cùng ông cũng rất thẳng thừng tuyên bố rằng kế hoạch này đúng là một kế hoạch điên rồ; ông chưa bao giờ biết thứ gì như thế trừ ba lần trước đây; và luôn luôn, chẳng ai hay tin gì về những kẻ chạy trốn. Ông khẩn khoản xin tôi hãy từ bỏ cái ý định đó đi, đừng có như thằng con nít, dừng lại và suy ngẫm, kiên trì với con tàu, và cùng nó về nhà như một người đàn ông. Thật vậy, ông Viking của tôi nói chuyện với tôi như một bậc cha chú.

          Nhưng tôi bịt tai chẳng thèm nghe lấy một lời, xác nhận rằng ý tôi đã quyết, và rằng vì ông từ chối đi cùng tôi, và tôi chẳng thích làm bạn với ai khác, nên tôi sẽ tự mà đi một mình còn hơn là chẳng làm chi sất. Về điều này, nhận thấy quyết tâm của tôi không thể thay đổi, ông thề thốt rằng ông sẽ cùng tôi kinh qua chông gai hiểm trở.

          Cảm ơn, Jarl! ông đích thị là một người bằng hữu sẽ dốc sức đánh vật hầu thuyết phục một kẻ yêu thích lỗi lầm; nhưng thất bại thì ngay lập tức biến cuộc vật lộn ấy thành một cái ôm thân tình.

          Nhưng giờ sự thận trọng lão thành của ông đã nhập cuộc. Đưa mắt nhìn ra xa khoảng nước vô biên bên dưới, ông hỏi các đảo đang bàn ấy còn cách bao xa.

          “Một ngàn dặm không kém.”

          “Thế thì, thuận ngọn gió mậu dịch, và một con thuyền có buồm, thì cả chuyến đi mất mười hai ngày, nhưng còn các đợt biển lặng và dòng hải lưu, có thể mất cả tháng, nhiều khi hơn.” Nói xong, ông lắc đầu, và mái tóc vàng của ông chảy thành dòng.

          Nhưng tôi cố hết sức để xua tan đi những mối nghi ngại ấy, rốt cuộc ông cũng nhân nhượng. Ông đoan chắc với tôi rằng có thể tin tưởng ông mà phó thác cả sống thuyền sâu nhất.

          Được ông Viking bảo đảm cho, tôi thấy thả lỏng hơn và cẩn thận cân nhắc cách thực hiện tốt nhất phi vụ táo bạo này.

          Chẳng có thời gian mà phung phí nữa. Mỗi giờ trôi qua lại đưa chúng tôi càng lúc càng xa khỏi khỏi vĩ tuyến mong muốn để theo lộ trình hướng tây của chúng tôi. Thế là, khẩn trương nhất có thể, tôi hoàn thiện các kế hoạch và truyền đạt chúng cho Jarl, người đã đưa ra nhiều gợi ý - các dự kiến khả năng tương lai.

          Kể cũng lạ, chỉ tới khi ông Viking với vẻ mặt hối tiếc nhắc thì tôi mới nhớ ra một hoàn cảnh vô cùng hiển nhiên cũng gọi là đáng lo. Chúng tôi phải chuồn đi mà không có hải đồ hoặc thước đo góc; dẫu, như cũng sẽ thấy ngay, một chiếc la bàn tất nhiên là ngoài tầm với. Hải đồ, chắc chắn, tôi chẳng lấy làm lo lắm; nhưng thước đo góc thì tuyệt nhiên không thể thiếu được. Vì thế này. Khi chúng tôi bắt đầu, chúng tôi phải biết chính xác vĩ độ; và dù trong chuyến đi về hướng tây ấy, chúng tôi có bị trôi lệch lên phía bắc hay xuống phía nam, thì cũng không thể nào sai lệch đến mức không chạm được vào một trong vô số đảo thuộc chuỗi quần đảo kéo dài nhiều độ vĩ, cả hai bên đường xích đạo, và trải ra ngay trên tuyến hải hành của chúng tôi.

          Vì cùng một lẽ tương tự, chuyện trên đường đi của mình, chúng tôi có biết được kinh độ của mình mỗi ngày hay không cũng không quan trọng lắm, vì chẳng có đất liền giữa chúng tôi và nơi muốn đến. Vậy còn gì rõ ràng hơn nữa, rằng nếu chúng tôi kiên nhẫn giữ đúng đường hướng về phía tây thì rồi thế nào chúng tôi cũng phải đến được nơi muốn đến?

          Còn về những chướng ngại như những chỗ nước nông và đá ngầm, nếu có gặp phải, chúng cũng chẳng dọa được chúng tôi. Trên một chiếc thuyền có mức chìm cách mặt nước vài tấc, chỉ một người canh gác lơ mơ cũng tránh được mọi nguy hiểm về điểm này. Trong mọi trường hợp, điều này nghe cũng đủ xuôi tai, chưa kể lòng tôn thờ mê tín của ông già Jarl với mấy món dụng cụ hàng hải, và những phản đối triết lý có lẽ đã được thúc đẩy bởi một môn đệ thông thái rởm của Mercator.

          Rất thường, như châm ngôn có câu, những điều giản dị nhất lại là những điều gây sửng sốt nhất, cả vì chính sự giản dị của chúng. Cho nên đừng ấp ủ những lo sợ, không thì chúng ta đã nói với vầng mặt trời lặn:  “Này hoa tiêu già, hãy là người dẫn đường cho chúng tôi!”

 

CHƯƠNG V

CHỖ ĐÃ CHẮC VÀ HÀNH TRANG ĐÃ SOẠN

 

          Ấy vậy mà kính lục phân và thước đo góc lại là những chuyện chúng tôi ít quan tâm nhất.

         Ngay bên dưới những vòm cung chân mày của ba chục người - lão thuyền trưởng, các thuyền phó và thủy thủ đoàn, một cái thuyền sẽ bị thuổng đi; bọn họ chẳng biết tí ti gì về phi vụ này, tới khi nào biết rõ rành thì đã vô ích rồi.

          Này nhé:

          Trên biển, những thuyền trên một tàu Miền Nam[13] (thường là có bốn thuyền, không tính thuyền dư) được treo bằng các pa-lăng, mắc bên trên vào những khúc gỗ đẽo cong gọi là các “cần cẩu”, được cố định thẳng đứng vào mạn tàu.

          Khi ấy, không một tiểu thư tóc vàng nào được trông chừng sát sao hay được sửa soạn kỹ lưỡng dưới bàn tay các hầu gái cho bằng con thuyền săn cá voi nhỏ nhoi dưới bàn tay các thủy thủ đoàn. Và ở ngoài môi trường quen thuộc, nó dường như đủ yếu ớt để biện minh cho mối quan tâm lo lắng tột bậc này. Vì đúng là như một quý cô, quý thuyền săn cá voi cũng mỏng manh nhất khi phải để không chẳng dùng, dẫu rằng khi cần đến thì cũng bẽn lẽn chút đỉnh.

          Ngoài các “cần cẩu”, các vật đỡ sau đây cũng được chuẩn bị. Hai thanh ngang nhỏ đung đưa bên dưới sống thuyền, làm các điểm gác cho nó, giữ cho phần giữa của thuyền ổn định khi treo lơ lửng ở đằng mũi và lái tàu. Một chiếc đai gai dầu bản rộng, thường được gia công theo kiểu rất nhã, cũng được quấn quanh hai bên mép mạn và được cố định vào mạn tàu, buộc chắc con thuyền vào đúng chỗ. Được nâng cao lên khỏi lan can tàu, từ trên boong ở đâu cũng thấy các thuyền rõ rành rành.

          Giờ thì một trong những thuyền ấy sắp được thuổng đi đấy. Chẳng hề là chuyện dễ, thật luôn. Còn khó khăn hơn việc một tên lính Thổ tinh nhuệ bỏ trốn cùng một sủng nương từ hậu cung vua Đại Thổ. Nhưng, việc này vẫn có thể làm được thôi, vì, ối chà, người ta từng làm thế mà.

          Hay là lúc ban ngày ta khéo vờ vặn cho lỏng rồi khi tối trời, tháo đai neo tàu? Nhưng làm sao để thả dây cho thấp, ngay trong cái đêm tối tăm nhất, mà không gây ra một tiếng cót két đáng sợ hơn tiếng nấc hấp hối? Dễ ấy mà. Chỉ việc thoa dầu vào các dây, và chúng sẽ chuyển động gọn ghẽ thông qua những cuốn dây vi tế của ròng rọc.

          Nhưng dù cho tôi có theo đuổi kế hoạch này thì vẫn có một mức độ rủi ro ở đấy, suy cho cùng, là thứ tôi chẳng ham. Tôi mới nghĩ ra một kế khác - táo bạo hơn và do đó an toàn hơn. Đó là gì, rồi ta sẽ biết.

          Khi đang chọn lấy một con thuyền cho chuyến hải trình ra trò này, tôi phát ngất vì phải đi dọc boong tàu và dòm ngó mấy con thuyền y như một sĩ quan đang chọn ngựa nòi từ một trại ngựa giống hạng ưu. Nhưng điều này không cho phép tôi. Và chiếc “thuyền mũi” cố nhiên được tuyển chọn, vì là chiếc xa boong lái hơn cả, vốn là miền của những con mắt tinh tường và những ý chí thao thức.

          Kế đến, tôi nghĩ tới kho thực phẩm với một nguồn trữ nước dư dật: cũng là thứ cuối cùng tôi nhất định làm cho thật chu đáo. Chỉ có hai miệng ăn phải lo nhưng tôi tính dựa vào trữ lượng thịt và nước đủ dùng cho bốn người; hai miệng ăn thêm vào ấy chỉ mang tính tưởng tượng thôi. Và khi chẳng còn thứ gì nữa, chúng tôi cũng chẳng sợ, ngoại trừ việc cái thằng tôi có thể là thức ăn cho ai ngoài Jarl đây.

          Chẳng nên mất nhiều thời gian lo cho trại ăn ấy của chúng tôi. Bánh quy và bò muối là nguồn lương thực duy nhất, và đội ơn lòng rộng rãi của các chủ tàu Arcturion mà đoàn thủy thủ chúng tôi được nguồn cung dồi dào. Thùng tô-nô cho hai người, đã tháo nắp, sẵn sàng phục vụ tất cả. Chúng tôi đã gói ghém đủ lượng bánh quy, cho vào các túi, được cất riêng ra và giấu kín đáo ở một góc dễ lấy. Thịt bò muối thì khó thủ hơn nhưng, từng chút một, chúng tôi cũng xoay xở tuồn ra thùng tô-nô đủ để đáp ứng dự định.

          Còn về phần nước sạch, thật may vì một hai hôm trước người ta mới kéo lên mấy “thùng nhỏ” dành cho việc tiêu thụ nước lúc này của đoàn thủy thủ.

          Các “thùng nhỏ” này là các thùng tô-nô thon dài rất chắc. Có nhiều loại đường kính khác nhau và chúng được xếp gọn vào giữa các thùng khổng lồ trong hầm tàu. 

          Thùng to nhất chúng tôi có thể tìm được thì đã chọn xong, ban đầu là cẩn trọng kiểm tra xem có bất kỳ dấu hiệu rò rỉ nào không. Lấy cớ này cớ nọ, chúng tôi lăn chúng đến tận phía bên kia của con tàu nơi con thuyền của mình đang treo, còn thùng nước thì được xếp gọn vào ở giữa.

          Tủ quần áo sơ sài của chúng tôi được gói gọn thành các bó và đặt tạm sang bên. Và cuối cùng, bởi tính cẩn trọng chính đáng, chúng tôi sắp xếp mọi thứ trước xuất phát điểm chung cuộc. Cũng xin nói thêm - có lẽ cũng là lời khen cho Jarl - rằng hễ khi nào cần đến sự khôn khéo thì ông lại tỏ ra không được thoải mái, và phần lớn mọi chuyện đều để tôi toàn quyền định liệu. May là ông đã như thế bởi như đã nói, ông có cái tính thành thật non cơ, đã một hai lần thiếu điều để lộ hết thảy. Thực vậy, có lần ông thành thực quá mức cần thiết, khiến tôi, lạ thay, suýt nữa ngờ rằng ông đang giở cái lối quan tâm kỳ quặc kiểu những nhà từ thiện: khi mọi cách khác đều thất bại, họ sẽ cố tình phá hoại một kế hoạch (mà họ cho là dở), bằng cách giả vờ vụng về tỏ ra đang giúp đỡ cho nó. Nhưng không có ám chỉ gì đâu, Jarl là một người Viking, bộc trực như bậc tổ phụ ông, dù không giỏi chuyện quỷ quyệt mưu mô.

CHƯƠNG VI

TÁM TIẾNG CHUÔNG

 

          Hẳn là mặt trăng phải cực kỳ e ấp, hoặc mọi việc tự nhiên diễn ra đúng lúc, hoặc cũng có thể bọn phiêu lưu ban đêm thường tra cứu lịch thiên văn; bởi sự thể là những lúc nữ thần Cynthia tỏ cho xem chiếc đĩa tròn trĩnh thì hiếm khi người ta dám làm điều gì táo bạo. Dẫu vậy, cũng không thể phủ nhận rằng vào những đêm sáng trăng, những tráp nữ trang và trái tim trinh nữ đã bị đào ngạch đột nhập và lục lọi, vì lý do gì thì đến cả Copernicus cũng chẳng nói được.

          Hành tinh hòa nhã ấy đang vào quý cuối cùng của năm và trên chiếc sừng khuyết của nó tôi treo hy vọng sẽ rời khỏi con tàu không để lại một dấu vết.

          Lúc bấy giờ, đang khi lặng lẽ vượt đại dương, chúng tôi vào khoảng thời gian mà các tay săn cá voi gọi là “phiên canh thuyền”. Nghĩa là, thay vì chia thủy thủ thành hai tốp vào ban đêm - cứ bốn tiếng thì có người thay phiên lên boong, thì ở đó có bốn phiên, mỗi phiên gồm một đội canh thuyền, “đội trưởng” (luôn luôn là thuyền phó) thì ta không tính. Về phần các sĩ quan, kế hoạch này mang đến giấc ngủ không gián đoạn - “trọn đêm” theo cách thường gọi và tất nhiên là làm nhẹ bớt nghĩa vụ của thủy thủ đoàn nhiều lắm.

          Các thợ phóng lao đứng đầu đội canh thuyền và chịu trách nhiệm trên tàu khi phiên canh của họ kéo dài.

          Lúc này, ông Viking - vốn là một thủy thủ vạm vỡ- kéo mái chèo ở phần giữa con thuyền mà tôi sẽ là người quan sát ở mũi thuyền. Chúng tôi gác chung một phiên cùng với ba người khác, gồm Mark, thợ phóng lao. Một người trong nhóm thủy thủ, tuy vậy, là một người tàn phế, vậy chỉ còn hai người để chúng tôi xử lý.

          Đi tàu qua các vùng biển này, bạn có thể dong buồm cả mấy tuần liền vững vàng vô cùng, hầu như vô lăng lái chẳng nhích lấy một nan, quá ôn hòa và ổn định chính là những cơn gió Mậu Dịch. Đến đêm, phiên canh ít khi làm khó dễ người canh gác; nhất là khi một cánh buồm xa lạ hầu như là chuyện phi thường ở những vùng biển hẻo lánh này. Trên một số tàu, từ tuần này qua tuần nọ, bạn hoang mang chẳng biết khi nào thực sự đến lượt mình canh đêm; không ai để tâm chút gì đến chuyện đứng gác, trên giấy tờ tưởng là đảm bảo an toàn, nhưng hầu như ai cũng gật gù không hề lo sợ.

          Nhưng một thợ săn cá voi chểnh mảng cứ việc cẩu thả trong phiên canh thuyền của mình, còn người đứng đầu thì phải ở nguyên vị trí trên boong lái, tới khi được đổi phiên theo đúng kế hoạch. Mà cơn ngủ gật chẳng chừa bất kỳ loại người nào, ngay cả Napoleon - đã chợp mắt bên viên lính gác của ông trong doanh trại phủ tuyết; cũng vậy, dù dưới vầng trăng phủ tuyết, hay vầng nhật thực gỗ mun, Mark, thợ phóng lao của chúng tôi, vẫn chợp một giấc như thường. Tạm gác lại phần việc vào đêm đầy ân phúc này, tôi nghĩ, để khi vào lúc buổi sáng trước phi vụ của chúng tôi, tôi sẽ để mắt xem kẻ nào có khả năng sẽ ngáng đường mình.

          Nhưng để tôi đến gần hơn đoạn này của câu chuyện[14]. Những lúc ngoài khơi thường có các phiên “canh sói” (từ bốn giờ đến tám giờ tối), các thủy thủ còn khá năng nổ và hay đùa nghịch; tinh thần của họ còn dạt xa đến tận phiên đầu của những phiên “canh đêm” dài; nhưng khi “tám tiếng chuông” báo hiệu kết phiên (nửa đêm) thì sự tĩnh mịch bắt đầu bao trùm; nếu bạn có nghe một giọng nói nào, ấy chẳng phải giọng thiên thần đâu: nhưng hết thảy những tiếng la lên đều là những tiếng nguyền rủa đấy.

          Vào lúc tám tiếng chuông, các thủy thủ trên boong, khi ấy được giải thoát khỏi những lo âu, bò ra khỏi các sào huyệt ngái ngủ của mình trong những áo khoác chẽn cũ rích hoặc các cuộn dây buồm, rồi chóng bước trở về võng, hầu như không làm đứt quãng giấc mơ, đang khi những lãn hán bên dưới uể oải lê lết lên thang để tiếp tục giấc ngủ của họ ngoài trời.

          Vì những lý do ấy, biển không trăng nửa đêm quả là lúc để đào tẩu. Thành thử, chúng tôi khốn đốn cả một ngày trôi qua chẳng có việc gì làm; chờ đêm về, vào phiên canh-thuyền-boong-mạn-phải, mà chúng tôi chịu trách nhiệm, sẽ được gọi lên boong vào lúc tám chuông trọng yếu.

          Cứ thế hai mươi bốn tiếng đồng hồ đã nhanh chóng lướt đi và “Bớ canh mạn phải, lên boong! tám chuông dưới kia rồi!” cuối cùng cũng làm tôi giật mình khỏi giấc ngủ không yên. 

          Tôi bật dậy khỏi cái võng của mình, và chắc là đã châm tẩu hút. Nhưng đèn boong mũi đã tắt ngấm. Một tay thủy thủ lão luyện đang nói chuyện về cá mập trong giấc ngủ. Jarl và bạn đồng gác cô độc của chúng ta thì đang dò dẫm mặc cho được cái quần. Và chúng tôi chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng ầm ù của những cánh buồm bất động trên cao; những đợt sóng vỗ vào mũi tàu và tiếng thở sâu của các thủy thủ đang say giấc nồng chung quanh.

 

CHƯƠNG VII

MỘT KHOẢNG NGỪNG

         

Acturion yêu dấu! Con tàu mẹ, đã ru ta quá thường trong lòng gỗ sồi của mi, ta đau lòng xót thương mà rằng ta đã bỏ rơi mi giữa lòng biển khơi bao la làm sao. Ở quá xa quê nhà, với đoàn người tạp nham, quá nhiều dân đảo, mà những lúng ba lúng búng ngoại giáo của họ văng vẳng khắp thân tàu Ki-tô giáo của mi, hẳn đã xát nạo ác nghiệt trên mỗi xà trần.

          Tàu thương! hồn ma lẻ loi của mi giờ đang giong buồm đi đâu? Bởi ta chưa từng nghe tin gì về Arcturion quả cảm, từ cái giờ tối tăm chúng ta đi khỏi những ván tàu định mệnh ấy. Vào giờ giông bão nhất nào những con mòng biển đã gào lên, những xoáy nước chết đuối làm phần việc của nó, chẳng cần biết kẻ người trần mắt thịt nào. Con tàu lặng lẽ chìm, bất lực, xuống những vực thẳm lặng yên của biển hè năm ấy, bị những lưỡi gươm cá kiếm tàn nhẫn sát hại? Những chuyện như vậy đã từng xảy ra. Hay là con tàu có số phận khá khẩm hơn? Bị đánh gục khi đang dũng cảm chiến đấu với gió lớn; các buồm bão đã giương xong; vô lăng lái đã có người cầm và mỗi thủy thủ đều ở đúng chỗ mình, như tàu Ong Bắp Cày đã chìm xuống, mang theo người của nó ở các boong tàu, trong một cơn bão xa xăm nào đó.

          Nhưng phỏng đoán thôi thì không có căn cứ. Một con tàu lâu đời, hẳn nó đã đắm hoặc đặt hài cốt mình trên một rạn san hô nguy hiểm; nhưng cũng như mọi kẻ lang thang, số phận của nó là bí ẩn.

          Cầu Trời, xin cho linh hồn con tàu biệt vô âm tín ấy lang thang ngoài biển qua những mù khơi đêm tối bão bùng - như một thủy thủ già có niềm tin vào những con tàu mất tích - sẽ không bao giờ ám lấy con đường tương lai của ta trên những ngọn sóng. Mong con tàu yên nghỉ dưới đáy đại dương; và các bạn tàu của ta sẽ ngủ   yên trong vùng nước sâu nhất, nơi những con cá mập rình mồi chẳng xuất hiện, những ngọn sóng cồn chẳng cuộn lên.

          Khi chúng tôi bỏ tàu Arcturion, Jarl và tôi bất giác lảng tránh một mộ phần thủy thủ. Chúng tôi có nghe về những sự giải thoát do ý trời. Phải nó chăng? Nhưng cuộc sống tất thảy ngọt ngào với tất cả ra sao thì cái chết lại khó khăn thế ấy. Và về phần tôi, tôi suýt bị cám dỗ đi treo đầu mình để thoát khỏi số phận của các bạn thuyền tôi; một điều gì đó như người từng đỏ mặt vì đã thoát khỏi cuộc tàn sát ác liệt tại Thermopylae.

          Dẫu tôi không thể nén được cơn rùng mình khi nghĩ đến hồi kết của con tàu già ấy, tôi vẫn không thể nào tưởng tượng nổi việc chúng tôi rời bỏ nó lại có thể là nguyên nhân dẫn đến sự diệt vong của nó. Dẫu sao, tôi cầu Chúa cho Arcturion vẫn còn lênh đênh trên biển; để tôi được một lần nữa đặt chân lên những boong tàu quen thuộc của nó.

CHƯƠNG VIII

HỌ ĐUỔI THEO, VELIS ET REMIS[15]

         

Và bây giờ ta sẽ nghe kể, khi bị cám dỗ bởi ma quỷ hay thiên thần, cùng một ngàn dặm cách đất liền, chúng tôi đã bước vào cuộc hải trình hướng về phía tây ra sao.

          Xin nhớ cho, lúc chúng tôi bắt đầu phiên gác thì đã là nửa đêm; và đến lượt tôi cầm lái thì dĩ nhiên phải tìm cách tránh. Dựa vào một cái cớ có vẻ hợp lý, tôi thuyết phục được gã đồng gác cô độc đảm nhiệm việc này; nhờ vậy tôi vừa được rảnh tay, lại vừa khéo sắp xếp cho gã khuất mắt. Vì là một gã béo ú, tọng “bánh nho khô” như hạm và vốn được cho là con trai một lão nông dân, tôi chắc chắn hắn sẽ theo lối cũ và khởi sự gật gù bên vô lăng lái. Và về phần đội trưởng của phiên canh - thợ phóng lao - hắn thừa kế đống khoác chẽn cũ mèm làm tổ ngủ cho mình, ở mạn phía gió của cột buồm lái, được người tiền nhiệm để lại cho thật ấm thật êm.

          Trời còn tối hơn so với chúng tôi dự tính, chẳng có lấy một vết trăng; và làn khói tím thẫm, đôi khi bắt gặp lúc dạ vãn gần đường xích đạo, đã che khuất hờ những vì sao.

          Trong khi chờ tầm hai chục phút cho tới khi người cuối của phiên trước đi xuống, tôi ra hiệu cho Jarl, và chúng tôi cởi giày. Thế rồi ông tuột xuống boong mũi, và tôi thong thả đi từ đuôi tàu qua boong lái. Hết thảy đều tĩnh mịch. Ba lần tôi quơ tay trước mặt gã bị thịt đang say ngủ ngay vô lăng lái, và ngay giữa hắn và ánh đèn của la bàn từ.

          Mark, thợ phóng lao, thì không hề dễ ngủ. Tôi sợ lại gần hắn. Tuy vậy, hắn nằm yên lặng; nhưng dù là ngủ hay thức thì cũng không thể chậm trễ thêm nữa. Liều cũng phải làm, khi thời gian thúc bách. Và khi đôi tai chúng ta như tai của những con chó săn chỉ điểm để bắt âm.

          Chúng tôi vào việc, chẳng vội vàng nhưng nhanh gọn êm ru. Các trữ hàng nhiều loại của chúng tôi thì được kéo từ các chỗ giấu kín, rồi được đưa lên thuyền, treo trên mạn dưới gió của tàu, bên mạn hướng xuống biển, một điều không thể thiếu trong nỗ lực trốn thoát. Và dù vào lúc mặt trời lặn, con thuyền vẫn ở bên mạn xuôi gió nhưng, như chúng tôi đã lường trước, các buồm của tàu đã đổi hướng trong phiên canh đêm, cho nên mạn đã ở dưới gió[16].

          Với nỗ lực khiêng thùng tô-nô nước đóng vụng và nâng nó lên thuyền, chúng tôi thấy, vì bị giàn dây níu cản trở, chẳng thể xong việc mà không gây ra tiếng động; đã vậy sẽ không tốt cho thuyền khi hạ thủy. Tuy vậy, vào giờ chót, một kế sách đã được nghĩ ra. Buộc một sợi dây dài vào thùng tô-nô, vốn đã được bịt kín hoàn hảo, chúng tôi thận trọng thả nó qua mạn tàu, thả đủ dây để đuôi tàu kéo theo nó cho chắc chắn, cũng để không bị va vào lớp đồng ở thân tàu. Đầu còn lại của dây thì chúng tôi cố định vào đuôi thuyền. 

          May thay, chỉ còn làm mỗi việc này là xong; còn về thùng tô-nô thì làm cản trở cho đường đi của tàu dưới nước, ảnh hưởng bộ phận lái đến nỗi hất tàu lên thấy rõ trong gió. Và vì làm cho bánh lái hoạt động, điều này nhanh chóng đánh thức gã bị thịt đang đóng quân tại đấy, nếu hắn còn chưa tỉnh ngủ. Việc chúng tôi thả thùng xuống biển thực ra lại giúp ích rất nhiều: nó làm giảm tốc độ tiến của con tàu - mà vốn dĩ suốt đêm cũng không mấy nhanh, do gió nhẹ. Nếu con tàu mà tiến nhanh, thì mọi hy vọng trốn thoát mà không buộc nó phải dừng lại trước tiên hẳn đã là chuyện điên rồ. Sự thể đã vậy, việc táo bạo duy nhất đêm ấy cũng đã làm xong, đó là hạ thủy khi con tàu hãy còn rẽ làn nước mặn, nhưng chỉ ở mức độ vừa phải.

          Tất cả bây giờ đã sẵn sàng: các cần trục đung đưa, các dây buộc lỏng ra, và con thuyền treo lơ lửng; khi ấy, nắm lấy các đầu dây pa-lăng, chúng tôi lặng lẽ bước lên thuyền, mỗi người một đầu. Trọng tải của thùng tô-nô phía đuôi tàu giờ kéo con tàu theo chiều ngang, để cho các sợi dây pa-lăng của tàu căng cứng. Nó rung lên như một con cá heo. Song, chẳng sợ tiếng ùm văng lên khi con thuyền ào xuống nước, chúng tôi rời khỏi tàu gần như lặng lẽ như hơi thở rời khỏi thân xác. Nhưng việc này không bàn tới, và chúng tôi lập kế hoạch sao cho phù hợp.

          “Sẵn sàng hết chưa, Jarl?”

          “Sẵn sàng.”

          “Có người xuống biển!” Tôi gào qua chiếc la bàn; và những sợi dây thừng trượt như chớp khỏi bàn tay phồng rộp của chúng tôi cùng một cú lao mạnh con thuyền vỗ vào lưng biển. Một cú quay và lao giật, một lực kéo căng khủng khiếp trên các pa-lăng khi chúng tôi chìm vào rãnh sóng, được chiếc thùng tô-nô kéo giật lại, và con dao của chúng tôi cắt đứt các dây pa-lăng - chúng tôi không mạo hiểm tháo ròng rọc - các mái chèo đã sẵn sàng, và con thuyền đổi hướng, với mũi thuyền ở mạn dưới gió.

          “Có người xuống biển!” bấy giờ có tiếng la từ mũi đến đuôi. Ngay lập tức chúng tôi nghe tiếng thình thịnh và la hét bàng hoàng của các thủy thủ, khi họ lao ra khỏi những cơn mơ vào bóng đêm bí hiểm.

          “Có người xuống biển! Có người xuống biển!” Lòng tôi cắn rứt khi nghe tiếng thét kinh sợ của con người văng vẳng từ vòm trời đêm.

          “Hạ lái!” được thuyền phó nhanh chóng thốt ra. “Chằng lại xà buồm chính! Nhanh chóng ra thuyền! Chuyện này là thế nào? Một người xuống biển rồi? Được lắm! Cứ chờ đấy, lên các thuyền còn lại!”

           Trong lúc đó các thủy thủ vừa gào vừa kéo căng các dây căng buồm.

          “Cắt! Cắt hết! Hạ thấp xuống! Hạ thấp xuống! các thủy thủ mất bình tĩnh gào lên, những người đã vọt sẵn vào các thuyền.

          “Dừng tàu, và giữ vững mọi thứ,” thuyền trưởng la lớn, rõ là vừa phóng lên trên boong. “Một thuyền đi theo đủ rồi. Phục vụ đâu! Soi đèn từ cột đỉnh buồm lái. Bớ thuyền! Bắt được tên đó chưa?”

          Không có tiếng trả lời. Giọng ấy vang ra từ một đám mây; con tàu trông mờ mờ như một bóng ma. Chúng tôi đã thôi chèo, và lúc này tay liền tay kéo sợi dây thừng buộc chiếc thùng tô-nô, cũng được chúng tôi cũng nâng lên thuyền liền sau đó, chúng tôi trở lại với các mái chèo.

          “Chèo đi! Chèo đi, các anh em! Và đưa hắn về!” lần nữa thuyền trưởng gào lên.

          “Dạ, dạ, sếp ơi,” Jarl trả lời theo quán tính, “chèo cật lực hết sức sếp ơi.”

          Và chúng tôi đã chèo, đến chừng chẳng còn nghe thấy gì từ con tàu ngoài tiếng nhôn nhao rối ren; và, chốc chốc, tiếng gào khản của lão thuyền trưởng, đã quá xa để nghe ra.

          Lúc này chúng tôi giương buồm đón làn gió nhẹ; thẳng vào bóng đêm và chết điếng ở mạn dưới gió, chúng tôi vừa chèo vừa giong buồm tới khi hừng đông ló dạng.

 

CHƯƠNG IX

TOÀN BỘ THẾ GIỚI NƯỚC TRƯỚC MẮT

         

Ở ngoài khơi cùng một chiếc thuyền không mui, và cả ngàn dặm cách xa đất liền!

          Không lâu ngay sau lúc rạng đông, dưới làn ánh sáng xám trong, một đốm chấm bên mạn xuôi gió làm ngắt ngang đường chân trời. Chính là con tàu đang hướng về đông bắc.

          Giả như tôi không biết đến sự thờ ơ cuối cùng của các thủy thủ trước những tai họa như tai họa mà hẳn thủy thủ đoàn tàu Arcturion đã gán cho đêm hôm trước (trừ phi thuyền trưởng không ngờ được sự thật), hẳn tôi đã nhìn cái chấm nhỏ kia với bao áy náy trong lòng. Nhưng ngay cả trong hoàn cảnh như vậy, tôi cũng chẳng thấy tâm trạng mình được yên ổn cho lắm. Bởi lẽ ý thức rằng người ta tưởng mình đã chết cũng gần như cái cảm giác khó chịu tột cùng của việc chết thật. Người ta cảm thấy phần hồn mình dám ở trọ trái phép trong một cái xác quá cố. Ngay cả cái liếc của Jarl cũng mang vẻ kỳ quặc, đến mức tôi van ông nhìn đi chỗ khác cho.

          Giờ đây đã hoàn toàn thoát khỏi mọi nỗ lực của thuyền trưởng nhằm cứu những kẻ mà ông hẳn tin là đã mất; và cũng hoàn toàn bị cắt đứt khỏi mọi hy vọng quay trở lại con tàu, ngay cả nếu chúng tôi có ý muốn thế đi chăng nữa, cái quyết tâm đã nâng đỡ tôi bấy lâu bắt đầu chịu thua cảnh cô độc khủng khiếp. Trước đó, tôi xem đại dương như một tên nô lệ, con chiến mã con chiến mã chở tôi đến bất kỳ đâu tôi muốn, và dù hùng mạnh, thường tỏ ra vô hại khi đối nghịch với cái khôn loài người. Vậy mà giờ đây lại thay đổi làm sao! Trên con thuyền yếu đuối của mình, tôi sẵn lòng lập bàn thờ kính Thần Hải Dương.

          Chúng tôi quả là một thứ đồ chơi nhỏ nhoi đối với những ngọn sóng dồi, đang giễu nhạo hích vai chuyền chúng tôi từ ngọn này đến ngọn kia, như tay chuyền tay những linh hồn mất tích có lẽ đã bị quăng dọc theo chuỗi xích vong hồn lia đường xuống vực Tartarus.

          Nhưng đuối hay bơi thì lo lắng ta cũng cho xuống biển hết! Vui lên, Jarl! Ha! ha! vui thay, nhưng cũng ghê gớm thay, chúng ta giong buồm! Lên, lên - lên từ từ - ì ạch leo lên ngọn sóng vừa dài vừa lặng rồi thăng bằng trên đỉnh sóng chút đỉnh, như một tấm ván trên đường ray; và xuống, chúng tôi liều lĩnh lao vào vực thẳm xáo động cho đến khi bị chặn lại, rồi chúng tôi lại lướt lên. Và cứ thế chúng tôi đi. Khi ấy bị chôn trong những lòng chảo nước, buồm của chúng tôi lười nhác vỗ cánh rồi lại nâng lên - tấm bạt bọc đầy bụng gió, và ngắm nhìn chân trời xa nhất.

          Nếu không nhờ đã quá quen thuộc với nghề săn cá voi khiến ta chai lì trước những chuyển động hoang dại ban đầu của con thuyền, hẳn chúng tôi sẽ là một cặp thảm thương. Nhưng cả ngày chèo theo mấy con cá voi khi con tàu bỏ lại phía sau hàng dặm và trọn những đêm đen trôi qua được buộc chặt vào những con quái vật, bị giết quá muộn màng để bị kéo về tàu cách xa mạn dưới gió: toàn bộ điều này và hơn thế nữa khiến người ta tập quen với những dị kỳ. Cái chết, chắc chắn, có miệng đen như miệng sói, và bị đẩy vào hai hàm của nó quả là một chuyện nghiêm trọng. Nhưng thực tình đúng là như thế - và tôi nói chẳng dựa vào lời người ta đồn - rằng với các thủy thủ nói chung, vị vua tàn bạo có vẻ không gớm ghiếc như với những ai chỉ thấy hắn từ trên bờ, và ở một khoảng cách tôn kính. Như những phàm nhân xấu xí, những nét của gã bớt dễ sợ khi quen biết; và khi gặp mặt xã giao thường xuyên - cách ngôn xưa giờ vẫn còn đúng - thì thân mật tạo ra sự coi khinh. Điều này cũng đúng với những người lính. Anh tân binh run sợ sau ba trận kích chiến đã thành lão pháo thủ dạn dày; kẻ từng co rúm trước miệng đại bác giờ sẵn sàng đem cả bộ ria đổi lấy một que chùi nòng.

          Và quả thực, vì cái chết là địch thủ cuối cùng của tất cả con người, những linh hồn can đảm sẽ trêu chọc nó khi có thể. Nhưng thay vì vậy, những người khôn ngoan nên xem nó là người bạn cứng rắn, người mà, ngay cả khi trái nghịch với ý muốn của chính chúng ta, sẽ vui mừng thắng lợi giải thoát ta khỏi những sự dữ trong đời.

          Và đây là đôi chút khác biệt trong cách chết. Chết thì ai cũng phải. Và cái chết đã luôn được can đảm đối mặt bởi những người chưa bao giờ nhìn thấy màu đỏ của máu, ngoại trừ màu lam hiện qua tĩnh mạch. Và hãnh diện giao nộp linh hồn, cùng hành quân khỏi pháo đài của mình với hết thảy những danh dự chiến trường, đấy chẳng phải là vấn đề cơ bắp và xương cốt. Dẫu có ngồi tù, Geoffry Hudson, anh lùn, vẫn chết anh dũng hơn cả Goliah, gã khổng lồ, và mong muốn cuối cùng của loài bướm làm hết thảy chúng ta hổ thẹn. Có những phụ nữ từng sống những cuộc sống cao quý hơn và chết những cái chết cao quý hơn so với đàn ông. Bị đe dọa đưa lên giàn hỏa thiêu, tổng giám mục Cranmer đã chối bỏ đức tin; nhưng qua nghị lực của nàng, góa phụ neo đơn thành Edessa vẫn chịu làn sóng bắt bớ của hoàng đế Valens. Chết với gươm trong tay, môi còn vênh vang, áo giáp che chắn toàn thân - ấy chẳng phải điều anh dũng gì to tát. Bởi vì ngay cả loài cá sấu cũng chết trong lớp thiết giáp của nó và loài cá kiếm chẳng bao giờ đầu hàng. Chỉ có cái chết êm ái, mắt hiền lành, trong chính giường của mình mới là cái chết siêu việt hơn cả cái chết của Epaminondas.

CHƯƠNG X

HỌ THU XẾP CÁC TÁN DÙ VÀ CHỖ NGHỈ NGƠI VÀ CỐ GẮNG LÀM CHO MỌI THỨ DỄ CHỊU

 

          Con thuyền nhỏ của chúng tôi sớm được đâu ra đấy. Từ dây neo buồm mang dư, chúng tôi làm thành giàn dây níu lên cột buồm và biến mấu thuyền thành thanh lèo tiện cho buồm tam giác. Căng rộng trước gió, chúng tôi giương lá buồm này ra hai bên tả hữu cùng lá buồm chính. Lá sau thì theo thể thức đi buồm của các thuyền săn cá voi thông thường, phối hợp với xà chéo và dây lèo. Nó có thể cuộn lại hoặc xếp gọn nhanh chóng. Các túi bánh mì thì chúng tôi đem giấu ở chỗ được che chắn kỹ gần banh nung hắc ín, mà giờ là một thứ phụ tùng vô ích nên đã được cất đi. Ban đêm thì Jarl lấy nó làm gối, bảo rằng khi thuyền nhấp nhô, nó mang lại một thú tiêu khiển êm dịu cho cái đầu. Chiếc thùng tô-nô quý giá thì chúng tôi buộc chặt giữa thuyền; theo cách ấy mà thuyền đi tốt hơn.

          Bấy giờ, trước khi rời tàu, chúng tôi đã kiểm tra kỹ lưỡng, rằng thuyền chúng tôi được trang bị hết thảy những đồ dùng mà, theo điều lệ ngư nghiệp, một con thuyền săn cá voi luôn được chuẩn bị đầy đủ: dù đêm hay ngày, nổi hay treo. Treo dọc theo mép mạn phía trong là sáu cây lao, ba cây xiên và một con dao xén; tất cả đều bén như lưỡi lam và được bọc da. Ngoài các dụng cụ này, chúng tôi còn có dăm ba món lặt vặt, đôi két nước hai ga-lông, vài chiếc gàu, rìu nhỏ để cắt dây câu cá voi, hai dao phụ cho mục đích tương tự, và vài vật thứ yếu nhỏ, cũng được dùng để săn con thủy quái. Dây câu và ống dây câu, song le, thì ở trên mạn tàu.

          Và ở đây có lẽ nên nhắc rằng, để khỏi bị căng khi thuyền treo bên mạn tàu, sợi dây câu cỡ lớn, dài trên hai trăm sải, và đường kính đâu đó hơn một inch, khi không dùng thì được giữ trên mạn tàu, cuộn lại như một con rắn vô tận nằm trong ống. Nhưng cái ống dây này thì luôn sẵn sàng được tải xuống thuyền. Giờ đây, chẳng có tác dụng gì cho dây câu của thuyền, chúng tôi cố tình để nó lại.

          Nhưng chúng tôi đã điểm tra kỹ rằng món quan trọng nhất trong mớ đồ đạc trên thuyền săn cá voi đã được buộc chặt gọn vào đúng chỗ. Đó là cái két chống nước, hai đầu đậy chắc chắn, gồm một la bàn nhỏ, mồi lửa và đá đánh lửa, nến và rất nhiều cây bánh quy. Cái két này là để phòng ngừa khỏi điều rất hay xảy ra khi đuổi theo cá nhà táng - đi xa tàu quá lâu, để mất dấu tàu, hoặc chẳng bao giờ thấy lại tàu nữa, tới khi nhiều năm sau khi về lại tới nhà. Cũng chính cái két ấy tựa như đóng thùng luôn cả sự sống và cái chết, ít ra là với Jarl thực thà. Ngay khi chúng tôi thoát hẳn khỏi tàu Arcturion, thả mái chèo chốc lát, thì ông đã chộp nó ngay trong đêm.

          Và khi ngày dần dần lên, chúng tôi đập vỡ nắp két bằng một chiếc búa và đục nhỏ luôn được gắn kèm theo cho mục đích đó và tháo chiếc la bàn lóng lánh như mắt người. Đoạn lấp chỗ còn trống bằng bánh quy, chúng tôi làm cho chặt, siết những đai két đến khi chúng không còn nhúc nhích nữa.

          Ban đầu chúng tôi loay hoay sửa la bàn. Nhưng sau rốt Ông Giời rút dao và rạch một lỗ tròn ngay ván ngồi, hoặc là chỗ ngồi trên thuyền, tại đó lắp chiếc hộp đồng thau chứa kim nhỏ nhắn.

          Qua đuôi thuyền, cùng với tấm buồm cũ mà ông Viking của tôi đã lường trước mang theo, chúng tôi trải xẵng một kiểu mái hắt, đúng hơn là tấm phủ giường. Việc này, ấy vậy, cho thấy chẳng có một tí nào bảo vệ khỏi mặt trời trừng trừng vì việc điều khiển lá buồm chính đã ngăn cản đáng kể bất kỳ che chắn nào dựng lên. Và khi mát gió, chúng tôi sẵn lòng dỡ xuống cả thảy; vì gió từ đuôi thuyền thổi tới và luồn phía dưới tấm bạt suýt nữa đã bật đuôi thuyền nhẹ lên không trung, khêu gan tấm phủ giường như thể chiếc váy lót phụ nữ đang rẽ góc đường giông gió. Nhưng khi một làn gió thoảng nhỏ nhẹ làm biển gợn lăn tăn và mặt trời thì hừng hực nóng, thú nhất là được nằm lười trong lều tị nạn rợp bóng này. Nó giống như là được đem từ nướng rang sang để nguội trong chạn. Và Jarl, thứ dã cầm gai góc nhất, lại chan chứa hảo tâm cho người đồng bạn của ông, ban ngày tình nguyện ở yên phơi nắng nơi đằng lái gần cả hai tiếng so với một tiếng của tôi. Ông chẳng e dè đài các gì, ông già Viking ấy, làm hư hại nước da của ông, vốn đã sẵn mang sắc thanh đồng. So với độ rám da thông thường ở thủy thủ, ông dường như được một chiếc mũi lưỡi trai sơn mài che chắn, chi chít những tàn nhang, vàng quá đỗi, và tròn cân đối, đến nỗi chúng có vẻ như được một thấu kính rọi nắng xém cháy.

          Những khi tâm trạng bi-hỉ-ối-a lúc này lúc kia choán lấy mình, tôi thường nhìn lên Ông Giời nâu với vẻ tự mãn khôi hài. Nếu chạm trán bọn mọi ăn thịt người, tôi nghĩ, thì - hỡi người Bắc Âu đã được quay chín sẵn kia - liệu tôi có sống sót để khóc thương ông chăng, trong lúc chính tôi đang xoay tròn trên cái xiên nướng.

          Nhưng về chuyện số phận, không cần phải nói lại rằng chúng ta đâu ai biết gì về tương lai.

CHƯƠNG XI

JARL MẮC CHỨNG CỨNG KHÍT HÀM

         

Nếu tôi được hạ thủy con thuyền săn cá voi khỏi tấm ván cong của con tàu trên biển một lần nữa, tôi sẽ liệu chừng cho thật cẩn thận, sẽ kiếm một đồng bạn thật hoạt bát, với một cái đầu huyên náo. Mong hắn đừng bao giờ ngu ngốc quá - cái sự ngu ngốc của hắn, miễn hắn năng nổ vì nó, thì còn du di được.

Đôi lúc, ai mà chẳng thích một gã rồ, một gã đần cứ khúc kha khúc khích bông đùa, có cái miệng cười toe toét chứ? Đấy chẳng phải là sự sắp đặt hợp lý của Đấng Quan Phòng để lấp đầy những trống trải vào những quãng đình đốn xã hội, làm nguôi bớt nỗi buồn chán của tồn tại hay sao? Chưa kể họ còn giúp, đây đó, rất nhiều người giữ được ảo tưởng tốt đẹp về chính mình. Dù đôi khi lời họ nhạt nhẽo như nước lã tráng lưỡi rượu ngà; dù với những tâm hồn thiếu ôn hòa và cáu bẳn, cái “bản mặt” của họ nhìn vào là muốn điên tiết, tiếng nói huyên thuyên họ nghe vào là muốn tự sát, ta cũng đừng khó khăn với họ; hãy để họ sống nhờ vào việc lành mà biết đâu họ sẽ làm.

          Ấy vậy mà này Jarl, Jarl ngu, Jarl thương, ông nào thuộc về đám người ấy. Ông mang bộ mặt tuồng như mặt thầy phó tế mắc vạ tuyệt thông. Bất kể sự gì xảy ra mặc lòng, ông vẫn cứ lối cũ xử sự. Lặng lẽ, ông đã suy đi nghĩ lại trên trục sáng suốt của ông, ở bên trong ông, như bàn quay trong cỗ máy cứ xoay vòng luôn mãi, dầu rằng ông có thật đã nhìn vào nó hay chăng. Này, Jarl! chẳng phải ông đang mải lo việc mà lắm kẻ sao lãng - việc của riêng ông ru? chẳng phải ông đang mải nghĩ về nó, mà chẳng có cơ may sẽ cuộn lại những lo toan thất thường của ông, và trải một lá buồm ổn định ru?

          Thế mà đôi lúc, những mơ mẩn không ngớt nơi người bạn đơn độc của tôi thật mệt nhọc với tôi biết bao. Tôi ao ước có điều gì đó mang sinh khí, một sự bật ra ngôn từ, tính hoạt bát con người thế này thế kia. Sau khi hoài công cố cạy ra một lời từ Jarl, tôi thử tự làm với chính mình, đùa giỡn với cái thân tôi như với một thứ nhạc cụ, hát hò, ới gọi và làm những cử chỉ trống rỗng, đến khi ông Viking của tôi trừng mắt nhìn thật hắc, và cái thằng tôi tạm ngưng để xét xem liệu mình có bị khùng điên gì chăng.

          Nhưng thanh minh cho sự nghiêm trọng của Ông Giời thế nào đây? Đã hẳn, nó chẳng dựa trên trầm mặc triết lý; ông không hề thuộc loại người lý tưởng chủ nghĩa, một kiến trúc sư trên không, một kỹ sư xây dựng những vòm bay. Chẳng thể tưởng tượng rằng các mơ mẩn của ông giống như vua Manfred và cao quý, gợi lại những chiến công không thể tả xiết bằng lời, quá bí ẩn ngay cả khi được biểu lộ nhờ vào những gợi ý xa xôi nhất. Mọi giả thuyết đều vô lý.

          Sự trầm ngâm của ông là một câu đố. Tôi lo lắng hỏi thăm ông liệu rằng, có nơi nào trên thế gian này, Savannah, Surat, hay Archangel, ông có một người vợ để nghĩ tới; hoặc là con cái, mà sao cái mặt ông dài thượt thế. Cũng không ở đâu sất. Thành thử, như lời ông thú nhận rằng ông chẳng nghĩ về ai trừ chính mình, và nơi ông cũng chẳng có gì nhiều ngoài lòng trung thực (mà chỉ với lòng trung thực ấy thôi người ta cũng có thể xem như ông đã đầy ắp rồi), tôi còn biết vin vào điều gì ngoài giả thuyết ban đầu: rằng trong lúc nghỉ ngơi, trí tuệ ông bước ra, và để mặc tấm thân ông một mình.

CHƯƠNG XII

THÊM CHUYỆN TRÊN THUYỀN KHÔNG MUI

 

          Vào sáng ngày thứ ba, khi trời hừng đông, tôi ngồi tại cây chèo lớn, một hai tiếng trước khi thay phiên Jarl, lúc này đang ngủ khò. Chẳng biết thế nào, bất thình lình một cảm giác nguy nan quá mãnh liệt đến với tôi, rằng thật khó mà làm trầm trọng thêm nỗi cô đơn trọn vẹn nhất.

          Ở trên boong tàu, cảm giác đơn thuần khi được nâng lên trên nước và tầm với của tiền đồ mà bạn chỉ huy mang cho bạn một mức độ tự tin khiến bạn hả hê vì sự an toàn tưởng tượng của mình. Nhưng khi ở trên một con thuyền không mui, bị hạ xuống mặt biển phẳng, cảm giác đó gần như là bị bỏ mặc hoàn toàn. Trừ khi các con sóng, trong những trò nhảy nhót nô giỡn của chúng, hất bạn lẫn cái mẩu gỗ của bạn lên các đỉnh sóng trịch thượng, mặt cầu thị giác của bạn chỉ hơi lớn hơn một chút so với khi ở đáy giếng. Tầm nhìn xa nhất của bạn, dù theo bất kỳ hướng nào, cũng chỉ là một mặt biển cao và lừ đừ cuộn sóng, khi bạn sa xuống những khoảng không mù sương, tăm tối, giữa những ngọn sóng lừng dài và đều. Thế rồi, ngay lúc ấy, như là đang ngước nhìn quanh trảng cỏ nhập nhoạng, vô tận, nơi hai khuôn rạng, mỗi rạng ở mỗi bên, tựa như đang vật lộn qua những đầu núi chất lỏng nửa trong suốt.

          Nhưng, nán lại không lâu trong những thung lũng yên ắng ấy, từ vách sóng đến vách sóng, con thuyền đơn độc của chúng tôi nhảy bật lên, một chú dê biển giữa dãy Alps!

          Đường chân trời dập dờn làm sao - như một con mãng xà khổng lồ cùng cả vạn khúc cuộn quấn quanh địa cầu này song lại rất gần, theo cách hiển nhiên, đến độ như thể bàn tay người ta có thể chạm đến nó.

          Quả là cô đơn; khi mặt trời mọc và tung vó lên tận thiên đường, chúng tôi chào mặt trời như một khách bộ hành chốn sa mạc Sahara thấy một bóng kỵ binh đằng xa. Ngoại trừ chúng tôi, mặt trời và Dê Biển có vẻ là toàn bộ những gì còn sót lại từ cuộc sống trong vũ trụ này. Chúng tôi khao khát hướng về phía cái đĩa vui tươi ấy, như trên những vùng đất lạ, người lữ khách chào mừng những khuôn mặt thân quen, gương mặt mà nơi quê cũ từng chẳng hề để tâm. Và chẳng phải mặt trời là bạn của người du hành sao? Chẳng phải cả hai chúng tôi đang đi về phía tây sao? Nhưng nó nhanh chóng đuổi kịp và vượt chúng tôi hằng ngày biết cỡ nào, vội vã đưa hành trình của nó đến hồi kết.

          Khi một tuần đã trôi qua, thuyền đi ổn định, ngày và đêm, và chẳng có gì trước mắt ngoài vẫn y cái biển ấy, thì có gì lạ đâu khi những suy nghĩ không yên lòng cuối cùng cũng bước vào tâm can chúng tôi? Nếu vô tình chúng tôi đi qua điểm đến mà, theo tính toán là nơi các đảo của chúng tôi trải dài, thì chúng tôi đang ở vùng biển vô bờ nào? Lắm phen, những điềm ấy làm nao núng cái ý nghĩ về vị trí các quần đảo ngoài kia. Mọi thứ trở nên mơ hồ và rối ren; thế nên về hướng tây các đảo Kingsmill và Radack, tôi tưởng ở đấy chẳng có gì ngoài một vùng biển vô tận.

CHƯƠNG XIII

VỀ LỚP CÁ SỤN, VÀ NHỮNG LOÀI KỲ DỊ KHÁC

TRÀN VÀO QUẤY PHÁ CÁC VÙNG BIỂN PHÍA NAM

 

          Đôi khi trong cuộc hải trình lẻ loi của chúng tôi, từng có những cảnh đã làm cho cảnh vật thêm đa dạng, nhất là khi chòm Song Ngư đang ở điểm hoàng đạo.

          Đấy là nghiên cứu thực vật trứ danh, họ nói, ở những thảo nguyên vùng Arkansas bát ngát; tôi xin gửi gắm sinh viên Ngành Ngư Học xuống một con thuyền không mui và những đồng hoang biển cả Thái Bình Dương. Khi con thuyền của bạn lướt đi thì những con quái vật biển lạ kỳ cũng lượn qua. Ở nơi khác, ta chẳng bao giờ được thấy thứ gì giống như chúng. Và chúng cũng chẳng ở bất kỳ đâu trong sách của các nhà tự nhiên học.

          Dẫu cho Mỹ Châu đã được khám phá, quận Cathays của biển sâu vẫn còn là bí ẩn. Và bất kỳ ai có vượt Thái Bình Dương hẳn đã đọc các bài đọc của Buffon. Con hải xà không phải là một chuyện hoang đường; và ở ngoài biển, thì rắn chỉ là một con sâu vườn. Trên đời có nhiều kỳ quan hơn những kỳ quan được người đời công nhận và nhiều cảnh tượng không được tiết lộ hơn bạn và tôi từng mơ về. Chuột chũi và dơi không thôi đã là những thứ đáng nghi, và sự bội tín đích thực duy nhất là để một con người đang sống tự bỏ phiếu chết cho chính mình. Ta lấy Sir Thomas Browne làm mẫu mực; người mà, đang khi làm tiêu tan “Những Lỗi Thô Tục,” đã chân thành ôm lấy hết thảy những mầu nhiệm trong Ngũ Thư.

          Nhưng kìa! hàng sải sâu dưới biển khơi, có nơi nào bạn từng thấy một bóng ma như thế? Một hình lưỡi liềm to tướng có gạc như một con tuần lộc, và một Đồng Bằng của những mồm những miệng. Nó chậm rãi chìm xuống, và chẳng còn được thấy nữa.

          Tiến sĩ Faust đã thấy quỷ; nhưng bạn đã thấy “Cá Đuối Quỷ”.

          Lại nữa kìa! Thêm một con khác đến. Jarl gọi nó là Cá Mập Xương. Con trưởng thành to cỡ một con cá voi, nó có đốm như báo và răng như ngà voi gối lên các hàm như những con hải mã. Với các thủy thủ, chẳng có gì gây kinh hoàng như khi ở cự li gần với một sinh vật thế này. Những con tàu lớn lái khỏi đường đi của nó. Và chúng nên thế, vì con tàu Essex xưa cùng những tàu khác, đã bị những con quái vật biển này đánh đắm, như loài cá sấu thọc cái mõm sừng của nó xuyên qua thuyền độc mộc Carribean.

          Thường trực với chúng tôi là nỗi lo sợ một tai họa bất thình lình từ những loài phi thường mà chúng tôi lướt qua gần như hàng giờ.

          Về phần cá mập, chúng tôi từng thấy chúng, chẳng phải từng con hay hàng chục, hàng trăm mà hàng ngàn hàng vạn. Hãy tin tôi, dưới biển có nhiều cá mập hơn người trần mắt thịt trên bờ.

          Và chó có bao nhiêu loại thì những con cá mắn đẻ ấy cũng bấy nhiêu. Các nhà tự nhiên học người Đức Müller và Henle, khi đặt tên thánh cho bọn cá mập, đã đặt cho chúng những cái tên ngoại đạo hơn cả; chúng được xếp cùng một họ với nhau - cái họ mà, theo Müller, tam thái chánh nhất phẩm, chắc chắn là một nhánh của tông Cá Sụn thượng cổ và tiếng tăm.

           Để bắt đầu. Ta có Cá Mập Nâu loại thường, hoặc là thầy cãi hải dương, như thủy thủ thường gọi: một kẻ xấc láo, tham lam, phàm ăn, mặc cho ăn đã những cú đập mạnh, vẫn thường kịch liệt đớp lấy cây chèo lớn của chúng tôi. Đôi khi những quý vị này bơi theo hàng đàn, nhất là quanh các phần thừa của một con cá voi bị thảm sát. Bọn chúng là những con kền kền của biển sâu.

          Chúng tôi cũng thường chạm trán Cá Mập Xanh đỏm dáng, một gã có cái mã dài, thon, mãnh, và nhã, với eo mảnh y như một cậu ấm phố Bond và hàm răng trắng nhất trần đời. Cái gã trai lơ khảnh ăn này luôn thong thả: cái vây vô tư, cái đuôi lười nhác. Thế mà chú ta lại trông nhẫn tâm như quỷ.

          Phong thái máu lạnh hào hoa ấy trông mới tương phản với cái vẻ ngông nghênh phũ phàng, man rợ của Cá Mập Hổ biết bao: một kẻ phàm ăn tròn trịa, béo tốt, với cái miệng phồng ưỡn và lương tâm suy đồi, lảng vảng đi tìm mồi để ngấu nghiến. Những kẻ hám ăn này là động vật ăn xác thối lính hải quân, bơi theo những con tàu ở các vùng biển Phía Nam, nhặt nhạnh những đầu thừa đuôi thẹo rác rưởi và thi thoảng được miếng mồi ngon, một thủy thủ trôi dạt. Thảo nào có chuyện các thủy thủ lên án chúng. Jarl có lần từng trấn an tôi rằng dẫu có gặp vận xui nhất thời thì cũng nên nhớ về một niềm an ủi ngọt ngào, rằng có thời ông đã từng thảm sát, không chỉ giết thôi, hàng đàn Cá Mập Hổ.

          Nhưng toàn bộ điều này là sai. Phải ghét cả thiên thần, nếu đã ghét cá mập. Cả hai được tạo ra dưới cùng một bàn tay. Và những con cá mập thì đáng yêu, chứng kiến những quý chuộng quốc nội. Chẳng Nữ Thần Báo Thù nào quá dữ tợn đến nỗi không có một khía cạnh hòa nhã. Ở chốn rừng rú hoang vu, một con báo mẹ âu yếm báo con, như Hagar với cậu Ishmael, hoặc một nữ hoàng Pháp với hoàng thái tử. Khi ghét, chúng ta đâu biết mình làm gì. Và tôi có lời của người bạn hào hoa Stanhope[17] để làm chứng cho điều ấy: rằng kẻ nào tuyên bố thích một người biết ghét cay ghét đắng thì, cùng lắm, cũng chỉ là một dạng Hottentot biết cư xử mà thôi. Không phải lời nhận xét gì quá thanh tao, dù xuất phát từ người đàn ông thanh tao nhất. Nhưng khi người đào bới từ điển thốt ra câu đó, chắc chắn ông ta chẳng phải là một tín đồ Kitô giáo cho ra hồn. Song, thật khó để một người từ bỏ thứ bệnh tưởng thuộc thể tạng như vậy để được đong đầy nhựa sống và sự hiền hòa của phúc âm. Nhưng, với lòng tôn trọng, tôi phủ nhận rằng ông bác già Johnson thực sự tin vào thứ tình cảm được gán cho ông. Yêu một kẻ ghét mình ư? Ai lại thấy ngon miệng khi nếm mật đắng? Trong khi sự ghét là một thứ vô ơn. Vậy nên, ta hãy chỉ ghét cái lòng ghét; và một khi cho tình yêu cơ hội thể hiện, người ta có thể yêu một con kỳ lân. A! điều dễ nhất lại là điều tốt nhất; và để ghét, người ta phải vất vả hơn. Tình yêu là niềm vui sướng; nhưng lòng ghét là một cực hình. Và những kẻ ganh ghét thì áp những cực hình vặn ốc ngón tay, bốt Scotch, và Tòa án dị giáo Tây Ban Nha lên chính họ. Gói gọn trong năm chữ -ước gì nó là một nguyên âm kép kiểu Xiêm - kẻ ghét là kẻ ngu.

          Trong vòng vài ngày, Dê Biển của chúng tôi bị đuổi theo bởi hai con Cá Mập Hổ đã nói ở trên. Một đôi thân tín bất ly bơi dọc theo đường rẽ nước của chúng tôi, sát bên mạn, như một cặp cướp cạn, nhẩn nha cho tới khi bạn đến các giao lộ. Nhưng rồi, thấy cuộc săn là vô ích, chúng đành bỏ cuộc, càng lúc càng xa về phía đuôi thuyền, đến khi hoàn toàn khuất mắt. Ông Giời lấy làm thất vọng lắm; ông đã đứng rất lâu ở đuôi thuyền, tay cầm sẵn cây xiên để phóng một cú.

          Nhưng trong hết thảy bọn cá mập này, bọn Cá Mập Trắng ghê khiếp thì tôi xin kiếu. Dẫu rằng chúng ta không nên ghét gì cả, nhưng những sự không thích thì luôn là bộc phát và sự không thích thì không phải là sự ghét. Và tôi chưa bao giờ ép bản thân mình yêu được, hay là thân thiện, với một con Cá Mập Trắng. Nó chẳng phải loại sinh vật giành được cảm tình của thanh niên.

          Cái thứ bóng ma cá ấy rất ít gặp và hiện rõ vào ban đêm hơn là ban ngày. Lối giống Timon[18], nó luôn bơi một mình, lượn ngay dưới mặt biển, để lộ một hình dáng dài, mờ, trắng sữa cùng hố răng trắng không đáy đôi lúc thoáng ẩn thoáng hiện. Nha sĩ, nó chẳng cần. Vào ban đêm, trông nó như một linh hồn âm thầm xuất hiện dưới nước, bề ngoài cứ lầm lầm lì lì khủng khiếp, con Cá Mập Trắng đã lắm phen gửi tới một cái rùng mình cho hai bọn tôi qua thuyền Dê Biển.

          Ngày đến, ở những vùng biển lặng sâu thẳm nhất, chúng tôi thường thấy chột dạ vì tiếng thở dài nặng nề của Cá Voi Grampus khi uể oải bơi lên bề mặt, chú lấy một hơi dài sau khi chợp mắt bên dưới.

          Hết lần này đến lần khác chúng tôi nhìn những con cá ngừ bạch tạng lao tới, bọn cá với tấm giáp phiến lá và những vảy vàng: vua Nimrod của các vùng biển, mà những con cá chuồn phải làm mồi cho. Khi bay khỏi những kẻ săn đuổi chúng, nhiều con bay cả lên thuyền chúng tôi. Thế mà chúng cứ vì một cú choáng mà lăn ra chết. Chẳng điều dưỡng nào có thể làm chúng hồi tỉnh được. Một trong những chiếc cánh thì tôi cắt bỏ, trải cho khô dưới một vật nặng. Trong vòng hai ngày là có miếng màng mỏng, khắp nơi có các đường vân như trên lá cây, trong suốt như thạch bóng cá và nhuốm những ánh màu rực rỡ, như lụa đổi màu.

          Hầu như mỗi ngày, chúng tôi rình Cá Voi Hoa Tiêu - đen như than và bóng nhẵn. Chúng dường như bơi bằng cách quay vòng vòng dưới nước, như một bánh xe; những vây lưng đôi khi chĩa ra như những nan hoa.

          Một loài có phần tương tự nhưng nhỏ hơn, mũi như gắn bộ xén, là bọn Cá Heo Cướp Biển; chúng được gọi vậy có lẽ vì thiên hướng cướp biển của chúng, rình những con cá ôn hòa trên những vùng biển khơi và cướp đi cả xác lẫn hồn chỉ bằng một ngụm. Bọn Thổ Tàn Ác! một cuộc thập tự chinh nên được giảng dạy chống lại bọn này.

          Ngoài những điều ấy, chúng tôi từng chạm trán Cá Voi Sát Thủ và Cá Voi Quất Đuôi, tới nay là những con hăng và “máu” nhất trong các tông loài có vây. Dù hơi lớn hơn cá heo chuột một chút, một băng bọn chúng chẳng thèm lao vào tấn công con thủy quái. Chúng nhử con quái vật như thả chó săn bò mộng. Cá Voi Sát Thủ đớp con Cá Voi Đầu Bò bằng cách ngoác hàm rộng đầy uất hận, và Cá Voi Quất Đuôi thì siết chặt, và đánh vào con thú bằng những chiếc đuôi săn gân. Thường thì chúng là những kẻ chinh phục, giày vò đối thủ cho tới chết. Dẫu rằng cũng xin thú thật, chỉ cần con thủy quái quất chiếc đuôi đáng sợ thì chúng sẽ bay cả lên không, như thể bị sừng Taurus hất đi.

          Chúng tôi đã được nhìn thấy cảnh tượng ấy. Nếu như danh họa Wouvermans từng vẽ cuộc săn bò mà có ở với chúng tôi thì đây sẽ là một cơ hội hiếm hoi dành cho cây bút chì của ông. Và Gudin hoặc Isabey hẳn đã quẳng vùng biển xanh cuộn sóng vào trong tranh. Sau cùng, một trong những mặt trời hè đang lặn của Claude sẽ tôn lên cái toàn thể. Ôi, tin tôi đi, các sinh vật của Chúa chiến đấu với nhau, vây đền vây, một ngàn dặm cách đất liền, và lấy đường chân trời tròn làm đấu trường, ấy chẳng phải đối tượng thấp kém cho một tuyệt tác.

          Đấy chỉ là một vài cảnh tượng ngoài biển lớn Phía Nam. Nhưng chúng tôi không kể hết ra. Thái Bình Dương thì đông như đất Tàu.

CHƯƠNG XIV

MỐI LO CỦA JARL

          Độ ấy xảy ra một sự kiện. Ông Viking của tôi đã mở miệng, và nói. Điều kỳ diệu đã xảy ra khi, tay cầm dao xếp, ông rướn người qua mái chèo, nơi phần cán ông dùng làm lịch, cứ mỗi lần mặt trời lặn lại khắc một vết. Khoảng bốn mươi tám giờ qua, gió nhẹ và hay thay đổi. Ông ngờ rằng một dòng hải lưu đang cuốn chúng tôi về phía bắc.

          Lúc này, đang khi đánh dấu, Jarl tuôn ra suy nghĩ rằng gió càng mạnh, hải lưu càng yếu thì càng tốt; và nếu một đợt biển lặng xảy đến - là điều chắc chắn, thì chúng tôi nên bắt đầu chèo là hơn.

          Bắt đầu chèo đấy! Như thể chúng tôi đang băng qua phà và chẳng có hàng lý đại dương mà vượt. Cái ý nghĩ ấy gián tiếp gợi lên hết thảy những cảnh hãi hùng có thể xảy ra. Để xua tan chúng đi ngay tức khắc, tôi khởi sự chia phần ăn sáng. Vì để xua những thứ như thế, chẳng có gì tốt hơn là kiếm món gì đấy lấp vào, dù thường thì kế này rất dễ gây ra chứng đầy bụng và chứng đầy bụng gây nỗi sầu hải.

          Nhưng nguồn trữ ăn uống của chúng tôi có gì? Tới nay thì đã đủ ăn, chúng tôi chẳng thấy lo chút nào; các nguồn dự trữ của chúng tôi đang cho thấy dư dật hơn đã lường. Chỉ là, nói cũng lạ, chúng tôi không cảm thấy muốn ăn gì cả. Chỉ nước, nước trong mát, nước lấp lánh, mỗi thứ ấy là chúng tôi thèm. Và cả điều này, kho trữ của chúng tôi ban đầu cũng có vẻ rộng. Nhưng khi cuộc hải trình kéo dài và những cơn gió thổi yếu ớt cùng những đợt biển lặng chóng buông xuống, cái ý nghĩ bị tước đi thứ chất lỏng quý báu ấy đã hóa thành thứ chẳng khác chi độc tưởng; nhất là với Jarl.

          Cứ độ một hoặc hai giờ cùng chiếc búa và đục thuộc về cái két mồi lửa, ông mò mẫm cái thùng tô-nô vô giá, gõ gõ những đai két đến độ tôi tưởng, trong mối lo ngại quá mức của ông, ông sẽ trổ toạc cả thùng.

          Giờ đây chiếc thùng tô-nô được đặt nằm ngang, ở giữa thuyền, chỗ nước biển luôn ít nhiều dồn lại. Và chốc chốc, nhúng ngón tay vào đó, ông Viking của tôi chẳng yên với suy nghĩ rằng thứ nước biển này vị ít mặn hơn so với sát bên mạn thuyền. Tất nhiên chiếc thùng hẳn đang rỉ nước. Thế nên ông lật úp nó, mặt ướt ở phía trên; chiếc thùng nhanh chóng khô như xương. Nhưng giờ, bằng con dao của mình, ông chầm chậm dò các khớp nối của ván thành thùng, lắc đầu, nhìn lên, nhìn xuống, nếm vị nước ở đáy thuyền rồi vị nước biển, lại nhấc một đầu của chiếc thùng tô-nô, xem kỹ bằng mọi kiểm định rò rỉ mà ông nghĩ ra được. Vậy mà ông cũng không an tâm hoàn toàn rằng chiếc thùng tô-nô được an toàn về mọi phương diện. Nhưng thực tế nó chắc chắn như mặt trống vỗ bên Cerro-Gordo. Ôi! Jarl ơi, Jarl: đối với cái thằng tôi ở đuôi thuyền yên tĩnh, vừa lái thuyền vừa triết lý, ông và chiếc thùng của ông quả là chẳng giống ai.

          Ngoài chiếc thùng tô-nô, chúng tôi còn có hai két đầy nước, mà trước đã có nhắc đến. Hai két này đem ra dùng trước. Chúng tôi uống nước từ thùng qua các vòi bằng chì, mỗi ngày được ba ngụm tối đa, chẳng có phương tiện nào khác để đong khẩu phần. Nhưng tới khi chúng tôi rờ đến chiếc thùng tô-nô, vốn chỉ có một cái lỗ bịt nút, dẫu là một lỗ lớn thì cứ như chó, mỗi người phải liếm láp nhiều lần - trong khi người kia quan sát tị nạnh tính đếm. Kế này, tuy vậy, chỉ cao kiến được mỗi một hôm; nước quá sâu vượt ra khỏi tầm lưỡi. Thành ra mỗi ngày chúng tôi đổ nước từ thùng ra két; và uống từ vòi của nó. Nhưng để tránh sự hao hụt không tránh khỏi khi chiết nước, cuối cùng chúng tôi nghĩ ra một cách hay hơn - là chiếc giày của ông bạn tôi. Chiếc giày, sau khi bị cắt bỏ phần cổ, thu hẹp ở gót, rồi được súc kỹ bằng nước biển, đã được biến thành một cái muôi tiện dụng, tuy mềm oặt. Cái muôi này chúng tôi giữ lưng chừng ở lỗ bịt nút của thùng, để nó không phải hút nước hai lần liền.

          Ta biết hợp kim thiếc tạo cho bia một vị riêng; một bát tẩu Meerschaum cũng vậy đối với thuốc lá Smyrna; những cốc tròn xanh lục tưởng như không thể thiếu để tu ừng ực vang Hock. Vậy chúng ta nói gì về chiếc cốc da để uống nước? Thử đi, những thủy thủ nghiêng ngả các bạn.

          Một buổi sáng nọ, đang khi quen miệng làm một hớp, Jarl bắt được trong muôi một con côn trùng đã chết, thứ gì đó giống loài nhền nhện chân dài, mỗi tội hơn cả béo đẫy. Số phận nó ư? Một thứ từ biển thẩy lên? Đừng có tin, với hết thảy cả những giọt nước quý bám vào mấy chiếc chân dài của nó. Nó đã nấn ná ở muôi đến khi giọt cuối cùng nhỏ xuống; và ngay cả như vậy, Jarl thực thà cũng miễn cưỡng thả nó - mình ướt lấp nhấp - xuống biển.

           Còn về kho lương thực, chúng tôi không thể chịu nổi món bò muối; nó sống nhăn như miếng bít-tết vùng Abyssinian còn động đậy và mặn mòi như thành Cracow. Phép so sánh kiểu người Feejee chẳng ăn thua gì. Nó còn xa mới “mềm như xác chết.” Chúng tôi chỉ ăn được mỗi bánh quy, vốn chẳng có gì lấy làm tuyệt vời, vì ngay cả khi ở trên boong, các thủy thủ vùng nhiệt đới cũng là những thực khách ăn dè.

          Và đây, xin đừng bỏ qua lời gợi ý, có giá trị nhất với bất kỳ việc bỏ đi trốn hoặc dong đi trốn nào trong tương lai. Bạn đừng ăn bánh quy không, hãy đem nhúng xuống biển: làm vậy để bánh phồng xốp và bùi miệng. Khi ăn, Jarl và tôi ngấm và nhấp bánh: mỗi người ở mỗi bên Dê Biển nhúng phần bánh của mình xuống làn nước mặn. Kế này đỡ cho chúng tôi phải rửa tay khi bữa ăn chấm dứt. Nói chung, cư ngụ ở chốn biển khơi hầu như chẳng hề tệ chút nào. Người Tàu họ đâu có ngu. Trong hoạt động sửa soạn hố xí cho mình, thật là thuận lợi biết bao khi được lênh đênh trên chỗ tiện hồ!

CHƯƠNG XV

MỘT MŨI MAY CHÓNG HƠN CHÍN MŨI VÁ CHẦY

          Như hầu hết những người nghiêm nghị ít nói, ông Viking của tôi là một hình mẫu chuyên cần. Cái thời còn ở trên những chiếc thuyền sau khi đuổi theo cá voi, tôi từng thấy ông mang theo một cuộn dây cọ bện để đan thành mũ Và khi con thuyền bất động độ nửa tiếng, chờ cho cuộc săn đuổi nổi lên, các ngón tay ông miệt mài làm việc, như một phụ nữ luống tuổi đan lát. Cũng như một bà vợ già kinh nghiệm, các ngón tay ông đã trở nên quá thành thạo và tỉ mỉ, đến nỗi đôi mắt ông cũng mặc cho chúng yên, ngỡ như chuyện giám sát thị giác là chuyện thừa thãi. Và trong cuộc hành trình của chúng tôi, khi không có gì vướng bận, ông cũng khá bận rộn với các ngón tay của mình như ngày nào: gỡ mối chiếc tất cũ Mũi Sừng, lấy đó mà dùng làm chỉ để mạng lại áo khoác chẽn len; với những miếng vá lớn từ vạt chiếc áo gài chéo xấu số, đệm lại cái bàn tọa của chiếc “quần bông”: nói gọn là phủ vơ-nia những món đồ đã hỏng thành những phục trang thuộc hàng tuyển chọn.

          Với sự lo xa đích thực của một thủy thủ già, ông mang bên mình gần như nguyên cả rương đồ. Cái “Túi Kim Chỉ”, gồm những dụng cụ khâu vá, được cẩn thận cất vào góc dưới các bó đồ của ông, vốn đã nhiều như một bà gái già đi du hành. Thực tình, một thủy thủ có thâm niên rất giống một bà gái già, song, nói cho đúng, chẳng hề xứng với cái danh từ chung hay bị nhầm ấy. Thà là một bà gái già, một người phụ nữ kiêm luôn vai người chồng, còn hơn làm vợ của một người chồng ngu; và vua Solomon đã nhiều lần ám chỉ rằng hết thảy đàn ông đều ngu; và ai biết mình ngu mới là kẻ khôn ngoan.

          Trong vai trò nữ thợ may, vị trí ưa thích của Jarl chính là cái bục tam giác nhỏ ở đằng mũi, phần ráo nhất và cao nhất ở trên thuyền, hợp với ý ông nhất. Ở đấy hằng giờ hằng giờ liền, ông thợ may già thật thà cứ ngồi mà mạng với khâu liên tục, chẳng màng biển cả rộng lớn chung quanh, trong khi luôn luôn, cái mũ Guayaquil luộm thuộm của ông cứ nhấp lên nhô xuống  đường chân trời trước mặt chúng tôi.

          Đấy là việc lặt vặt nghiêm túc nhất với ông. Lặng lẽ ông gật đầu như pho tượng tĩnh trong vở opera Don Juan. Thực vậy ông chẳng bao giờ nói, trừ phi đưa ra phát ngôn chắc nịch về sự khôn ngoan của việc giữ gìn cái áo cái quần của mình cho tử tế. Nhưng ở điểm này ông Viking của tôi thi thoảng mới nổi cơn sấm truyền. Và biết bao nhiêu giờ qua chúng tôi trôi dọc trên biển, bản thân tôi thì nghiền ngẫm sâu xa ở đằng đuôi thuyền, tay đặt trên lái; đang khi chân bắt chữ ngũ đằng bên kia thuyền, Jarl lại đắp từng vá trên vá, và lâu lâu thì từng huấn thị trên huấn thị; đây dăm câu ngạn ngữ, kia vô vàn mũi khâu.

 

CHƯƠNG XVI

HỌ VẮNG GIÓ

         

Vào ngày thứ tám có một đợt biển lặng.

          Nó đến vào ban đêm. Thức giấc lúc rạng đông, khoanh tay gác lên mép mạn, tôi trông thấy một cảnh tượng rất khó diễn đạt. Mặt trời vẫn bên dưới đường chân trời, chừng đâu chưa khuất khỏi tầm của những bình nguyên Paraguay. Nhưng ánh bình minh quá mạnh đối với những vì sao - đã lần lượt tắt đi, như những ngọn đèn yếu dần sau cuộc vũ hội.

          Khi ấy, mặt biển trống trơn như mặt của một tấm gương, chỉ mượn lấy đặc điểm của thứ nó phản chiếu; thế nên trong một đợt biển lặng ở các Vùng Nhiệt Đới, bầu trời không màu trên đầu, còn đại dương, trên bề mặt của nó, hầu như chẳng trình diện một dấu hiệu tồn tại nào. Sắc xanh thẫm đã qua, và phần bóng kính thì trải dài mê man, hầu vô ảnh như không khí.

          Nhưng buổi sáng hôm ấy, nền trời và nền biển xám tựa như sụm vào nhau thành một dấu chấm lửng mơ hồ. Và chiếc thuyền Dê Biển tựa như đang trôi dạt trong không trung cũng như trên biển. Mọi thứ hòa tan vào biển lặng: trời, không khí, nước, tất cả. Một con cá cũng chẳng thấy đâu.  Sự im lặng như ở trong chân không. Chẳng có sức sống nào ẩn trong không khí. Và sự trơ trơ ấy trộn lẫn và phủ lấy muôn vật tựa như hỗn loạn âm u khi thai nghén đất trời.

          Đợt biển lặng ấy kéo dài những bốn ngày bốn đêm; lúc bấy giờ chỉ có dăm ba ngọn gió khều buồm đổi thay cảnh sắc. Chúng yếu ớt như hơi thở của người hấp hối.

          Đôi lúc sức nóng mãnh liệt. Các tầng trời, vào ban trưa, bừng lên như một mỏ than bắt lửa. Da chúng tôi nhăn nhúm như xơ vải; tầm nhìn trở nên lòa nhòa, đầu óc choáng váng.

          Chúng tôi lấy làm kinh ngạc khi nước trong chiếc thùng tô-nô trở nên âm ấm, mằn mặn và thối, dẫu cho chúng tôi đã đặt chồng quần áo dự phòng trên thùng để che chắn nó khỏi ánh mặt trời. Cuối cùng, Jarl khai thông miệng thùng, cẩn thận đặt nó phơi nắng. Với biện pháp này, chắc hẳn, chúng tôi mang trách nhiệm nhiều hơn mình nghĩ. Khi ấy thiết nghĩ sẽ khôn ngoan khi giảm bớt khẩu phần nước xuống còn một chút nhỏ nhoi cho hợp với việc duy trì sự sống lúc bấy giờ, bóp nghẹt mọi ham muốn hơn nữa.

          Chưa hết. Sàn gỗ ván trên cùng của thuyền bắt đầu bị oằn, chỗ này chỗ kia, bị nứt và chỉa ra. Nhưng dù chúng tôi có cấp ẩm cho nó bằng nước biển, một đầu mút trên ván đã bật ra khỏi mấu; cái tiếng xé tai, đột ngột, phá tan sự im lặng cháy xém, khiến cả hai kẻ chúng tôi giật bắn người. Tức thì biển tràn vào; nhưng chúng tôi xoay xở niềng lại tấm ván bạo nghịch bằng một sợi dây, bởi chẳng có đinh; thế rồi chúng tôi tát nước, đã ngót đầy cả nửa thuyền.

          Vào ngày biển lặng thứ nhì, chúng tôi tháo cột buồm, để ngăn nó khỏi bị tuột khỏi mấu do những đợt đại sóng cuộn thi thoảng cuốn lên bắt kịp chúng tôi. Hàng lý và hàng lý cách xa, sau khi nổi cơn hoành hành dữ dội, một cơn bão đâu đó hẳn đang gửi đến chúng tôi những làn sóng sắp tàn cuối cùng của nó. Như một viên sỏi rớt xuống ao tạo gợn đến mép bờ, khắp bốn bề, một cơn gió mạnh cũng hoạt động như thể một tiểu hành tinh rơi xuống biển, làm nên những ngọn núi sóng cồn, khuếch ra đến vô cùng, thay vì những vệt lăn tăn.

          Những trận sóng lớn tháng Chín đang phá nền ở Miền Cao Neversink, vượt xa cả những chiếc thuyền hoa tiêu nhanh nhất, mang theo những tin tức từ biển khơi. Và rất thường khi, chính chúng biết bí mật cuối cùng của biết bao con tàu kiên cường, bặt vô âm tín kể từ ngày rời bến. Trong mắt tôi, mỗi con sóng tựa như một linh hồn.

          Khi không lái thuyền, Jarl và tôi núp mình khi có thể bên dưới tấm phủ. Và trong hai ngày đầu, từng người một, cách ba hoặc bốn tiếng, ra khỏi thuyền để tắm, bám vào mép mạn; luôn giữ một người canh chừng tinh ý đề phòng cá mập rình mồi. Khoảng một hoặc hai bộ dưới mặt biển, nước mát mẻ và sảng khoái.

          Vào ngày thứ ba, có thay đổi với chúng tôi. Chúng tôi thôi không tắm vì ráng sức đã làm chúng tôi căng thẳng quá đỗi. Nhăn nhó, chúng tôi bỏ cuộc quay lưng lại với nhau và mất kiên nhẫn chờ cho người kia bâng quơ đụng lấy mình. Cái cách thể hiện bên ngoài của tôi thế nào, tôi chẳng rõ; song tôi ghét phải nhìn Jarl. Nếu có nhìn thì chỉ là một cái trừng mắt, chứ nào phải một cái liếc. Tôi trở nên lầm lì hơn cả ông. Tôi chẳng thể nói được tôi đang bị cái chứng gì, nhưng tôi ước tôi được ở một mình. Tôi cảm thấy chừng nào biển lặng còn kéo dài, chừng ấy chúng tôi chẳng có lối thoát, rằng người này chẳng thể giúp được gì cho người kia và trên hết, với một người, nước còn chẳng đủ phương chi là với hai. Tôi không thấy hối hận, dù mảy may, vì những suy nghĩ ấy. Nó thuộc về bản năng. Như một tên vô lại hồn đang lìa khỏi xác, tôi hằng mong được hấp hối một mình mà thôi.

          Nguyện xin Chúa nhân lành, xin cất tôi khỏi cảnh bị đắm trôi cùng một người anh em!

          Bốn ngày đã qua. Và vào sáng ngày thứ năm, tạ ơn Chúa, có gió thổi tới. Nhảy múa, uốn éo nó đến, chỉ gợn biển lăn tăn, cho đến khi phất những lá buồm của chúng tôi, trước đó đã giương lên ngay từ dấu hiệu nổi gió đầu tiên. Lâu dần trời mát lên chút đỉnh, và chiếc Dê Biển đáng thương tưởng như được sống lại từ cõi chết.

          Vui sướng khôn tả! Lại một lần nữa chúng tôi được nghe tiếng ngâm trầm của biển khơi bên dưới mũi thuyền, khi thuyền chúng tôi, như một chú chim, líu lo tung cánh.

          Cảnh quan đổi thay làm sao! Trên đầu, một làn xanh ngọt, chưng ánh mặt trời thành giọt. Và cái thứ được gieo vào sáng tạo khả kiến chính là tấm áo lốm đốm ánh dương, thiên thanh, sột soạt của biển khơi, được phủ lông chồn bằng những đầu sóng, còn lại thì xanh vô tận. Quả là tiếng nhạc nhịp nhàng! Những ngọn sóng đuổi nhau, trêu nhau và sủi lên thứ bọt thích đùa: những con cá vẽ nhọ bôi hề lượn tới, và tức thì có tiếng chim biển vỗ cánh bay qua.

          Hỡi, Biển Cả, những khi mi chọn mỉm cười, trông mi xinh đẹp hơn cả đồng cỏ hay đồng bằng đầy hoa!

 

CHƯƠNG XVII

KHẤP KHỞI, HỌ TIẾN VỀ MIỀN ĐẤT LẠ

 

Lúc bấy giờ đã có mười bốn khấc trên cán chèo của Ông Giời: Đã quá nhiều ngày từ khi chúng tôi đẩy thuyền khỏi bao lơn mũi của tàu Arcturion. Nhưng tới nay, không một nhánh cây trôi, không một con nhàn trắng, không một con nhàn xám hay chim nhiệt đới, để cho thấy chúng tôi đang ở gần đất liền. Trong đợt biển lặng lâu ngày ấy, những dòng hải lưu đã đưa chúng tôi tới đâu?

          Chính xác ở đâu, chúng tôi chẳng hay; nhưng theo tính toán của mình, ước lượng phóng chừng theo dặm biển mỗi giờ, chúng tôi chắc phải đi thuyền về hướng tây hơn một trăm năm chục lý một chút, đa phần chỉ bắt gặp những cơn gió nhẹ, và những đợt biển lặng gián đoạn thường xảy ra, ngoài đợt biển lặng kéo dài đã nói. Nhưng mặc cho những đợt biển lặng và hải lưu trước đây, đất liền ắt phải ở hướng tây. Mặt trời, la bàn, lòng dũng cảm và những làn gió ổn định, đưa hướng mũi thuyền chúng tôi về đấy. Can đảm quá! Ông Viking của tôi ơi, không được đuối đấy nhé!

          Vào lúc ấy, lòng chúng tôi thấy nhẹ nhõm hơn khi phát hiện thấy nước của chúng tôi có vị ngon hơn. Dường như lại diễn ra một kiểu lên men, hoặc sự hoạt động, giống như hiện tượng đôi khi xảy ra với nước trữ trên tàu ngay sau khi được tiếp tế. Thường thì trong một khoảng thời gian, nước có mùi vị khó chịu, nhưng rồi nó lại trở nên khá trong lành.

          Nhưng vì nước của chúng tôi đã được ngon hơn, chúng tôi đâm ra càng lúc càng hà tiện với thứ vô giá ấy.

          Và ở đây cũng nên nhắc đến một chi tiết nhỏ khác, tuy không lấy gì làm ủy mị. Là một thủy thủ lành nghề, ông Viking của tôi là một người tiêu thụ quá mức thứ cần sa Ấn Độ. Từ thuyền Arcturion, ông đã mang theo bên mình nửa két nhỏ, được lèn chặt bên dưới một lớp dày thuốc lá Negrohead, mang dấu hóa thạch như địa tầng sơ cấp của các nhà địa chất học. Đó là lớp cuối cùng trong nguồn cung phong phú dành cho cuộc hải trình săn cá voi dài mà ông đã cho lên tàu từ hơn ba năm trước. Giữa biển lặng, và trong vài ngày sau đó, têm thuốc lệ thường của Jarl tội nghiệp đã không còn là người bạn dễ chịu nữa. Ta có lộng ngữ: he eschewed his chew.[19] Tôi hỏi ông lý do gì. Ông đáp rằng nó làm se miệng ông, trên hết là gây khát, và chẳng biết sao đã thành ra chẳng còn ngon. Tôi lấy làm tiếc; vì sự vắng mặt của món thuốc luôn hiện diện trước đây đã làm sút kém cái đầy đặn nhỏ nhoi từng có trên má ông; tuy vậy, thú thật tôi không còn dám bảo ông chuyển khối thuốc khổng lồ ấy qua mạn phải hay mạn trái để giữ thăng bằng cho con thuyền nữa.

          Đợt biển lặng ấy đã qua, một lần nữa ông thợ may biển cả của tôi lại được chập nếp cây kim đường chỉ hoặc hóa thành nữ thợ giặt, đem phơi áo quần của chúng tôi cho khô trên những mái chèo xếp chéo ở cọc chèo. Những thứ ấy là những cờ đuôi nheo tả tơi, gió thổi phía đuôi thuyền, giúp chúng tôi vui vẻ lên đường; vui tươi như hai kẻ khốn cùng cùng mấy miếng giẻ rách bay trong gió, sung sướng dong buồm qua đời, lòng hân hoan dù nghèo xác nghèo xơ!

CHƯƠNG XVIII

CÁ MẬP CHÚA VÀ CÁC GIA ĐỒNG CỦA NGÀI

 

          Có một loài cá ở biển mà luôn luôn, cứ như một vị chúa tể cau có, chỉ ra ngoài mỗi khi có đoàn tùy tùng chầu chực. Đó chính là Cá Mập Mũi Nhọn. Một con quái vật lờ phờ vụng về, dị dạng như tên gọi của nó và thoạt nhìn, người ta sẽ nghĩ đó là loài cuối cùng trên đời xứng đáng được hầu hạ long trọng như vậy. Đoàn tùy tùng của ngài cá mập gồm các sinh vật nhỏ nhắn khảnh ăn mà các thủy thủ gọi là Cá Thuyền. Nhưng về đêm, bầu đoàn này thường tăng lên nhờ góp mặt của dăm con cá dạ quang nho nhỏ, bơi đằng trước, vẫy qua vẫy lại những ngọn đuốc của chúng như những đứa trẻ vác đèn soi đường quái vật đi. Tiếc thay chẳng có chú cá đuối nào đi sau, như hậu vệ, đưa đoàn rước đuôi cho ngài.

          Mối liên hệ đang có giữa Cá Thuyền được nói ở trên và vị chúa tể khổng lồ lóng ngóng của chúng dường như là một trong những điều khó hiểu nhất trong tự nhiên. Dù sao đi nữa, tôi cũng ở trong cái thế khó mà lãnh hội được. Chuyện một con quái vật dữ tợn như thế lại chịu năm sáu cậu dài vỏn vẹn mười bốn inch nô giỡn quanh tấm thân dễ sợ một cách hoàn toàn tự do, tự thân điều đó đã là chuyện lạ. Nhưng càng lạ hơn nữa khi xét đến việc, theo một sự hiểu ngầm lẫn nhau, Cá Thuyền tựa như đóng vai trò làm trinh sát cho con cá mập, đánh động nguy hiểm, báo cho biết con mồi đang ở gần, trường hợp con cá mập bị giết thì bày tỏ đau đớn thông qua những khích động khó thể giải thích theo cách nào khác: toàn bộ sự việc trở nên một bí ẩn khôn dò. Quả thực, điều kỳ diệu đầy khắp chung quanh. Người ta chẳng cần kẻ chết sống lại mới đủ sức thuyết phục. Ngay cả ông Viking của tôi đây cũng đầy tràn diệu kỳ như những con Cá Thuyền, tựa như ông đầy tràn Thần Khí vào ngày Lễ Hạ Trần.

Nhưng có lẽ một sự việc nhỏ xảy ra vào khoảng thời gian này sẽ minh hoạ rõ nhất cho tình thế trên.

          Chúng tôi đang lênh đênh trên biển, độ ba dặm biển một giờ, thì đồng bạn của tôi, đang lơ mơ ngủ trên mép mạn, thình lình đứng dậy và chỉ vào một con Cá Mập Mũi Nhọn, cách một khoảng chưa tới chiều dài một chiếc thuyền và độ nửa sải bên dưới mặt nước. Một cây xiên đã được liền tay chộp lấy; và trung thành với tiếng gọi của mình, Jarl đã sắp sửa găm nó vào con cá, trong khi, thích thú vì thấy những trinh sát nhỏ rực rỡ của nó, tôi van ông thôi đừng.

          Có một chú cá ở ngay bên dưới con cá mập, đang rỉa lấy phần vây bụng; một chú khác ở bên trên, lởn vởn quanh phần lưng; mỗi chú ở mỗi bên sườn; và chú thứ năm đang nhảy cỡn giở trò chơi khăm ở mũi, ra vẻ có điều để nói về chuyện thiên nhiên tuyệt mật. Chúng có màu xanh thép rực rỡ, xen kẽ những sọc đen nhánh; cùng những bụng trắng bạc lấp lánh. Bám chặt lấy phần lưng của con cá mập là bốn hoặc năm chú Cá Ép hoặc cá giác mút; những động vật ký sinh trông như rắn, không thể gỡ chúng khỏi bất kỳ thứ gì chúng bám chặt vào mà không giết hại chúng. Loài Cá Ép chẳng có sức bơi là bao, thế nên vận động duy nhất của nó là ở trên lưng của những con cá lớn hơn. Y như đỉa, nó dính chặt hơn thứ anh em giả hình trong lúc thịnh vượng, dính chặt hơn kẻ ăn mày với người làm ơn, dính chặt hơn Webster với Hiến Pháp. Nó ăn nhờ ở đậu vào thứ nó bám vào; các xúc tua của nó có đường thông trực tiếp với thực quản.

          Con cá mập lờ đờ bơi, chẳng tạo một vết gợn, nhưng chốc chốc lại lúc lắc mớ tóc Medusa, sống đời thê thảm những oằn oại và xoắn cuộn. Thi thoảng, những chú Cá Thuyền nhanh nhẹn phóng khỏi cạnh sườn nó — đằng này đằng kia — thường là hướng về phía thuyền chúng tôi, nhưng trước khi bắt đầu một khởi đầu mới lại quay về với chúa thượng của chúng để báo cáo tình hình.

          Một ý nghĩ chợt đến với tôi. Tôi buộc một mẩu thịt bò muối — gần như đã vô dụng — vào đầu dây thừng, rồi thả cho nó kéo lê trong nước. Tức thì chú cá trinh thám đầu tiên đã bơi đến, do dự ngập ngừng nhưng sau cùng cũng tiến lên, nhanh nhẹn đánh hơi ở đằng dây câu và rỉa nhí một mẩu nhỏ, rút về chỗ con cá mập. Chỉ một khoảnh khắc sau, hoàng đế Thiếp Mộc Nhi nặng nề quay lại, chỉa cái mũi đen như súng thần công của ngài thẳng vào cạnh thuyền. Trong khi đó, những chú Cá Thuyền nhỏ nhắn chỗ này chỗ kia lao tới, gây nên một cảnh nhốn nháo chẳng khác nào những kẻ đầu óc hẹp hòi khi bấn loạn vì lo âu.

          Ngay sau đó, hoàng đế Thiếp Mộc Nhi bơi càng lúc càng gần, sau một hồi lười nhác đưa mắt nhìn Dê Biển, như lợn rừng rình một chú dê con. Thình lình vội vàng tiến tới, dưới lớp bọt nó trốn thoát cùng miếng mồi câu. Nhưng chốc sau, cây xiên được nâng lên đã găm mạnh vào sọ nó; và trong lúc quẫy đuôi mạnh mẽ như đánh nhịp cho khúc cầu hồn của chính mình, nó chậm chạp chìm xuống, qua vũng máu của mình, khuất dạng. Xuôi xuống cùng nó là những chú Cá Thuyền khiếp hãi; nhưng chẳng bao lâu sau, ba chú trong bọn đã theo sát chiếc thuyền, lướt dọc theo một nhịp đồng đều; mỗi con mỗi bên, và một con đằng trước; như lúc chúng đã từng theo hầu chúa tể. Chắc hẳn còn một con ở bên dưới sống thuyền của chúng tôi.

          “Một điềm may,” Jarl nói; “chẳng có xui xẻo nào sẽ xảy đến với chúng ta chừng nào chúng còn ở đây.”

          Nhưng dù cho đó có là gì thì chúng cũng đã theo cùng chúng tôi trong nhiều ngày sau đó, đến khi một sự kiện xảy ra buộc chúng phải rút đi.

 

CHƯƠNG XIX

AI ĐÓ?

         

Mái chèo của Jarl đã đánh mười sáu khấc trên tay cầm, vào một buổi tối nọ, khi vầng mặt trời khuếch đại chạm vào vành đường chân trời, quan sát thấy những xà buồm cao nhất trên một con tàu, để vết như mạng nhện áp vào chiếc đĩa màu son tươi. Trông nó như một con tàu ở đằng xa đang bốc cháy.

          Khi ngoài khơi thời tiết sáng sủa, một lá buồm, vốn vô hình giữa ban trưa ngập nắng, bỗng trở nên rõ rệt khi hoàng hôn. Đây là sự đảo ngược của buổi sáng. Trong tầm rạng đông xám, con tàu đằng xa, dù thực tế đang tiến gần, lại dần dần biến mất khỏi tầm mắt, khi mặt trời càng lúc càng lên cao. Điều này đúng không chỉ với tàu thuyền, mà còn với nhiều thứ xa xăm khác: càng rọi nhiều ánh sáng vào, bạn càng không thấy gì. Những lúc nhập nhoạng, lại có những mặc khải hiện ra rõ nhất.

          Sự xuất hiện của người lạ khiến chúng tôi không khỏi sửng sốt. Nhưng Jarl thì bừng sáng lên như thể cuộc gặp là điều đã mong đợi từ lâu, nét mặt rạng rỡ và đầy hy vọng. Tuy vậy, ông nhanh chóng thay đổi thái độ khi nhận ra tôi đang quyết tâm tránh né cuộc chạm mặt ấy.

          Ngay lập tức, chúng tôi hạ buồm; và Jarl - vẫn đang chần chừ, tôi đặt các mái vào cọc chèo; và, cả hai cùng chèo, chúng tôi đi chéo khỏi đường cũ.

          Tôi đoán rằng con tàu ấy là tàu săn cá voi; rất có thể nhờ ống nhòm mà người canh gác trên boong đang dùng để quét ngang chân trời, họ đã trông thấy chúng tôi, nhất là khi chúng tôi đang ở hướng đông so với tàu, mà vào lúc hoàng hôn chính là hướng thuận lợi nhất cho việc nhận ra một đối tượng xa tít ngoài biển. Đã vậy, tấm buồm của chúng tôi còn trắng như tuyết và lồ lộ nữa. Nói cho đúng, chúng tôi không thể chắc đấy là loại thuyền nào; nhưng dẫu có là gì, riêng tôi không hề có ý định liều lĩnh đụng độ, bởi rõ ràng nếu người lạ tiến đến gần trong tầm gọi thì sẽ chẳng có phương sách nào khác ngoài phải móc nối tài sản của chúng tôi với nó, trong khi tôi chẳng mong được theo tàu nào ngoài chiếc thuyền Dê Biển. Còn về phần Ông Giời, ông cứ ngoái vai nhìn đăm chiêu, nhất định đang cầu Trời cho chúng tôi không thể thoát được thứ mà tôi gắng tránh.

          Tuy nhiên, quan sát kỹ hơn, tôi khá chắc chắn rằng con tàu kia rốt cuộc đang đi theo hướng gần như chính tây - xa khỏi chúng tôi, chúng tôi lắp lại buồm; và khi màn đêm buông xuống, ông Viking của tôi khẩn nài, thêm trí tò mò của riêng tôi ủng hộ, xui tôi phải quay lại đường đi ban đầu để theo sau con tàu, để được nhìn con tàu rõ hơn, mà không có nguy cơ bị phát hiện. Thế là chúng tôi đánh liều giong buồm đi tới.

          Nhưng con tàu đi không được nhanh lắm, mặc cho làn gió nhẹ (một hoàn cảnh thuận lợi cho chúng tôi: đuổi theo một con tàu, và chúng tôi chỉ là một chiếc thuyền), theo lời gợi ý của đồng bạn tôi, chúng tôi thêm sức chèo vào cùng sức buồm, sẵn sàng đưa chúng tôi theo đường cũ, mặc kệ cần lái.

          Khi đến gần hơn, chúng tôi thấy rõ rằng con tàu không phải tàu săn cá voi mà là một con tàu nhỏ, hai cột buồm - nói gọn là tàu brigantine. Các lá buồm của nó ở trong tình trạng lộn xộn khó hiểu; chỉ có mỗi buồm mũi, buồm chính, buồm tam giác là được giương lên. Buồm mũi thì tả tơi quá; và buồm tam giác thì mới kéo được một nửa dây buồm, lười nhác phất phới, ngọn gió từ lan can đuôi tàu thổi tới. Nó liên tục đi chệch khỏi đường; lúc thì hầu như lộ ra mạn tàu của nó, lúc thì hiện ra đuôi tàu.

          Trải buồm lần nữa, chúng tôi ngồi ở mái chèo và nhìn con tàu dưới ánh sao. Nó vẫn lắc lư qua lại, rồi tiếp tục lặng lẽ trôi đi.

          Không chỉ khiếp sợ với cảnh tượng ấy, lão Jarl mê tín còn bóng gió xa gần rằng ấy hẳn là một con tàu săn vàng, bị ma ám. Nhưng tôi bảo ông rằng nếu quả đúng như vậy, thì dù là vàng hay ma quỷ, chúng tôi cũng phải lên boong. Tuy nhiên, trong lòng tôi bắt đầu nghiêng về giả thuyết rằng con tàu đã bị thủy thủ đoàn bỏ lại; hoặc giả, do bệnh tật, những người còn trên tàu không còn đủ sức điều khiển nữa.

          Sau một cuộc thăm dò rất lâu và đầy lo sợ, chúng tôi vẫn lại gần, bằng mái chèo, nhưng phần Jarl thì rất miễn cưỡng, vừa chèo vừa ngoái lại sau vai, như thể sắp sửa đậu chiếc Dê Biển nhỏ bé lên lưng cá voi như ngày xưa. Quả thực ông có vẻ sốt sắng muốn rời xa con tàu kia không kém gì trước đó đã mong mỏi được lại gần nó.

          Lúc chiếc brigantine im lặng ấy một lần nữa xoay ngang, tôi hô lớn gọi. Không ai đáp. Một tiếng nữa. Nhưng hết thảy đều im. Với vài cú đập mạnh, chúng tôi tới gần, lại hô lên một tiếng, trong khi để chiếc Dê Biển dọc bên mạn, tôi cột chặt vào bao lơn chính của tàu. Tức thì chúng tôi cảm thấy con tàu đang kéo mình đi. Buộc chặt con thuyền của chúng tôi bằng dây kéo, tôi nhảy phóc qua lan can tàu, theo sau là Jarl, người đã chộp lấy cây lao móc, khí giới ưa thích của ông. Từ lâu đã dùng thứ vũ khí ấy để đánh bại những con quái vật biển sâu, ông chẳng hồ nghi nó sẽ cho tỏ ra đắc dụng trong bất kỳ cuộc chạm trán nào.

          Boong tàu chỉ toàn rác. Lăn long lóc nào những vỏ trai ngọc, sọ dừa, các thùng tô-nô và hòm rỗng. Cần lái không ai đoái tới thì bị buộc lại; giải thích cho chuyện con tàu đi chệch hướng. Nhưng chúng tôi không hiểu nổi làm sao, khi gió thổi xuôi như vậy, con tàu lại có thể tự điều hướng trong một thời gian dài mà không cần người điều khiển. Dù vậy, gió vẫn nhẹ và ổn định.

          Giờ đây, thấy tay lái bị buộc như vậy, tôi không thể không nghi ngờ sự im lặng đang thắng thế. Tôi dấy lên cái ý nghĩ về những kẻ vô lại nấp bên dưới, đang toan tính chuyện gian trá; những kẻ phiến loạn không nể nang ai, những người Lascars, hoặc Manilla; những người sau khi giết hại các thủy thủ Châu Âu trong đoàn, hẳn sẽ không vừa lòng để người lạ ra đi yên ổn. Hay còn tệ hơn, toàn bộ đoàn thủy thủ đã chết sạch do một trận sốt, mà nguồn lây nhiễm của nó vẫn còn tẩm trong thân con tàu độc. Và dù suy tưởng đầu tiên cũng như cuối cùng chỉ là một sự phỏng đoán, chúng tôi vẫn thấy khôn ngoan hơn cả là nên niêm phong các nắp hầm; và thế là, tạm thời, chúng tôi dùng mái chèo của thuyền mình để chặn chúng lại. Xong việc này, chúng tôi đi khắp boong tàu tìm nước. Và khi thấy một chiếc thùng tô-nô kềnh càng thì uống một hơi dài, thả cửa, cho thỏa cơn khát lòng.

          Gió lúc bấy giờ mát lạnh, và cánh buồm rách có nguy cơ bị gió giật khỏi cột, nên chúng tôi đưa con brigantine xoay đầu đón gió, cuộn buồm lại. Điều này để cho chúng tôi được tự do xem xét con tàu, dẫu, chẳng may, màn đêm bắt đầu mờ sương.

          Tất cả sự việc này xảy ra khi thuyền chúng tôi vẫn còn đang được kéo dọc mạn tàu; và tôi sắp sửa bỏ nó ở đằng đuôi, thì Jarl, luôn thận trọng, tuyên bố để nguyên đấy thì an toàn hơn, vì nếu có người ở trên tàu thì họ hẳn là ở bên dưới cabin, và từ các cửa sổ trập của buồng lái, họ có thể gây tổn hại cho Dê Biển.

          Chính lúc ấy, Jarl nhận ra con brigantine không có thuyền cứu hộ, một chi tiết bất thường của bất kỳ con tàu nào lênh đênh trên biển. Nhưng khi nhận thấy điều này, tôi hài lòng quá chừng. Chuyện có lẽ như tôi đã nghĩ, vì cớ này cớ nọ, con tàu chắc hẳn đã bị thủy thủ đoàn bỏ mặc. Và ở một mức độ lớn, điều này xua tan nỗi sợ bị chơi sau lưng và nỗi lo nhiễm bệnh. Được cổ vũ nhờ các suy ngẫm này, tôi quyết định đi xuống và khám phá cabin, dù nghịch lại với lời khuyên khẩn thiết của Jarl. Chắc chắn, như ông tha thiết nói, cái bậc thang ấy có thể để trời sáng rồi tính, nhưng chờ thì nhọc nhằn quá. Thế là tôi nhớ đến mồi lửa và mấy cây đèn cầy, tôi bảo ông ra thuyền lấy. Chẳng mấy chốc, hai cây đèn cầy đã được thắp lên; một cây thì Ông Giời buộc chặt ngay đầu nhọn cây lao móc để khi đi xuống thì mũi thép nhọn không ở xa quá, nếu có thằng hèn nào thổi tắt ánh đèn cầy.

          Mở cửa thông cabin, chúng tôi bước xuống vào thứ sào huyệt chật chội và tối tăm nhất thế giới này. Dầm tàu giống như bàn thờ, phía trên là các cửa sổ trập ở đuôi tàu, cùng cửa sổ trần nho nhỏ mờ mờ trên đầu, và vẻ u tịch của mọi thứ chung quanh, làm cho không gian mang cái vẻ của một nhà nguyện dưới lòng đất nào đó, như Phòng Cầu Nguyện của Thánh Phê-rô Ẩn Sĩ chẳng hạn. Nhưng các cuộn dây neo, những súc vải buồm, những món áo quần và những rác rưởi bừa bãi chẳng ăn nhập gì với ấn tượng ấy. Hai cánh cửa, một cánh mỗi bên, dẫn vào các buồng nhỏ xíu, trong có các giường cũng đầy rác. Giữa đấy là một chiếc thùng lớn, được bọc sắt và kẹp chặt, gồm một két chứa thuốc súng, nửa thanh đoản kiếm cũ, một túi đạn và một va-li đựng kính lục phân - một thiếp đồng thau trên nắp với tên hãng chế tạo - London. Lưỡi thanh đoản kiếm gãy thì cùn và hen gỉ lắm và cán sắt thì cong oằn. Trông nó bi thảm đến độ tôi đẩy nó đi khuất mắt.

          Tháo một cánh cửa sập, mở ra không gian bên dưới, được gọi là “đáy”, chúng tôi rọi thấy nhiều đoản kiếm và súng hỏa mai khác nhau, nằm một chỗ lần lượt sáu và bảy cây, như thể bị cất vội vào.

          Đưa mắt liếc nhanh và hài lòng rằng qua vách cabin không có lối thông đến phần hầm tàu đằng mũi, chúng tôi gom lấy mấy cái khẩu súng hỏa mai và đoản kiếm, két thuốc súng và túi đạn, rồi gói chúng đưa lên boong, chuẩn bị kiểm tra đầu bên kia của tàu. Trước khi làm vậy, tôi đã nạp đạn một khẩu súng hỏa mai và nịt cây đoản kiếm vào bên hông. Nhưng ông Viking của tôi vẫn chuộng cây lao móc của ông hơn.

          Ở trên boong mũi, sự hỗn độn tương tự ngự trị. Chỉ có một hang nhỏ kín đáo, nằm gọn vào một góc và được trang hoàng bằng một tấm thảm bằng cỏ và gối dựa, như những cái mà Dân Đảo các vùng biển này thường dùng. Cái hang nhỏ ấy đối với chúng tôi trông như thể một con báo nào đấy đã thu mình nằm bên trong. Và hóa ra chúng tôi không hề lầm. Xếp một bên trong hang này là một cái rương thủy thủ, được đóng chặt bằng một ổ khóa và lại còn nặng gớm. Bất chấp những lời khẩn nài của Jarl, tôi cũng xoay xở làm bật được nắp rương, từ đó lộ ra một tập hợp hổ lốn những mũ dành cho nữ và các đồ lặt vặt lạ lẫm đủ loại, cùng với tạp nhạp những chế phẩm thô từ vải calico, kiểu cắt kỳ quặc song vẫn mang một vẻ nữ tính nhất định, lại cả những mép váy báo hiệu chúng là y phục của một thụ tạo giống cái nào đó, nhiều khả năng nhất là thuộc loài người.

          Cũng vẫn trong chiếc hộp cứng này là một túi vải bố, kêu leng keng những cúc áo hình chuông lâu ngày hen gỉ, những nút gài bằng đồng đã mục và đinh bọc, những đồng đô Carolus ẩm màu lục nhạt (đồng thật cả), ngoài ra còn những đinh vít sắt khác nhau, những cái đục dập méo và những đinh cọc tàu. Gõ lên nắp rương, các đồng đô kêu rõ như chuông tu viện. Jarl cẩn thận để riêng chúng sang một bên - chỉ cần thấy tiền thật là những nỗi nghi ngại mê tín của ông tạm tan biến. Trung thành với huyết mạch vương giả,  ông yêu những đồng tiền thật dẫu rằng ngoài biển khơi, không có lấy một mảnh đất nào để tiêu tiền, thì số bạc ấy cũng chẳng khác gì than củi hay kim cương - tức là vô dụng. Các nhà hóa học nói rằng bạc và than gần như là một thứ; nhưng hãy thử nói điều đó với thủy thủ hay dân buôn đá quý mà xem. Đi đi, đi mà mua lấy một căn nhà, hoặc một con tàu, nếu có thể, bằng cục than của mày xem! Phải, hết thảy mọi khu rừng bên Canada hóa từ than xuống tro cũng chẳng đáng một viên kim cương Brazil trứ danh, dẫu chẳng lớn hơn một quả trứng chim bồ câu đưa thư. A! nhưng các nhà hóa học này nói dối, và Sir Humphrey Davy là một tay gian lận. Lắm kẻ tội nghiệp bị họ huyễn hoặc sa vào chuyện làm ăn than củi, những người hẳn đã có thể gầy dựng cả một gia tài với cái cuốc chim.

          Dò dẫm bên trong rương lần nữa, chúng tôi moi ra được một thùng da nhỏ kỳ quặc, trơ trụi và lặc lìa. Ở mỗi góc là một cái kẹp sắt lớn, mà cân nặng của nó chắc chắn làm yếu đi cái hộp. Nó được bo bo đóng chặt bằng một móc khóa, to suýt soát cỡ cái hộp; vậy nên cái móc khóa gần như là một vấn đề, được dùng để bảo vệ cho cái hộp kia. Dốc sức nạy, cuối cùng chúng tôi cũng mở ra được; nhưng chẳng thấy đồng vàng moidores nào, đồng doubloon đỏ hây cũng không; chẳng có gì bên dưới gầm trời này ngoài ba cái cốc thiếc, những thứ ấy được dùng trong cabin tàu, vài đinh vít và đĩa bằng đồng, hẳn là của thước đo góc; cùng những hạt thủy tinh cả mớ và những nhẫn đồng thau trong khi, được dán ở lớp trong, một bản in màu nhỏ hình các gái điếm, những ả gái không biết thẹn mặt, đang đàn đúm với Đứa Con Hoang Đàng.

          Lẽ ra cũng phải nói thêm rằng khi đang bận rộn ở boong mũi, đôi lần chúng tôi giật mình vì những tiếng động lạ bên trên. Và ngay sau đó, va mạnh vào thùng da nhỏ, một chiếc ròng rọc từ đỉnh cột buồm rớt xuống, xuyên ngay qua cửa sập, suýt nữa trúng đầu ông Viking của tôi, một vật rắn chắc hơn rất nhiều so với bất kỳ thứ mũ vàng nào mà thợ kim hoàn thời nay chế tác. Điều này khiến chúng tôi giật mình lắm; nhất là với Jarl, không ngoài dự đoán; nhưng vì tôi đã quen với những tiếng cót két và rò rè lạ lùng của những cột buồm và xà buồm trên các con tàu cũ và nhiều lần đã tránh được những ròng rọc rải rác chẳng may rơi xuống từ trên cao, tôi ít nghĩ về vấn đề này, dù ông bạn tôi dường như cho rằng những tiếng động ấy có phần khác với những tiếng mà ông từng nghe trước đây.

          Sau khi lật giở thêm ít đống đồ lộn xộn trong khoang mũi và còn ngạc nhiên thêm vài phần nữa, chúng tôi đi lên boong chính; ở đó yên tĩnh đến mức, khi chúng tôi bước về phía đuôi tàu, Ông Giời bất giác chuyển sang thì thầm với tôi.

CHƯƠNG XX

NHỮNG TIẾNG ĐỘNG VÀ ĐIỀM BÁO

 

          Tôi mong cho ngày đến. Vì dù lúc này có chiều tin rằng con tàu brigantine không có người, tôi vẫn khát khao ánh sáng mặt trời để xua tan hoàn toàn mọi nghi ngờ.

          Trước khi lên tàu, tôi đã để ý thấy con tàu nằm khá thấp trên mặt nước, nên nghĩ cần thiết phải đo hầm tàu. Nhưng không có sẵn dây và chì dọi, tôi sai Jarl đi tìm trong rương đựng dụng cụ ở boong sau - chắc chắn phải có ở đó. Trong lúc ấy thì tôi đi tìm các “đập”, hay bơm tay, mà hóa ra gần đây có vẻ chẳng ai dùng - chúng được tìm thấy bị buộc dọc vào cột buồm chính.

           Bỗng Jarl chạy về chỗ tôi, thì thầm rằng toàn bộ nghi ngờ đều đã bị xua tan; trên tàu có ma, chắc luôn. Ông đã vô tình nghe được một tiếng hắt hơi siêu nhiên. Nhưng lúc này tôi gần như đã tin chắc rằng chỉ có hai chúng tôi trên chiếc brigantine. Nếu có ai khác thì chẳng có lý do gì trên đời để họ phải trốn tránh hai thủy thủ đơn độc, những người mà nếu muốn, họ đã có thể dễ dàng khống chế. Vả lại, sự nhiễu loạn không khí trên cao do cái hắt hơi này, Jarl quả quyết đã xảy ra trên đài cột buồm chính, ngay chỗ tôi đứng bên dưới suốt nãy giờ mà chẳng nghe thấy gì. Thật đáng khen cho ông Viking của tôi về sự tinh nhạy vượt trội của hai vành lỗ nhĩ, tôi bảo ông thôi đừng phiền nhiễu bản thân ông bằng những hồn ma với cả yêu tinh giặc biển nữa, chúng làm gì xuất hiện ở đâu ngoại trừ trong trí tưởng tượng của ông.

          Khi không tìm thấy dây câu và hòn chì; bằng đầu thừa của một đoạn dây chằng, chúng tôi trang bị thành một vật thay thế; và khi thám hiểm hầm, chẳng thấy có gì có thể làm cho chúng tôi hoảng hốt. Tuy nhiên, trong những tình huống nhất định, việc thám hiểm hầm tàu cũng đủ là một chuyện gây lo lắng. Nó giống như cảm thấy mạch đập của mình vào đoạn cuối cơn sốt.

          Theo gợi ý của Ông Giời, chúng tôi quyết định cho tàu xoay đầu sang hướng gió đối diện. Trước khi trời sáng, chúng tôi muốn thay đổi vị trí của con tàu càng ít càng tốt, lo lỡ đâu gặp phải những rặng đá ngầm.

          Và cũng nên nói thêm rằng, mặc cho bao linh cảm mê tín về con tàu, việc ông quy cho nó một thứ gì tương tự như ma, lão Jarl thực thà vẫn luôn vô cùng thực tế và dứt khoát trong mọi gợi ý và hành động liên quan đến nó. Theo cách ấy, ông giống như người bạn Đức Cha của tôi, Giám Mục Berkeley - quả thực là một trong những vị chủ chăn linh hồn - người mà, nói theo lẽ siêu hình, xem mọi đối tượng chỉ là những đánh lừa thị giác đơn thuần, tuy vậy lại cực kỳ xét thực trong mọi vấn đề liên quan đến bản thân vấn đề. Ngài vẫn cảm nhận được đầu nhọn của cây kim, và vẫn có khẩu vị biết thưởng thức bánh pudding mận: một câu đọc lên nghe như tiếng mưa đá rơi đồm độp.

          Giờ đây, khi chúng tôi vào việc đặt mối nối quanh các xà buồm, Jarl thầm thì thấy phải quấy tôi lần nữa với những nghi ngờ chết tiệt của ông về yêu tinh trên tàu. Ông lấy cột buồm chính ra mà thề, rằng khi xà buồm mũi được xoay thì ông nghe thấy một tiếng rên nghèn nghẹt từ khu vực ấy, như thể con ngáo ộp của ông bị kẹt cái chân gió của nó. Tôi cười, nói bóng gió rằng yêu tinh chúng nó đâu có thân xác. Nhân đó ông van tôi đi đến giàn dây mũi tàu và tự mà kiểm tra xem. Nhưng lần này, lý trí trưởng thành đã thắng thế trước sự bốc đồng ban đầu. Tôi nhã nhặn từ chối.  Vì dù sao thì, vẫn có khả năng - dù rất nhỏ - là có kẻ nào đó còn sống đang ẩn nấp ở đỉnh cột buồm mũi; và nếu tôi đang treo lơ lửng giữa không trung, tay đầy dây dợ, chân không chạm sàn, mà có một cánh tay vô hình đẩy tôi rơi khỏi sườn cột chéo nghiêng kia, thì tôi biết sẽ ra sao rồi. Vậy nên tôi giữ yên phần mình trong khi Jarl tiếp tục tuyên bố rằng mình đã quyết định xong về bản chất con brigantine này: nó là một con tàu giả hiệu trâng tráo, một cái bóng tàu, đầy hồn ma thủy thủ, và trước khi chúng tôi kịp hiểu chuyện gì, nó sẽ tan vào một cơn bão siêu nhiên, để lại hai chúng tôi trơ trọi giữa biển khơi. Nói gọn, Jarl, hậu duệ của những người Na-uy mê tín, đầy những tưởng tưởng Na-uy kỳ lạ cổ xưa và hết thảy tập quán của những kỳ quan Valhalla, bận trí đến vùng đất của những yêu tinh lẫn những cốc vàng. Chẳng trách rằng với tai họa sắp đến, ông lần nữa khẩn khoản cầu xin tôi bỏ con tàu xấu số này đi, đừng mang theo thứ gì khỏi thân tàu quỷ ma này. Nhưng tôi từ chối.

          Ta chẳng thể thuật lại mọi thứ cùng một lượt. Khi đang ở trong cabin, chúng tôi gặp một “cây” bánh quy, và thấy nó chứa một món chất lượng vượt trội hơn loại của chúng tôi, chúng tôi bỏ đầy túi và lắm phen thấy mình ngang hàng vua chúa trong những đợt lùng sục. Giờ chúng tôi mang giỏ quà bánh biển khơi này lên boong. Và lần đầu tiên kể từ lúc chào vĩnh biệt con tàu Arcturion, sau khi được uống cho đã khát, khẩu vị của chúng tôi bỗng trở lại; và chẳng có gì hay ho hơn để làm cho đến khi trời sáng, chúng tôi đặt cây bánh giữa boong lái và bắt chéo chân trước nó, bao vây sát sạt, như vua Đại Thổ và Vizier Mustapha của ngài ngồi trước thành Viên.

          Lâu đài của chúng tôi, cái Cây Bánh, thuộc loại thường thôi; một thùng gỗ sồi hình thuôn, bị móp méo và sứt mẻ quá, và như các Elgin Marbles, đầy những câu khắc và chạm nổi: những chiếc mỏ neo bẩn, những trái tim bị đâm xuyên, những niên lịch, Burton-blocks, thơ tình, những mắt xích, những quân Già, những lược đồ bí ẩn bằng phấn đủ loại, được các thủy thủ Phần Lan vẽ ra, trong khi đang đúc khuôn những tử vi và lời tiên tri. Các thủy thủ xưa của bạn là các tiên tri Daniel hết thảy[20]. Cây bánh có một lỗ tròn ở một bên dùng để lấy bánh qua đó, mời mọc các thực khách cho tay vào.

          Và vào đêm ấy, những cái đưa tay lấy bánh mới mạnh mẽ làm sao; đồng thời là những cái liếc nhìn báo hiệu của ngài Mustapha theo mỗi một tiếng cót két bất chợt của những xà buồm hoặc dây chằng. Hệt như Belshazzar, ông Viking vương giả của tôi ăn với nỗi lo sợ và run rẩy lớn lao; chốc chốc lại ngừng để canh những bóng hoang lướt dọc mạn tàu.

CHƯƠNG XXI

CÓ NGƯỜI!

          Chầm chậm, chập chờn, buổi sáng đã rạng ở đằng Đông, lộ ra con tàu hai cột buồm tiêu điều dựng nặng nề qua làn nước, uể oải chịu thụi bên dưới mũi tàu. Khi tung vó từ biển này qua biển kia, chiếc Dê Biển trung thành của chúng tôi, như một chú chó trung thành, vẫn nhảy nhót sát bên, bị cột vào bao lơn chính bằng dây buộc thuyền của nó. Thi thoảng nó tụt một đoạn xa phía sau rồi lại được đẩy nhờ một ngọn sóng như chớp dội tới, cho đến khi được thắng dây cương, trở lại theo sau.

          Khi làn ánh sáng xám nổi lên, chúng tôi lo lắng nhìn kỹ các đặc điểm của con tàu, từng chút từng chút một chúng hiện ra rõ ràng hơn. Mọi thứ giờ dường như kỳ lạ hơn lúc chỉ thấy mờ mờ trong màn đêm tối xỉn. Các cột chống sườn tàu hoặc các trụ ở hai bên mạn là những cọc thô, vẫn còn vỏ cây. Thành tàu chưa sơn, làm từ một loại gỗ sẫm màu, trông thật dị giáo và xa lạ. Cần lái là một cành cây to vẹo cổ, gấp khuỷu, thọc xuyên qua boong lái, như thể tự thân cây đã nhanh chóng đâm rễ dưới hầm tàu. Hộp la bàn thì được che chắn hai bên bằng thảm thô vàng. Dây neo buồm - dàn dây níu, các dây nâng buồm vân vân - thì làm từ “Kaiar” hay xơ dừa; và chỗ này chỗ kia thì các lá buồm được vá bằng những tết bấc.

          Nhưng chưa hết. Người nào dò mò, người ấy phải có đèn soi vào chỗ ngờ vực. Liếc qua bên mạn, trong đường của mỗi lỗ thoát nước, chúng tôi thấy một vết ố đỏ, đã mờ, mà Jarl quả quyết là máu. Nhưng giờ đây ông chẳng lộ ra một chút run sợ nào, vì thứ ông nhìn thấy chẳng phải thứ gì ma quỷ và mọi nỗi lo sợ của ông đến nay đều là sợ thứ siêu nhiên.

          Thật vậy, khi ngày mới vừa lên, người Viking của tôi bỗng trở nên gan góc như sư tử; và chẳng mấy chốc, với bản năng của người thủy thủ lành nghề, ông đưa mắt nhìn lên cao.

          Ngay lập tức, ông đụng tay tôi, “Nhìn kìa: cái gì động cựa ở bao lơn chính vậy?”

          Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, ở đó có thứ gì đó còn sống.

          Chụp hai bàn tay, chúng tôi nhìn nó; khi trời sáng dần, thấy một kẻ lạ đang nép mình.

          Giơ súng, tôi hô bảo hắn trèo xuống hoặc là bị bắn. Một khoảng lặng kéo dài, rồi một khẩu súng trường đen sì thò ra, nhắm thẳng vào đầu tôi. Ngay lúc ấy, cây lao móc của Jarl đã chuẩn bị găm một cú: hai chọi một; và tôi lại hô lên lần nữa. Nhưng vẫn không có tiếng đáp.

          “Ngươi là ai?”

          “Samoa,” một tiếng rõ, chắc.

          “Xuống khỏi dây neo buồm. Chúng ta là bạn.”

          Một khoảng lặng khác; thế rồi trỗi dậy, kẻ lạ chầm chậm leo xuống, một tay giữ dây neo buồm, vì tay hắn chỉ còn một tay; cây súng hỏa mai của hắn một phần thì quàng sau lưng, một phần thì kẹp chặt bên dưới mẩu tay tật.

          Hắn đáp xuống độ sáu bước cách chỗ chúng tôi đứng; và giữ vũ khí của mình cho cân, giương mắt nhìn can đảm như hoàng tử Cid.

          Hắn là một Dân Đảo tướng cao, đen, trông rất dữ, diện váy và khăn xếp theo lối rất kịch; váy vải calico họa tiết sặc sỡ, khăn đỏ vải lụa Tàu. Cổ hắn lúc lắc những xâu râu.

          “Trên tàu này còn ai khác nữa?” Tôi hỏi trong khi Jarl - từ nãy đến giờ vẫn chĩa vũ khí vào kẻ lạ mặt - giờ hạ nó xuống boong.

          “Kia kìa: Annatoo!” hắn đáp bằng thứ tiếng Anh bập bõm, chỉ lên đài cột buồm mũi. Thì này! Một phụ nữ, cũng là một Dân Đảo, tém các lớp váy, vận lối rất giống Samoa, trèo xuống.

          “Còn nữa không?”

          “Hết rồi.”

          “Vậy các người là ai; và cái tàu này là gì?”

          “À, à - ngươi không phải ma; nhưng ngươi có phải bạn ta?” hắn kêu lên, vừa tiến lại vừa nói; trong khi người phụ nữ, đã xuống boong, cũng đến gần; ngóng liếc.

          Chúng tôi đã bảo chúng tôi là bạn, rằng chúng tôi chẳng cố hại ai nhưng muốn biết con tàu này là gì và cái họa gì đã ập xuống đây; vì có điều không may đã xảy ra, chúng tôi chắc chắn.

          Tới đây, Samoa trả lời rằng quả thực có điều khủng khiếp đã xảy ra và rằng chàng sẽ vui lòng kể lại tất cả cho chúng tôi nghe, cho chúng tôi biết sự thật. Và chàng khởi sự mà rằng.

          Giờ đây, câu chuyện của chàng được thuật lại theo lối dụng ngữ pha trộn của thủy thủ Polynesia. Cùng đôi ba suy ngẫm hú họa, nó sẽ được tìm thấy trong sáu chương kế tiếp.

 

CHƯƠNG XXII

ĐIỀU ĐÃ XẢY RA TRÊN TÀU BRIGANTINE TẠI QUẦN ĐẢO VỎ TRAI NGỌC

 

          Tàu này là tàu Parki, ở Lahina, thuộc một ngôi làng và cập cảng ở vịnh Mowee, một đảo ở quần đảo Hawaii, nơi con tàu được người ta đóng vội cách thảm thương bằng những tấm ván gỗ bản địa và những mảnh xác tàu, ngoài khơi dạt vào bờ.

          Tên của tàu được đặt để vinh danh vị tù trưởng cấp cao[21], quý ông cao nhất, có duyên nhất trong toàn bộ Quần Đảo Sandwich. Với hỗn tạp một đoàn thủy thủ những người Châu Âu và bản địa (nhưng cả thảy chỉ có bốn người da trắng, tính cả thuyền trưởng), tàu Parki, vài tháng trước đó, đã giong buồm khỏi cảng trên chuyến hải trình hướng về phía nam, đi tìm ngọc và vỏ trai ngọc, sên biển, và những thứ khác thuộc loại ấy.

          Samoa, một người bản địa thuộc Quần Đảo Navigator, ra biển đã lâu và được ca tụng trong giới thương nghiệp lặn mò vỏ trai và những bí ẩn dưới biển của nó. Những người Lahina bản địa trên tàu ngay lập tức dưới cơ chàng; thuyền trưởng còn mặc cả với Samoa để họ được làm công việc thợ lặn.

          Người phụ nữ, Annatoo, là một người bản địa từ một đảo vô danh xa xôi về hướng tây: nơi mà, khi còn khá trẻ, nàng được chăm sóc bởi chỉ huy trưởng của một con tàu đi từ Macao đến Valparaiso. Ở Valparaiso người bảo hộ của nàng đưa nàng lên bờ, nhiều khả năng, như sau đó tôi có lý do để nghĩ vậy, vì một sự rầy rà.

          Tình cờ xảy ra chuyện rằng khi nụ hoa xuân của nàng đã tàn, chẳng còn lại gì ngoài một thân hình hảo sắc và một tâm hồn còn hảo sắc hơn, Samoa, người đảo Navigator, đã yêu nàng điên cuồng. Và trong đầu chàng đã có ý với nàng, kẻ cũng dũng cảm như chàng và chắc chắn thích nghi tốt với những chuyển vần của đời sống hôn nhân trên biển, chàng toan tính chuyện tự sát - ý tôi nói, chuyện kết hôn - và cả hai được kết làm một. Và một thời gian sau đó, với vai trò người vợ, Annatoo phu nhân lên con tàu brigantine cùng Samoa tướng công. Hệt như Antony bỏ chạy đến với những cái ôm thừa của Ceasar, Samoa cũng tìm an ủi trong vòng tay bị vứt bỏ của người đẹp. Và kết quả không khác gì nhau. Bởi Cleopatra đã chẳng làm cho cuộc đời người bạn chân thành của tôi, Mark đáng thương, khó khăn hơn so với cách Bà Hoàng Annatoo dẫn dắt tù nhân của cây cung và cây giáo của bà. Nhưng cái gì cũng có thời điểm của nó.

            Họ rời cảng, băng qua Vùng Nhiệt Đới và Đường Xích Đạo, đến sống ở một cụm đảo có vô vàn những vỏ sò. Và ở đây, chẳng hề lạ khi nói rằng ngoài những người bản địa, họ còn gặp một cặp người Cholo hay Tây Ban Nha lai từ đảo Main: một nửa lai Tây Ban Nha, nửa còn lại chia phần tư giữa Ấn hoang dã và quỷ sứ, một dòng giống mà từ Baldivia đến Panama đã khét tiếng vì tính côn đồ bất nhân.

          Bấy giờ, mấy gã người lai bỏ tàu đã, tại quần đảo này đã vươn lên hàng quyền cao cấp trọng giữa những người bản địa. Nghe vậy, thuyền trưởng tàu Parki lấy làm vừa lòng lắm; ông, người ngu dốt đáng thương, trước đây chưa từng giao du với kẻ nào thuộc cái dòng phản phé ấy. Và ông hẳn tưởng rằng ảnh hưởng của họ với Dân Đảo sẽ mang lợi thế cho ông. Ông đem quà biếu cho mấy gã Cholo, những người mà, đối lại, cung cấp thêm cho ông những thợ lặn thuộc dân bản địa. Đã vậy, họ còn rất tử tế chỉ cho những chỗ mò trai tốt nhất. Nói ngắn gọn, họ thân thiện quá mức, thường qua lại trên tàu và dùng bữa thân mật với ông thuyền trưởng trong cabin, đặt lọ muối giữa họ và ông[22].

          Mọi sự đều vui vẻ cho đến một buổi sáng nọ, bọn người lai bảo ông đi với họ, bằng con thuyền săn cá voi của ông, đến một chỗ nông ở phía bên kia đảo, cách một quãng tính từ chỗ đang đậu con tàu brigantine. Họ còn sắp xếp mọi chuyện sao cho chỉ có đám người Lahine dưới quyền Samoa, người mà thuyền trưởng rất mực tín thác, được để lại trông coi tàu Parki; còn ba người da trắng thì cùng nhau chèo vì khi ấy trời chẳng có bao nhiêu gió để mà giong buồm.

          Con tàu hai cột buồm bạc mệnh đang neo ở trong một đầm phá tròn, sâu, lặng, được viền quanh bởi những rặng cây tuyệt đẹp, trừ một phía. Ở một bên là lối ra biển, có khi độ chiều dài một đoạn dây neo tàu hoặc hơn tính từ nơi con tàu đang đậu. Một hai giờ sau khi đảng ấy rời đi và khi con thuyền hoàn toàn đi khỏi, những người bản địa ở các chỗ nông được trông thấy đi ra biển; vài người đi xuồng, vài người bơi. Tốp trước mang mít bột và chuối, rình rang chất đống trên thuyền; tốp sau lôi theo những buồng dừa; với toàn bộ của nả ấy, khi tiến gần đến tàu, họ lớn tiếng đòi đổi chác lấy dao và rìu.

          Từ các hành động này, nghi ngờ có phản bội, Samoa đứng ở cầu thang mạn đuổi mấy người này đi, nói rằng không nhận đổi chác cho đến khi thuyền trưởng trở lại. Nhưng bỗng một kẻ trong bọn man dã lén lút trèo lên từ dưới nước và nhanh chóng nhảy phóc từ dây chằng mũi đến xà mũi tàu, găm một cú lao trúng ngay cột buồm mũi: nó nảy bần bật. Một dấu hiệu đổ máu! Với những tiếng la ó, số còn lại lôi vũ khí - nãy giờ được giấu trong các xuồng hoặc dưới những buồng dừa thả nổi - ra, bật nhảy vào bao lơn thấp của tàu, nhảy qua mạn, và bằng những cây chùy và giáo, đám người tấn công với sự dã man vô cùng.

          Sau một cuộc tập hợp yếu ớt, những người Lahina giành giật lấy dây neo buồm; nhưng bị một kẻ bắt kịp và giết chết.

          Ngay khi có báo động đầu tiên, Annatoo đã kịp trèo thoát lên xà buồm ngọn, cao hơn so với khả năng leo trèo của nàng và là nơi mà bọn người man dã chẳng dám mạo hiểm. Vì những trái dừa, đám Polynesia này sẽ leo trèo như sóc, nhưng mới nhìn cái cột buồm, họ đã xin kiếu như các nông dân miền Kennebec.

          Vào biểu hiện đầu tiên của cuộc tấn công dữ dội, Samoa, sau khi lao tới cửa thông cabin lấy vũ khí, đã bị hai tên man dã trẻ công kích. Nhưng sau ẩu đả ghê gớm chớp nhoáng, vì nó mà chàng đã mất cánh tay, chàng tìm cách lao xuống dưới và lập tức gài cửa thông đóng chặt trên đầu. Trong cabin, khi tiếng ồn ào giết chóc còn chưa lan tới, chàng lặng lẽ buộc cánh tay rồi đặt ba cây súng hỏa mai của thuyền trưởng lên dầm tàu, kiên trì chờ đột kích.

          Mục tiêu của những người bản địa hình như chính là đánh đắm con tàu brigantine bằng bãi san hô nhọn ở đầm phá. Và với ý định này, một người trong nhóm họ đã xuống biển, cắt dây neo làm từ sợi gai dầu. Nhưng triều đang xuống, đưa đầu tàu Parki ra biển - về phía cửa đầm; thấy vậy, bọn thổ dân vụng về trèo lên mé buồm trước, kéo căng tấm vải buồm đã được tháo ra từ trước để phơi, nhờ đó mà - theo kiểu của chúng - buồm trước được giương lên.

          Trong khi đó, một thủy lãnh già bạc đầu đã bình tĩnh đứng ở cần lái, toan lái con tàu về phía bờ. Nhưng không xoay xở được vô lăng lái cho đúng, con tàu cướp biển, bấy giờ đang lướt nhanh qua làn nước, chỉ càng hướng về phía cửa đầm. Thấy vậy, mấy tay đầu đảng, sáu hoặc tám người, chạy đến giúp ông già râu bạc ở lái. Nhưng xui cho bọn chúng, trong khi chúng đang điều khiển cần lái, ba cây súng hỏa mai bắn vào chúng từ cửa sổ trần ở cabin. Hai tên trong số bọn man chết ngay tại chỗ. Còn ông già lái tàu, điên cuồng bám lấy vô lăng lái, ngã gục, bị thương chí mạng và trong cơn hoảng loạn điên cuồng khi thấy tù trưởng của chúng bị giết không rõ lý do, đám dân bản địa còn lại cũng nhảy xuống biển và tìm đường về bờ.

          Nghe tiếng tóe nước, Samoa lao lên boong; nhìn thấy buồm mũi đã giương và con tàu cướp biển đang hướng thẳng ra biển, chàng gọi lớn với Annatoo, vẫn ở trên cao, xuống xà buồm trên và nới lỏng tấm buồm ở đó. Lệnh của chàng được thi hành. Annatoo đáng được nhận một huy chương vàng cho việc làm của nàng hôm ấy. Buộc dây neo buồm, sau khi nới lỏng buồm trên, thì nàng chăng các lá buồm cho chặt; trong việc này, nàng được Samoa hướng dẫn - chàng ta đã tranh thủ rời tay khỏi bánh lái trong chốc lát để giúp nàng..

          Buồm mũi và buồm trên lúc này đã khá sẵn sàng; và khi con tàu hướng ra biển, gió càng mạnh. Được vậy thì rất tốt, bởi lẽ khi tĩnh trí khỏi cuộc báo động, mấy người man dã đã lại đuổi theo ráo riết, một số đi xuồng, và một số khác bơi. Chẳng bao lâu, buồm trên cũng được giương đón gió - lúc này đang mạnh dần lên, thổi chếch từ phía sau mạn tàu. Với màn phô buồm đầy dũng mãnh ấy, tàu Parki lao thẳng đến cửa đầm, lướt qua bãi san hô trong tiếng reo vang dội của Samoa và xé đôi những con sóng lừng bên ngoài. Ngược sóng, bọn người man dã không bơi được. Và vào lúc triều đổi hướng ấy, chèo xuồng vượt ra cũng chẳng dễ hơn bao nhiêu. Nhưng những người chạy nạn vẫn chưa được an toàn. Trong tầm mắt giờ lại xuất hiện những thuyền săn cá voi của bọn người Cholo đang đuổi theo hết tốc lực, cùng bốn hoặc năm Dân Đảo. Samoa lập tức không còn nghi ngờ gì nữa: tất cả người da trắng rời tàu từ sáng chắc chắn đã bị sát hại bởi sự phản trắc của lũ lai, và việc chiếm đoạt con tàu cướp biển hẳn đã được mưu tính trước; Samoa khi ấy chẳng có phương sách nào khác ngoài việc chĩa con tàu đi một mạch khỏi vùng đất này.

          Bấy giờ bọn quỷ sứ đang dốc sức chèo. Trong khi ấy, Annatoo vẫn bận rộn ở trên, nới lỏng những lá buồm nhỏ hơn - buồm ngọn và buồm thượng, mà nàng chỉ mới giương được phần nào.

          Gió mạnh từ đuôi tàu giờ căng đầy những lá buồm giương vụng, chúng căng gió và phần phật trên cao như những khí cầu, còn các cột buồm thì vì sức căng bất ngờ mà rung lên bần bật. Như một con mòng biển hoảng sợ trốn chạy khỏi những con diều hâu biển, tàu Parki nhỏ nhoi lao đi, dũng cảm rẽ làn nước mặn.

          Cánh tay nát quàng vào một sợi dây gai dầu, Samoa đứng ở vô lăng lái, nạp lại cây súng hỏa mai được cắm chặt trước chàng trên la bàn từ. Trong một lúc, con tàu lái rất vất vả, vì rằng các lá buồm giương chưa tốt, lại do sức gió càng làm cho tàu khó điều khiển hơn - đến mức, bất chấp khoảng cách ban đầu, cũng không rõ những kẻ bỏ trốn có tránh khỏi sa vào tay truy binh hay không. Con tàu đi chệch ngả nghiêng, và mấy chiếc xuồng thì càng lúc càng tiến gần. Phát điên vì cảnh tượng ấy và có lẽ còn nghĩ đến việc trả thù chuyện đã qua hơn là lo cho an toàn trong tương lai, Samoa nhường vô lăng lái cho Annatoo, đặt các cây súng hỏa mai của chàng trên mạn tàu, nhắm kỹ và bắn từng kẻ địch tiến đến.

          Ba tiếng súng được đáp lại bằng những lời chế giễu inh ỏi từ bọn người man dã vung giáo nhạo báng, trong khi hết sức bình sinh bọn người Cholo kéo mạnh các mái chèo.

          Thuyền vẫn đuổi theo con tàu brigantine, các khẩu súng hỏa mai lần nữa lại được nạp đạn. Bắn mạnh cú tiếp theo thì có một quãng ngừng, khi mà, như chớp nhoáng, tên Cholo ngồi đầu xuồng bật khỏi chỗ của hắn, mái chèo trong tay, ngã xuống biển. Một tiếng la dữ dội; một người bản địa trong bọn nhảy phóc xuống nước, tóm lấy mớ tóc dài của cái xác đang chìm, và kẻ chết lẫn người sống được kéo lên xuồng. Được khích lệ nhờ phát súng chí tử này, Samoa lại nổ súng lần nữa nhưng không được kết quả tương tự; chỉ sượt qua tên lai còn lại, kẻ đang nép mình phía sau các đồng bạn của hắn, van xin họ quay đầu thuyền và hướng về bờ. Được báo động về số phận người anh em của mình và dường như ngờ vực về tính thiên vị trong phát súng của Samoa, tên côn đồ nhu nhược nhất định không ló đầu ra ngoài dẫu là mảy may bên mép mạn.

          Giờ đây, bọn truy đuổi cũng muốn trốn chạy cho xong, nhưng một tai nạn đã cản bước. Khi chiếc xuồng bị nghiêng mạnh và tên Cholo bị trúng đạn nhảy xuống biển, hai mái chèo trượt khỏi mạn xuồng rơi xuống nước; cùng với chiếc thứ ba mà gã lai đang nắm cứng trong tay lúc chết, tất cả giờ đều trôi dạt đi, lúc ẩn lúc hiện, khi lặn xuống những lòng sóng. Hai Dân Đảo bơi đến để giành lại chúng; nhưng khiếp sợ vì tiếng vù vù của phát súng trên đầu, không còn cách nào khác tiếp cận được tàu Parki, họ nhanh chóng đổi ý, vừa kịp nhìn thấy một kẻ trong bọn vồ lấy ngực vì đã lãnh một viên đạn từ Samoa.

          Thấy đã đủ, lao qua con xuồng bạc mệnh, hai kẻ ấy vội vã bơi về đất liền, theo sau là mấy người còn lại; những người lao mình xuống biển bỏ mặc chiếc thuyền cho tên Cholo còn sống - có vẻ chẳng biết bơi, một tên man dã bị thương, và một xác chết.

          “Nạp đạn đi, và báo thù cho thỏa, người bạn cừ của ta,” Samoa tự nhủ. Nhưng chưa hết. Nhìn thấy cả lũ đã nằm trong tay mình - và bản thân chẳng có lòng thương xót, chàng nhanh chóng buộc buồm chính vào cột buồm mũi, “căng” con tàu brigantine, một lần nữa khai hỏa vào thuyền; mỗi đỉnh sóng nhấp nhô khiến con thuyền mỗi lúc một gần. Mọi nỗ lực trốn thoát coi như xong. Kẻ bị thương chèo điên cuồng, người chết thì bị sóng cuộn từ bên này sang bên kia, còn tên Cholo, chộp lấy một mái chèo, trong cơn bất ý mê loạn của hắn, xoay thuyền vòng vòng; trong khi đó, từng phát súng nối từng phát súng, Samoa khai hỏa nhanh như Annatoo nạp đạn. Rốt cuộc cả hai tên Cholo và kẻ man dã chết cùng các đồng bạn của chúng, làm thuyền nghiêng hẳn một bên, suýt thì chìm, và cứ thế trôi dạt đi.

         

CHƯƠNG XXIII

DONG BUỒM KHỎI ĐẤT LIỀN HỌ CƯỚP PHÁ CABIN

 

          Ở boong mũi có một khẩu đại bác thủy quân nhỏ, được tháo dỡ khỏi xe chở pháo và được buộc chặt vào các bu lông vòng trên boong. Samoa bấy giờ nạp đạn khẩu đại bác này và lấy rìu đánh bật cái núm tròn ở khóa nòng, nhồi thuốc vào tuýp. Thế rồi, đưa khẩu đại bác ra một trong các cửa bên và nhắm kỹ mục tiêu, chàng khai hỏa, đánh chìm thuyền và chôn xác kẻ chết.

          Trời đã vào cuối chiều; nhất định tránh đất liền, tăng tốc hướng ra biển vô biên, không cần biết ở đâu, Samoa, một lần nữa cho tàu đi trước gió, bỏ mặc hòn đảo đằng sau. Các boong tàu vẫn còn ngổn ngang xác chết của mấy người Lahina, chân bắt lên đầu, chéo nhau như mấy khúc củi, được chất đống lên cửa bật ở buồm chính. Mấy cái xác này, từng xác một được đưa xuống biển; sau đó, họ chùi rửa các boong tàu.

          Sáng hôm sau, thấy đã khuất tầm khỏi đất liền, gió lại chẳng bao nhiêu, họ dừng tàu và buộc cần lái vào mạn dưới gió để rà lại con tàu kỹ lưỡng hơn, nhất là các hốc trong cabin. Ở đó là các kho chứa của cải để dành đổi chác với Dân Đảo; thêm cả vài túi đô la.

          Quả thật, không gì sánh nổi lòng tham của người Polynesia, một khi - qua sự giao thương phần nào với người da trắng - mắt chàng mở ra trước cảnh trần trụi của chính mình, và chàng nhận ra rằng ở một số phương diện, bọn họ giàu hơn mình nhiều.

          Tủ quần áo của viên hoa tiêu trưởng tội nghiệp được khám phá trước tiên; các rương áo quần được lật úp, và vật chứa bên trong nằm rải rác khắp sàn cabin.

          Rồi họ mặc y phục. Samoa và Annatoo vận thử các áo khoác và quần dài, áo sơ mi và quần đùi, ngắm nghía mìnhtrong tấm gương được đóng pa-nô trên vách ngăn. Tiếp đến là các thùng và các kiện bị nứt, không nắp; các cuộn vải cotton in hoa được kiểm tra và được ngưỡng mộ vô cùng, nhiều đến độ những vật tạp nhạp được tìm thấy trong các rương đồ của thuyền trưởng đã bị khinh bỉ vứt đi; họ quấn lên mình những nếp vải calico, vốn hợp mắt họ hơn.

          Hết va-li này đến va-li nọ được mở ra và lật nhào, boong cabin thành ra dễ trượt chân vì những chuỗi hạt thủy tinh; cổ của Samoa và Annatoo thì nặng trĩu những chùm của cải đẹp mắt ấy.

          Trong số những món lộ ra, có cả đồ trang sức bằng đồng thau, Những Đồ Chợ Trời vô giá trị và trang sức lòe loẹt, và chính những món ấy lại được ưa thích nhất; Annatoo tự trang hoàng như một bà hoàng bi kịch: toàn thân chói lẫy những đồ đồng. Thương thay người phụ nữ được điểm trang nhường này mà chẳng có ai để chiêm ngưỡng ngoài Samoa chồng nàng; thế mà chàng khi ấy đang chiêm ngưỡng chính mình, chứ nào phải nàng đâu.

          Và ở đây cần phải thuật lại đôi điều đến giờ vẫn chưa nhắc đến. Vợ chồng này không phải Darby và Joan. Đời sống hôn nhân của họ là một chiến dịch dài hơi, mà các cuộc đình chiến chỉ diễn ra vào ban đêm. Họ hôn hít thủ thỉ với nhau trong vòng tay vợ chồng, rồi sáng mai tươi tỉnh thức dậy chiến đấu, và thường thì Samoa chịu nhiều hơn là một trận mái mổ. Tóm lại, Annatoo là một người Tartar, một người Calmuc điển hình, còn Samoa - Trời phù hộ chàng - là chồng nàng.

          Tuy vậy, trong lúc này, vì cảm giác nguy hiểm chung và vì còn mải mê lật giở những món châu báu giả, chưa ai kịp nghĩ đến chuyện của ai là của ai, nên họ tạm thời tránh được cãi vã. Nhưng bão táp đã chóng nổi lên. Sau khi lắc kỹ từng kiện lẫn từng va-li, Annatoo, phỏng tính tất cả của nả, hết sức tỉnh bơ khởi sự để riêng cho nàng bất kỳ thứ gì nàng thích. Samoa phản đối, và Annatoo phản đối cái sự phản đối ấy; thế là họ lao vào nhau.

          Chị vợ thề rằng mấy thứ của nả này chẳng là của Samoa hơn là của nàng, nói cho đúng thì còn kém, và rằng hễ muốn thứ gì, nàng sẽ có thứ ấy. Nàng còn tuyên bố rằng nàng chẳng là nô lệ của ai sất.

          Bấy giờ, Samoa, kể ra thật đáng buồn, không kém kinh hãi cô vợ hay kiếm chuyện của mình. Dẫu là một anh hùng trong những khía cạnh khác, dẫu chàng đã ra tay giết đám người man dã và can đảm dẫn dắt con tàu khỏi nanh vuốt của bọn chúng thì, như các thuyền trưởng anh dũng Marlborough và Belisarius, chàng là một kẻ nhát gan trước vợ. Và Annatoo còn ghê gớm hơn cả Sarah hay Antonina.

          Tuy thế, như một vết xước, đa phần chuyện vợ chồng cãi vã nhanh chóng được làm lành; vì nếu không làm lành thì sẽ không bao giờ nổ ra xung đột được nữa - mà ấy vốn là một cái đẹp của hôn nhân. Cho nên cuối cùng họ làm hòa với nhau; nhưng yêu sách hiệp ước của Annatoo quá mức ngang ngược với lợi ích của Samoa. Về mặt hình thức, họ nhất trí rằng họ nên chia đôi sòng phẳng, chị vợ đặc biệt tuyên bố chủ quyền với những đồ giá trị nhất định, nhất là mấy món đồ màu mè. Đổi lại, nàng rộng rãi từ bỏ mọi xưng nhận về dây neo buồm dư dùng, mọi xưng nhận về cột buồm mũi và cột buồm chính, và mọi xưng nhận về vũ khí của thuyền trưởng và đạn dược. Về những thứ của nả ấy, Lệnh Bà Antonina không cần. Giọng nàng là một bãi pháo binh; vuốt nàng là một cuộc lưỡi lê giáp lá cà.

CHƯƠNG XXIV

DÀNH TẶNG HỌC VIỆN CÁC Y SĨ VÀ PHẪU THUẬT GIA

 

          Vào lúc ấy, cánh tay bị thương của Samoa đang ở trong tình trạng mà việc phẫu thuật cắt bỏ trở nên thật cần thiết. Với người man dã, những thương tích cá nhân nghiêm trọng đa phần, được xem như chỉ là những chuyện cỏn con. Trong khi một người Châu Âu sẽ tuyệt vọng mà lên bàn mổ, thì một kẻ man dã sẽ coi thường mà nằm xuống

          Thêm nữa. Ở Polynesia, mỗi người đàn ông là một thợ cạo kiêm phẫu thuật gia của mình - cắt râu hoặc cắt tay, nếu hoàn cảnh bắt buộc. Bởi lẽ, chẳng có gì bất thường khi các chiến binh của Varvoo cưa bỏ các chi của mình, lúc bị thương đến khốn cùng nơi chiến trận. Nhưng do cách sử dụng dụng cụ lại không được khéo léo - một vỏ sò cứng như đá lửa, có mép răng cưa, người ta cho hay phẫu thuật ấy kéo dài đến cả vài ngày. Họ sẽ không để bất kỳ người bạn nào giúp họ; xác nhận rằng nếu vấn đề chỉ liên quan đến một chiến binh thì tốt nhất nên để người ấy tự lo thì hơn. Thành thử có thể nói rằng họ cắt bỏ bộ phận của mình những lúc thảnh thơi, và cất công cụ của mình khi đã mỏi mệt. Nhưng dẫu không hề chịu ơn ai có liên quan đến thực hành phẫu thuật, họ chẳng bao giờ tự cắt đầu mình, như tôi được nghe kể - một kiểu cắt bỏ mà, nói theo lẽ siêu hình, kiểu người muốn độc lập ở các vùng đất văn minh rất khoái.

          Cuộc phẫu thuật của Samoa làm rất qua loa. Một ngọn lửa được châm trong một cái bếp boong hoặc bếp ngoài trời, như vậy để tạo được nhiều khói. Sau đó chàng đặt cánh tay của mình lên một trong những cọc tời (một cọc gỗ dựng thẳng đứng, cao ngang ngực) và chộp lấy chiếc rìu bếp cùn để giáng đòn; nhưng vì một lẽ nào đó không tin tưởng độ chính xác của cánh tay mình nên Annatoo đã được giao công việc. Ba cú giáng, và cái tay, ngay trên cùi chỏ, bây giờ không còn là của Samoa nữa; chàng được nhìn thấy xương của chính mình, thứ mà nhiều người sống trăm tuổi còn chưa từng thấy bao giờ. Sự cồng kềnh của cuộc phẫu thuật lại an toàn với đối tượng. Khối lượng và độ cùn của công cụ làm dịu cơn đau và giúp cầm máu. Vết thương lúc này được đốt khô và hơ khói, đến khi mọi dấu hiệu của máu không còn nữa. Từ hôm ấy trở đi thì nó đã lành và chỉ gây phiền toái cho Samoa chút ít.

          Nhưng ta có nên kể phần tiếp theo? Rằng, do mê tín mà chàng ghê sợ việc chôn xuống biển một phần cơ thể còn sống - Samoa cho rằng nếu làm thế, chẳng bao lâu nữa chàng cũng sẽ chết chìm và đi theo nó luôn; và rằng, cũng sợ hãi chẳng dám giữ nó bên mình, rốt cuộc chàng treo nó tít trên cao ngay dây chằng đỉnh cột buồm nơi nó sắp được mắc vào, quấn tới quấn lui bằng vải liệm. Cái bàn tay ắt đã từng siết chặt bao nhiêu người trong cái ôm thân thiện hoặc đập tan kẻ thù, cái bàn tay, Samoa nghĩ, chẳng phải là thức ăn cho lũ chim trời hay cá biển.

          Vậy thì, phần nào mới là Samoa? Cánh tay lìa đu đưa trên cao như Haman[23]? Hay phần thân bên dưới? Là cánh tay đã tách khỏi cơ thể, hay cơ thể đã tách khỏi cánh tay? Phần thịt rời của Samoa vẫn còn sống, thành thử ta gọi nó là chàng. Vậy thì cái phần oằn oại nào của một con giun bị tách thành mười phần mới chính là con giun?

          Đối với tôi, tôi luôn xem Samoa chỉ là một mảnh lớn rời rạc hình người chứ không phải một con người trọn vẹn. Vì chẳng phải toàn bộ chàng rút ra từ một cái chi ư? Mà sau trận đánh ở Teneriffe, ngay cả đại Nelson lẫy lừng - xét về mặt sinh lý - cũng chỉ còn là ba phần tư con người. Và khi khói trận Waterloo tan đi, thì Anglesea còn lại là gì ngoài một thân thể tương tự? Sau Saratoga, Arnold nào? Chưa kể Mutius Scaevola mất một bàn tay, Tướng Knox một ngón tay, và Hannibal một con mắt; và rằng lính ném lựu đạn Roma xưa ấy, Dentatus, chẳng hơn gì một cái thân cây bầm dập, khó đốn ngã và khó đẽo nhỏ, dẫu tính đối xứng đã bị hư hại nhiều do những nhát rìu chiến. A! thế mà những chiến binh ấy, như những cái đe, sẽ đứng vững dưới một cú nện búa khắc nghiệt. Nhất là vào thời hiệp khách. Vì trong trận Brevieux ở Flanders, tổ tiên huy hoàng hay tán gẫu của tôi, Froissart, đã cho tôi hay rằng mười hiệp sĩ tài giỏi bỗng ngã ngựa, cứng đờ và bất lực ngã xuống đồng bằng, bị áo giáp của họ đè đến chết. Nhân đó, bọn nông dân đào bới bất lương, kẻ thù của họ, khởi sự lật giở những tấm che mặt của họ như kẻ trộm cạy khóa, như người cạy vỏ hàu, để tìm cách giết họ. Nhưng hết thảy đều chẳng được kết quả gì. Và cuối cùng họ đành phải mời thợ rèn giúp cho; và mãi tới lúc ấy, các tù nhân của bộ áo giáp mới được giải phóng. Người ta từng cho rằng, việc vị tù nhân bí ẩn của nước Pháp bị giam trong chiếc mặt nạ sắt là điều vô cùng tàn nhẫn; thế mà các hiệp khách này đã tự nguyện bị tống giam trong ngục Bastille sắt của chính mình; và một mình chịu chết trong đó. Cái thời hiệp sĩ ấy, thuở những nghĩa sĩ gan dạ chết những cái chết nghĩa sĩ!

          Và đấy là thời đại sử thi, cuộc khởi hành mà người bạn hùng biện lẫn tiên tri và tâm giao quá cố của tôi, Edmund Burke, từng cảm động khóc vì. Phải, đấy là những thời huy hoàng. Nhưng không một người đàn ông biết điều nào, được ban cho những vui thích gia đình, lại muốn mang sự ấm no nơi lò sưởi và bánh nướng đi đổi một trại lộ thiên anh hùng trong một khu rừng sồi hoang, vào một buổi sáng giông bão rét căm bên Normandy, nơi mỗi hiệp sĩ hà hơi vào những ngón tay bọc sắt, và ra sức vô ích pha cà phê lạnh trong chiếc mũ sắt của mình.

 

CHƯƠNG XXV

HIỂM NGUY LÀM SỨ GIẢ HÒA BÌNH

 

          Vài ngày trôi qua: con tàu brigantine lênh đênh đây đó, không gì ngoài biển cả trước mắt, một lần nữa sự tĩnh mịch của nó rung lên cái đồng hồ báo nguy bên trong Annatoo. Đình chiến đã kết thúc. Đa phần là do người phụ nữ ngang ngược quá mức, chiếm riêng cho mình nhiều vật dụng của Samoa mà trước đó đã chê bôi chẳng thèm. Đã vậy, cứ mãi rình mò, nàng không ngừng đi lên đi xuống với một thứ năng lượng không cạn kiệt, khám phá mọi xó xỉnh, đem cất những chiến lợi phẩm và chăm chỉ giấu giếm chúng. Vì ý niệm về những thích ứng tính nữ chẳng có là bao, nàng ăn cắp bất kỳ thứ gì tiện tay: những cái móc sắt, đô la, chốt, rìu, cả mấy cuộn thừng bện lẫn những thiếp đồng cũng chẳng tha. Toàn bộ điều này, Samor tội nghiệp hẳn vẫn có thể cắn răng chịu đựng với toàn bộ sự kiên nhẫn mình có - còn hơn là khởi sự gây chiến thêm lần nữa - nếu quý phu nhân táo tợn không kết án chàng cái tội biển thủ từ các kho riêng của nàng, dù chàng vô tội chẳng khác cái xà mũi tàu[24].

          Cuộc luận tội đầy tính lăng nhục này đã thắng thế triết lý của anh dân đảo. Chàng căm ghét nó sâu sắc. Và kết quả là, khi thấy mọi hà hiếp đều vô dụng, Annatoo bỗng nhiên chuyển hướng, tuyên bố rằng từ nay về sau, Samoa được phép ở một mình; nàng chẳng mắc mớ gì đến chàng nữa. Trừ những khi bất đắc dĩ phải xoay xở con tàu brigantine, nàng thậm chí còn không thèm nói chuyện với chàng: không đời nào, đồ quái vật! Thế rồi nàng mạnh miệng đòi lấy boong mũi - chỗ tử tế nhất trên con tàu hai cột buồm này - làm căn hộ biệt lập cho mình. Còn về phần Belisarius bất hạnh, chàng có thể làm mọi điều mình thích dưới cái hang cabin bé tí tối mù ấy.

          Về chuyện chia chiến lợi phẩm, bà la sát đang thắng lợi rực rỡ; từng kiện một, cùng vô số thứ lặt vặt linh tinh, lần lượt được chuyển về khoang. Hơn nữa, nàng nắm giữ một kho thực phẩm ra trò, để trong mọi khía cạnh có thể, được sống độc lập khỏi người chồng của nàng.

          Annatoo vô duyên! Samoa vô phúc! Thế là đường ai nấy đi; người phụ nữ tiến hành cuộc chăm sóc tách biệt và Belisarius trở về với đời trai hiu quạnh. Chàng ngủ trong buồng riêng của thuyền trưởng, nơi mọi thứ đều lạnh lẽo và côi cút; người phụ nữ của chàng thì rút về khuê phòng boong mũi, giải khuây thời giờ bằng lần hạt kinh lạy cha và rải lẫn xếp những đồ nữ trang và áo quần nhờ hoạnh tài mà có, ví như Madame De Maintenon hiến dâng những ngày và đêm cuối đời cho khiết tịnh và những khúc vải calico.

          Nhưng chắc bạn tưởng rằng đây là kết thúc lặng lẽ của những cãi cọ vợ chồng nhà họ? À, không! Những thù nghịch này chẳng có hồi kết, cho tới khi nào người này hoặc người kia chết đi.

          Bấy giờ, lưu vong khỏi chiếc giường hôn nhân, Belisarius chịu đựng nỗi gian khổ mà chẳng kêu ca một lời. Và quả thực chàng là một người anh hùng, biết đâu chàng chẳng đang cảm thấy như một người lính được nghỉ phép? Nhưng còn về phần Antonina, nàng hoặc là không thể hòa thuận với Belisarius, hoặc là không thể chịu đựng nổi nếu thiếu chàng. Nàng bày mưu tính kế. Nhưng kế gì đây? Hay là đột nhập vào cabin và xoáy những của nả tạp nhạp trong đó, với niềm hy vọng xảo quyệt rằng một trận bùng phát tạm thời nào đấy sẽ tạo ra hòa giải chung cuộc?

          Tiếp đến là một cảnh đấu khẩu đáng buồn, để rồi bị gián đoạn vì biển gầm một trận lớn. Vội trở về boong, họ thấy mình đang cắm đầu lướt về phía một bãi cạn được hình thành từ một cụm đảo thấp, mà nãy giờ khối mây lớn đã che khuất tầm mắt.

          Bánh lái lập tức được bẻ ngoặt; các cánh buồm được căng chỉnh lại. Thế nhưng suốt nhiều giờ liền, do gió mạnh, dòng hải lưu chảy xiết, cùng sự bất định và trải rộng của bãi cạn, người ta vẫn không chắc liệu có thoát khỏi tai họa hay không. Nhưng tài đi biển của Samoa kết hợp với tính cần mẫn của Annatoo cuối cùng cũng thắng thế, và con tàu brigantine đã được cứu.

          Về mô đất mà họ suýt bị đánh đắm, họ chẳng biết gì về nó; và vì lẽ ấy, họ lập tức lái tàu đi. Vì sau các sự kiện chí tử từng chạm đến con tàu Parki nơi quần đảo Vỏ Trai Ngọc, quả là đáng sợ nếu họ có gặp bất kỳ Dân Đảo nào; ngay từ ban đầu họ đã một mực quyết ôm lấy biển lớn, tránh bất kỳ trình diện nào của đất liền, dựa vào suy nghĩ rằng nay mai sẽ được một cánh buồm lướt ngang nào đó đón đi.

          Không nghi ngờ gì nữa, quyết định ấy chính là điều đã cứu họ. Bởi với những người đi biển ở vùng này, không có hiểm họa nào lớn bằng việc tiếp cận các hòn đảo; phần lớn các đảo đều được bao bọc bởi những rạn san hô tiền tiêu, và từ xa bờ đã bị vây quanh bởi muôn vàn hiểm nguy, khiến cho cánh đồng xanh tươi rực rỡ bên trong như một đóa hồng giữa bụi gai - khó lòng mà chạm tới, chẳng khác gì trái tim của một thiếu nữ kiêu kỳ. Nhưng một khi đã có được thì cả ba - nụ hồng đỏ, bờ biển tươi sáng và trái tim êm đềm - đều ngập tràn tình yêu, hoa nở, và mọi vẻ vui sướng. Còn quần đảo Vỏ Trai Ngọc, thôi xin kiếu.

          Bên cạnh đó, ở những vùng nước thanh bình này nói chung, con tàu nhỏ nhắn của Samoa, dẫu còn hàng trăm dặm cách xa đất liền, vẫn được điều khiển rất dễ dàng nhờ chàng và Annatoo. Con tàu Parki nhỏ đến nỗi một tay còn có thể chằng được xà buồm chính; việc kéo buồm phụ lên cũng hết sức nhẹ nhàng, nhất là sau lần đầu vụng về cố gắng làm bằng tay, họ rút kinh nghiệm, luôn luôn nối dây kéo buồm vào guồng tời, nhờ đó mà mọi thao tác đều diễn ra một cách trơn tru.

CHƯƠNG XXVI

CHỨA MỘT ĐỒNG BẠC TRIẾT LÝ

 

          Nhiều ngày vẫn trôi qua và con tàu Parki hãy còn lênh đênh. Mấy con cá chuồn nhỏ bé - đã quen với thân tàu quen thuộc - hay la cà; và như những chú chim nhạn làm tổ nơi những cây già yên tĩnh, chúng đẻ trứng trong những cụm hà lớn màu xanh mọc bám đầy hai bên mạn tàu.

          Biển càng lặng, hà càng nhung nhúc. Ở vùng Thái Bình Dương nhiệt đới, chỉ một vài tuần cũng đủ bọc thân tàu của bạn trong áo giáp vỏ sò. Bạt ngàn các cụm bám chặt vào mép mũi tàu, và nếu không cạo hà thì sẽ cản trở rất nhiều khả năng của tàu. Thi thoảng công việc dọn hà ấy là một trong các việc của Annatoo. Ta biết rằng, như hầu hết các bà la sát, quý phu nhân đôi lúc cũng ngăn nắp gọi là, tuy thất thường, yêu thích sạch sẽ theo lối cóc nhảy. Mấy con hà ấy lắm phen gây phiền toái cho nàng; và với một chiếc cọc dài, nàng sẽ xắn tay vào việc, chà chúng đi. Để nguôi ngoai những giờ chán chường, nếu không có việc gì hay hơn; và rồi sau đó nàng sẽ trở lại với những hạt cườm và đồ nữ trang của mình, quay lại kể lể, rì rầm những mộ đạo của nàng, và để ý xem chừng liệu Samoa có xoáy đồ ở kho trữ của nàng hay chăng.

          Bấy giờ, việc thoát khỏi bãi cạn đã một lần nữa hàn gắn những khác biệt giữa người vợ hiền và chồng nàng. Mà cũng thật lạ - sống với nhau, chỉ có hai người trên một con thuyền cô quạnh giữa biển khơi như thế, sao lại còn có thể gây gổ? Đã đường ai nấy đi mà vẫn ở chung một mái nhà thì chỉ càng làm sự tình thêm rối rắm. Thế là Belisarius và Antonina lại về với nhau. Nhưng giờ, đã khôn ra do từng trải, họ chẳng yêu, cũng chẳng ghét nhau quá sâu sắc, nhưng chấp nhận bản chất của mọi việc; họ nhận ra rằng mình đã gắn với nhau, chẳng còn hy vọng gì chia lìa, và cùng cố gắng biến cuộc hôn phối này thành một sự tương hợp. Annatoo đi đến kết luận rằng không thể hoàn toàn biến Samoa thành kẻ nô lệ; còn Samoa thì cho rằng tốt nhất nên nhắm mắt làm ngơ trước những thói xấu của Annatoo, và để nàng xoáy đồ tùy ý.

          Nhưng như trong nhiều trường hợp, toàn bộ triết lý về hôn nhân này không là bằng chứng chống lại liên hệ vĩnh viễn của các bên liên quan; và tốt hơn là làm sống lại những ngày xưa lúc còn tán tỉnh, khi miệng người đàn ông là những tảng ong mật: và để thêm phần ngọt ngào, phụ nữ là những con ong lưu giữ hương vị ấy; khi những say mê khôn dò le lói sâu bên dưới ánh mắt yêu mến của người cưng và hơn hết thảy, khi những cuộc ghé thăm được xen kẽ bởi nỗi thiếu vắng: theo cách ấy, như ông chủ công tước tôn quý cùng công nương của ngài, Samoa và Annatoo, chồng và vợ, sống chung dưới cùng một mái nhà, tuy vẫn giữ doanh trại tách biệt của mình. Marlborough ghé thăm Sarah; và Sarah, Marlborough, bất cứ khi nào tâm trạng gợi ra.

 

CHƯƠNG XXVII

TÀU PARKI ĐẾN HỒI KẾT THÚC RA SAO

 

          Vẫn những ngày, những ngày, những ngày chóng qua; và lúc thì lái theo hướng này, lúc thì hướng kia, để tránh những bờ biển thâm hiểm xanh mơn mởn thường xuất hiện trong tầm mắt, con tàu Parki đi tới đi lui ngoài khơi, cho đến khi cuối cùng, dường như chẳng còn thể phân biệt nổi con tàu ấy đang trôi nổi trong thế giới nước nào nữa. Biết quá rõ các rủi ro, Samoa nản chí. Nhưng phúc thay kẻ thiếu hiểu biết. Vì vào cái ngày chàng nản chí, ả vợ già sôi nổi bảo rằng chàng hãy can đảm lên, vui lên và kiên trường lái tàu đi về hướng mặt trời lặn - phía hẳn là hòn đảo quê hương thân thương của nàng, nơi mọi lo toan sẽ không còn nữa. Vậy là xoay các xà buồm vuông góc, cứ thế họ lướt đi, xa dốc xuống khối cầu nước.

          Vào buổi chiều cái hôm thoáng thấy họ khi chúng tôi còn ở trên thuyền, họ đã nhìn thấy một cụm đảo thấp, vốn gây cho họ không ít hoảng sợ bởi sự giống nhau của chúng với những đảo từng xảy ra cuộc tàn sát. Sự thật là họ hẳn phải tròn chừng năm trăm lý cách xa vùng biển đáng sợ ấy. Song họ vẫn đổi hướng để tránh nó và, một chốc trước khi trời lặn, bỏ hòn đảo phía sau để trở về đường cũ. Nhưng ngay sau đó họ nhận thấy chú dê biển[25] nhỏ nhắn của chúng tôi đang rẽ những sóng cuộn từ đằng xa.

          Họ nhầm nó với chiếc xuồng từng đuổi theo mình. Điều này đã khôi phục và gia tăng cái chuông báo nguy bên trong của họ.

          Và khi cuối cùng nhận ra rằng vật thể lạ ấy chỉ là một con thuyền, nỗi sợ của họ, thay vì dịu đi, chỉ càng tăng. Bởi những mê tín điên rồ khiến họ kết luận rằng một con thuyền của người da trắng tiến đến quá thình lình, ở vùng biển rộng, lại còn vào ban đêm như thế thì chẳng là gì ngoài một bóng ma. Vả lại, thấy hai chúng tôi trên chiếc Dê Biển, họ tưởng chúng tôi là vong hồn của bọn người Cholo. Một suy tưởng có hiệu lực làm tiêu tan lòng can đảm của Samoa, tương tự như của ông Viking, chỉ xử lý được những đối tượng có hình thù rõ ràng. Thấy chúng tôi nhất định đáp tàu, sau khi vội thu gom các động sản nhằm mang lên trên cao để cất giữ cho an toàn, họ giấu bất kỳ thứ gì có thể và cùng nhau leo lên đài buồm mũi - người đàn ông với cây súng hỏa mai, người phụ nữ với túi hạt.  Việc cố gắng giữ những thứ quý báu này khỏi bị ma quỷ chiếm đoạt không phải vì họ thật sự lo sợ sẽ bị trộm mất, mà đơn giản chỉ là phản ứng trong cơn hoảng loạn trống rỗng của họ. Điều đó chẳng thể coi là lời trách cứ gì đối với tinh thần gan lì của Belisarius; bởi ngay cả những chiến binh Feegee dũng mãnh nhất, từng giết hàng trăm mạng, cũng không dám đi một mình mười bước trong bóng tối, vì sợ ma.

          Họ dự định sẽ ở trên đài buồm đến khi sáng trời rồi đến ấy, mong các vị khách quý của họ sẽ rút đi cho - những vị y như rằng cuối cùng cũng đã phóng lên boong, xác minh nỗi sợ ghê gớm nhất của họ.

          Họ quan sát chúng tôi rất lâu và kỹ. Nhưng nói cũng lạ, trong chính cái cảnh ngặt nghèo ấy, cùng nhau đậu trên đài buồm thoáng gió, những khác biệt trong gia đình của họ một lần nữa lại bộc phát - hẳn do họ buộc phải tiếp xúc quá gần với nhau như thế.

Dù nguyên nhân là gì, Samoa nhân lúc chúng tôi đi xuống khoang tàu, liền tuyệt vọng bỏ chạy khỏi vợ; và dù chỉ còn một cánh tay, chàng vẫn lanh lẹ như thủy thủ, đu mình theo các sợi dây buồm dọc mũi và đuôi tàu để leo sang cột chính, khẩu súng vẫn đeo sau lưng. Và thế là, dù chỉ cách nhau vài thước, hai người lại bị chia cắt như thể mỗi người ở một cực của trái đất.

Trong lúc đêm trường, cả hai người bọn họ còn đang rối trí về mấy con yêu tinh kỳ dị trên boong. Cái thứ bóng ma tò mò, đa sự, trước đây chưa từng thấy. Quá dạn dĩ và có phương pháp, khéo léo dừng đà tiến của tàu để lục lọi cho dễ hơn - chính cái kế hoạch mà bản thân họ đã làm theo. Nhưng điều khiến họ ngạc nhiên nhất là việc chúng tôi đánh ra lửa, một việc mà chẳng có con ma đích thực nào làm được. Kế đến là chuyện chúng tôi ăn và uống trên boong lái lẫn việc bài binh bố trận kiểu thành Viên bị bao vây và nhiều việc khác cũng lạ lùng tương đương, thiếu điều đã khiến Samoa tưởng rằng chúng tôi chẳng là vong hồn gì sất mà là một cặp người đến từ cung trăng.

          Đã vậy họ còn thoáng thấy những món khoác chẽn và quần dài mà chúng tôi mặc, từa tựa những món đồ thuyền trưởng tàu Parki đã tặng cho hai tên Cholo và những tên côn đồ đã bị giết. Điều này, cùng với sự xuất hiện của chiếc thuyền săn cá voi, hợp với nhau để đuổi đi cái suy tưởng từ cung trăng xuống của chúng tôi. Nhưng những nhận xét này nối lại ấn tượng mê tín ban đầu của họ về chuyện chúng tôi là vong hồn của hai tên lai sát nhân.

          Tuy vậy, về sau, khi đêm đã khuya, chúng tôi nằm nghỉ ngay dưới chỗ Samoa đang nấp, vừa gặm bánh quy vừa chuyện trò, chàng vẫn chăm chú quan sát chúng tôi và suýt nữa đã nổ súng bắn thử một phát để kiểm tra xem chúng tôi có thân xác thật hay không. Nhưng may mắn là chàng lại quyết hoãn lại tới khi sáng trời; nếu lúc đó chúng tôi vẫn chưa bốc hơi mất thì hãy ra tay cũng chưa muộn.

          Về phần phu nhân Annatoo, gần như ngay từ lúc chúng tôi cập tàu cướp biển, có điều gì ở cung cách của chúng tôi đã làm dấy lên trong nàng một mối lo ngầm về tính chân thật trong cơ cấu khí quyển của chúng tôi. Khi Samoa bỏ chạy khỏi chỗ nàng, và nàng bị bỏ mặc một mình với những suy tưởng của mình, sự hoài nghi ấy chỉ càng lúc càng dày. Từ đâu chúng tôi tới nàng không biết, chỉ thấy chúng tôi như quyết tâm cướp đi những món mà nàng xoáy được. Than ôi! nàng nghĩ, nào những cúc, những đinh, vải tappa, đồng đô la, những hạt cườm, những hộp của ta!

           Bực tức đến tuyệt vọng vì linh tính ảm đạm ấy, sau cùng nàng động dây đến chỗ Samoa; học được cách hướng chú ý của chàng vào cái tội tày trời có khả năng đang diễn ra trong cabin, bước đầu tiên của cuộc xâm lược khu boong tàu bên kia của nàng. Giả sử nàng lên giọng thì chắc chắn đã dấy lên động cơ bắn hạ chúng tôi ngay khi chúng tôi vừa bước ra khỏi cabin. Nhưng thất bại trong việc đánh động làm cho Samoa hiểu được ý mình, ác tâm của nàng tỏ ra vô ích.

          Tuy vậy, khi nỗi sợ hãi lớn nhất của nàng trở thành hiện thực - khi chúng tôi thật sự bước xuống khoang mũi tàu - thì nàng liền lắc dây mạnh đến mức Samoa phải bám chặt vào dây buồm vì sợ bị văng khỏi giàn. Và chính sự lắc lư dữ dội ấy đã gây nên tiếng cọt kẹt lớn ở nơi các xà buồm, mà chúng tôi nghe được quá thường xuyên khi ở bên dưới gian nhà của Annatoo.

          Và đài cột buồm mũi thì ngay trên lỗ thông boong mũi, quý phu nhân có thể đã quan sát chúng tôi ngay từ bên trên; từ đó các hoạt động của chúng tôi đã tỏ rõ mồn một nhờ thứ ánh sáng mà chúng tôi mang theo. Khi chúng tôi bật nắp chiếc két sắt của nàng, cơn phẫn nộ của nàng hầu như đã thống trị toàn bộ nỗi sợ. Nàng liền tháo một chiếc ròng rọc trên cao và thả nó xuống thẳng khoang, với ý đồ từ tâm là đập nát quả đầu dừa của Jarl - lúc đó lộ rõ hơn đầu tôi dưới con mắt một kẻ quan sát từ trên không. Nhưng may thay, món đồ sứ của chúng tôi không bị sứt mẻ gì.

          Cuối cùng trời cũng sáng, sau đó Jarl khám phá ra kẻ chiếm đóng đài cột buồm chính - sự kiện đã được thuật lại đầy đủ với những gì xảy ra về sau.

          Trên đây, về cơ bản, là các hồi thứ nhất, nhì, ba, tư của tấn kịch tàu Parki. Hồi thứ năm và hồi cuối, gồm dăm ba cảnh, giờ xin được tiếp .

         

CHƯƠNG XXVIII

BỚT NHỮNG MỐI NGỜ, VÀ ĐÔI ĐIỀU VỀ CHỊ CALMUC

 

          Dẫu rằng có nhiều chi tiết đầy ý vị thực tế, câu chuyện của Samoa ban đầu về tổng thể vẫn chưa gọi là thỏa đáng. Không phải vì nó quá lạ lùng, bởi tôi từng được nghe những câu chuyện còn lạ lùng hơn.

Có lẽ một phần lý do là tôi đã mong đợi một câu chuyện hoàn toàn khác; một điều gì đó phù hợp hơn với những suy đoán trước đó của tôi.

          Điều khiến tôi thêm phần bối rối là việc chàng kể đã trông thấy những hòn đảo vào ngày hôm trước; tuy nhiên, khi nghĩ kỹ lại, điều đó cũng có thể là thật - và nếu sau đó chàng đã lập tức đổi hướng con tàu Parki, thì chiếc Dê Biển của chúng tôi, không hề hay biết, có thể đã lướt qua gần đó mà không nhìn thấy. Chắc chắn những hòn đảo này không thuộc khu vực của quần đảo mà chúng tôi đang tìm. Chúng phải ở một miền nào đó đến nay vẫn chưa tìm thấy.

          Nhưng rồi tôi tự hỏi: liệu có thể nào một người, theo như lời kể của chính mình, đã hành động quả cảm đến thế để cứu lấy con tàu brigantine, lại có thể hoảng sợ như trẻ con chỉ vì thoáng thấy hai thủy thủ trên một chiếc xuồng, trong khi bản thân lại được trang bị đầy đủ vũ khí để phòng vệ, nếu như thực sự chúng tôi có ý định chiếm đoạt tàu? Trái lại, trong hoàn cảnh cô độc của mình, chẳng phải phản ứng tự nhiên nhất của chàng phải là mừng rỡ đón nhận sự tiếp cận của chúng tôi hay sao? Nhưng rồi tôi lại nhớ ra, họ đâu có xem chúng tôi là người, mà là ma. Xét cho cùng, tôi vẫn giữ một chút dè dặt với người kể câu chuyện. Nhưng ánh mắt chàng nhìn tôi như một người đàn ông. Còn Annatoo, đứng bên cạnh, trông bật lên cái nét quá Amazon được tích tụ nơi nàng, đến độ các nghi ngờ của tôi bắt đầu nao núng. Và khi nhớ lại những chi tiết vụn vặt trong câu chuyện của họ - những chi tiết khó lòng bịa ra một cách vội vã, thậm chí khó lòng bịa ra được dù có thời gian - thì rốt cuộc, tôi đã buông hết ngờ vực. Tôi không còn có thể nuôi dưỡng mối nghi nào nữa.

          Bởi lẽ, thẳng thắn mà nói, Samoa có thể có mục đích gì khi đơm đặt một câu chuyện khủng khiếp - ý tôi là về những người trong cuộc tàn sát - trừ phi là để che giấu một thảm kịch nào đó còn tàn ác hơn mà chính chàng mới là người can tội? Một ức đoán mà, vì những chứng cớ rành rành, dường như thật khó tin. Đúng là tôi từng biết đến những trường hợp vài người bán khai như Samoa, từng là thành viên thủy thủ đoàn ở vùng biển này, đột nhiên nổi loạn giết chết bạn đồng hành da trắng của mình, nhằm làm đắm con tàu trên bãi cạn của một hòn đảo gần đó để cướp bóc xác tàu.

          Nhưng nếu đó là ý định với chiếc Parki, thì những kẻ phản loạn còn lại đâu? Các phỏng đoán của tôi chẳng có hồi kết; tôi càng đắm mình vào chúng bao nhiêu, chúng càng sinh sôi nảy nở bấy nhiêu. Thế là, chẳng muốn phải giày vò bản thân, trong khi cũng không biết thêm được điều gì ngoài điều mà Samoa đã kể và gắn mình với nó như một người hùng, tôi mặc kệ hết thảy phỏng đoán, gắng hết sức đặt trọn niềm tin vào anh Dân Đảo.

          Còn Jarl, tuy vậy, lại hoài nghi đến phút chót và không bao giờ ở trong cái thế hoàn toàn tin câu chuyện ấy được. Ông dứt khoát giữ vững rằng lũ ba bị chắc hẳn phải có cái gì đó với con tàu Parki.

          Khi nỗi tò mò của tôi được thỏa mãn về con tàu brigantine, tới lượt Samoa trở thành người dò hỏi. Chàng muốn biết chúng tôi là ai và từ đâu mà chúng tôi tới bằng con thuyền tuyệt hảo này. Nhưng về những vấn đề ấy tôi thấy tốt hơn là đừng nên nói thật với chàng, nhất là nghĩ rằng nếu lộ ra thì chàng sẽ bớt tôn trọng chúng tôi với vai tư cách những người thượng đẳng hơn chàng. Thành thử tôi mập mờ kể về các cuộc phiêu lưu của chúng tôi và chủ trương lấy le trên cơ để đỡ thấy thua kém anh Dân Đảo man rợ. Về phần Jarl và khả năng ông sẽ tiết lộ điều gì, ngay từ đầu tôi tranh thủ cho ông thấy tầm quan trọng của việc không bao giờ được hé ra vụ nhảy tàu Arcturion và dưới bất kỳ hình thức nào cũng không được tự buộc tội mình vì chuyện ấy: những huấn thị mà ông hứa sẽ một mực tuân theo.

          Dù không hoàn toàn thấy khó chịu với hình thể lực lưỡng của Samoa - bất chấp những nét hoang dã trên gương mặt và phần cơ thể đã bị tật nguyền - tôi càng ít có thiện cảm với diện mạo của Annatoo, người mà tay chân thì gân, lại chẳng trẻ trung, cũng chẳng có duyên lẫn nhã nhặn, thật là vô cùng đáng ghét. Nhưng làm sao không khỏi ngưỡng mộ những phẩm chất Penthesilea vốn quá nổi bật, đã từng trợ sức cho Samoa trong công cuộc giành lại con tàu Parki khỏi những kẻ chiếm giữ xảo quyệt. Dẫu vậy, điều tối cần thiết là phải biết khôn ngoan phục tùng, phải được bảo ban dứt khoát một lần rằng dù trong gia đình là kẻ nổi loạn thì nàng phải theo lối hàng hải mà vâng. Bởi lẽ ngoài khơi với một người Calmuc trên tàu, chuyện này gần như là bất khả. Trong hầu hết các đơn vị hải quân, xét theo luật thì những chuyện này bị cấm; không một sĩ quan nào được phép đưa nàng Pandora của mình và chiếc hộp leng keng của nàng lên tàu.

          Sẵn tiện, cũng chính cái danh từ này, Pandora, cũng từng được đặt cho tàu. Có một con tàu của Anh mang tên ấy từng được phái đi truy lùng đám phản loạn trên tàu Bounty. Nhưng bất kỳ thủy thủ già dặn nào cũng tiên tri được định mệnh của nó. Trong chuyến tàu về, nó đã bị đánh đắm do một rặng san hô ngoài khơi New South Wales. Pandora đấy! Đem đặt tên cho tàu thì đẹp lắm, cứ là vả vào mặt Định Mệnh. Nhưng về chuyện đặt tên thánh cho các con tàu quân sự, các quốc gia Ki-tô giáo lại quá nghiêng về phía những cái tên chẳng ngán ma quỷ nào. Bằng chứng là các tàu sau: toàn tàu Anh: Tàu Chinh Phục, tàu Thách Thức, tàu Phục Thù, tàu Khẩu Pháo, tàu Chiến Hạm, tàu Thần Sấm, tàu Cự Đại; không quên tàu Đèn Cồn, mà trên Đường Đi Corfu bị sét đánh, suýt nữa thì bị lửa trời thiêu rụi. Nhưng chỉ thua mỗi cây gậy của Moses, cây cột thu lôi của Franklin đã chứng minh sự cứu rỗi của con tàu.

          Với ca-ta-lô trên, ta so sánh với những tàu Pháp, sặc mùi ý chí Nam Nhi: Tàu Số Phận, tàu Vinh Quang, tàu Cao Thượng, tàu Toàn Thịnh, tàu Chinh Phục, tàu Khải Hoàn, tàu Bất Khuất, tàu Vô Úy, tàu Mont-Blanc. Sau cùng là tàu Dons; những người đã lục lọi thần học của tôn giáo hòa bình để tìm những tên hay đặt cho các tàu chiến của họ; đến mức không ngần ngại gọi một chiếc tàu ba boong[26] của mình là Tam Vị Chí Thánh. Nhưng tại mũi Trafalgar, dù Tam Vị Chí Thánh có nổi rền như sấm núi Sinai thì những hồi sấm của nó cũng bị loạt súng thần công của tàu Chiến Thắng làm cho im bặt.

          Và ngay cả khi không bị pháo địch thổi tung thành mảnh vụn, bao nhiêu con tàu Đáng Gờm và Bất Bại đã chịu thua những con sóng, và như những kẻ khoác lác xẹp xìu trước giông bão, với những vẻ yêng hùng hướng mạn phải 45 độ.

          Tên các tàu Mỹ thì hay hơn nhiều (không tính các tàu Bò Cạp, Ong Bầu, và Vò Vẽ), như Ohio, Virginia, Carolina, Vermont. Và nếu những tàu Yankees này mà đánh trận ngoài đại dương - lạy Trời xin đừng xảy ra! - thì xét riêng về mặt thi ca, quả là vẻ vang nếu cho cả hạm đội liên bang xếp thành hàng, và tuôn một loạt đạn pháo từ Florida đến Maine. Phải, phải, thật là vẻ vang! Nhưng trong lượt đại bác gáy lên kiêu hãnh ấy, vong hồn William Penn yêu hòa bình hẳn sẽ bàng hoàng biết bao khi thấy tên mình bị gán cho kẻ sát nhân vĩ đại nhất: chiến hạm Pennsylvania. Thực vậy, pháo tàu Pennsylvania phải là thứ pháo gỗ, loại mà dân thủy thủ tàu chiến gọi là pháo Quaker.[27]

          Nhưng tất cả những điều trên chỉ là một màn chen ngang, chồng chất những đoạn rẽ ngang. Đã đến lúc quay mũi tàu trở lại.

          Bây giờ, khi được về đúng chỗ, tôi quên nhắc, rằng ngay sau khi hạ xuống từ giàn dây neo buồm và trong khi Samoa còn đang thuật lại các cuộc phiêu lưu của chàng, thì phu nhân Annatoo đã lẻn xuống khoang mũi để kiểm tra lại đồ đạc. Và khi thấy chúng bị lục tung lên cả, mụ trở lại boong tàu với vẻ mặt cực kỳ kích động, liếc nhìn giận dữ về phía Jarl và tôi, trút cả một dòng mắng nhiếc vào cả hai lỗ nhĩ Samoa.

          Sự xem thường sự hiện diện của tôi khiến tôi khá ngạc nhiên lúc đầu; nhưng có lẽ phụ nữ ít bị ấn tượng bởi vẻ đạo mạo tự phụ như đàn ông.

          Mà, như cách nói của lính trận: không gì hiệu quả bằng nhảy lên tàu địch giữa làn khói. Thế nên, ngay khi thấy dấu hiệu đầu tiên của bản tính hung hăng ở Annatoo, tôi liền nhân dịp này - xin nàng bỏ qua cho - cho nàng hiểu rằng chẳng có thứ gì, ngay cả con tàu này, là của nàng, và rằng mọi thứ đều thuộc về các chủ tàu ở Lahina. Tôi còn thêm rằng dù thế nào đi nữa, mấy trò ăn cắp vặt của nàng phải thôi đi. Với phụ nữ nói thế là rót lời thô lỗ vào tai; nhưng biết tránh làm sao? Đấy là một người phụ nữ ngu muội, người mà, theo Samoa, cứ luôn bị bắt tại trận đang cố rút những con vít nối các tấm ván lại với nhau. Vậy xin cho tôi biết: có phải nàng ta còn tệ hơn cả Đá Nam Châm, không? cái thứ đá chỉ cần tàu lướt qua cũng khiến từng mảnh ghép vỡ tan, con tàu rã rời ngay giữa biển.

          Suốt cảnh ấy, Samoa nói chẳng bao nhiêu. Biết đâu chàng thầm đắc ý rằng quyền lực hôn nhân của chàng đã được củng cố nhờ tôi và ông Viking, những người có các quan điểm về vị trí phù hợp của người vợ trên biển quá tương hợp với quan điểm của chàng; dẫu đưa vào thực tiễn còn khó khăn, những suy nghĩ thuần lý thuyết của chàng giờ đã được công nhận.

          Ta trở lại với Annatoo lần nữa, bấy giờ nhìn gì cũng ra ngoại trừ nhã nhặn, tôi nhận thấy, rằng hết thảy những la hét của nàng sẽ vô ích và rằng nếu có xảy ra chuyện tồi tệ nhất thì thân tàu Parki luôn có đủ chỗ cho nàng.

          Cuối cùng nàng bùng lên một cơn uất hận, ngồi xuống trên tời và trừng mắt nhìn, hai tay chống nạnh và làm mình làm mẩy, cùng lúc thỉnh thoảng kêu một bài buồn thảm. Nghe như tiếng gọi hồn hai tên Cholo sống dậy và giải quyết chúng tôi.

CHƯƠNG XXIX

NHỮNG THỨ HỌ PHÁT HIỆN KHI ĐẨY MẠNH VIỆC KHÁM TÀU, VÀ BIỆN PHÁP HỌ ĐƯA RA

          Xuống cabin cùng Samoa, tôi bảo chàng đi lùng cuốn nhật trình của tàu, bàn viết của thuyền trưởng và các hải cụ; nói ngắn gọn, bất kỳ thứ gì có thể làm sáng tỏ hành trình trước đây của tàu, hoặc phương tiện để dẫn hướng về nhà.

          Nhưng mọi thứ thuộc loại này gần như đã biến mất: nhật trình, thước đo góc, cùng các giấy tờ của tàu. Chẳng còn lại gì ngoài hộp đựng kính lục phân, thứ mà Jarl và tôi từng phát hiện dưới buồng cabin.

          Về vấn đề này, tôi lại đâm nghi, dẫu mơ hồ; rồi tôi dò hỏi anh Dân Đảo thật kỹ về sự biến mất của những món quan trọng ấy. Anh cho tôi hay rằng các hải cụ này đã được Annatoo lén mang lên boong mũi; và cũng tại quý phu nhân không biết mỏi mệt và tò mò ấy mà chúng đã bị sơ sịa tháo ra nhằm mục đích thanh tra khoa học. Phục hồi chúng là một việc bất khả; bởi lẽ nhiều bộ phận cố định đã mất, nào những kính màu, ống ngắm, và gương nhỏ; còn những bộ phận có thể tìm lại được thì đã quá đỗi móp bể đến độ hoàn toàn vô dụng. Trong nhiều ngày sau, lắm phen chúng tôi bắt gặp những mẩu của cây thước đo góc hoặc kính lục phân; nhưng chỉ là để than khóc số phận chúng.

          Tuy dẫu rằng cả kính lục phân lẫn thước đo góc đều khó mà có được, tôi đã nhanh chóng từ bỏ toàn bộ hy vọng tìm cho ra một chiếc thời kế mà, nếu vẫn còn chạy tốt, dù không kêu tích tắc thì ở mức độ nào đó vẫn có thể làm cho dùng được. Nhưng chẳng thấy có công cụ nào như vậy. Không: còn không hề nghe tới; chính Samoa nhận mình không hay biết gì.

Annatoo, tôi vừa hù vừa dỗ; tôi mô tả chiếc thời kế - một vật tròn, động đậy giống con cóc, phát ra tiếng kỳ cục mà tôi bắt chước theo; nhưng nàng chằng biết gì về nó. Liệu nàng có từng phát hiện ra nó mà Samoa không hay và đã phanh thây nó như thường chăng, không cách nào biết được. Thực vậy, về điểm này, nàng giữ một vẻ ngu si không thể uốn nắn, mà nếu quả thực nàng có phịa chuyện thì bản mặt trơ trơ của nàng đã thế chỗ cho thứ phỉnh phờ nơi môi miệng.

Nhưng lỡ đâu trong trường hợp cá biệt này nàng đã bị đánh giá bất công; bởi lẽ, như nhiều tàu nhỏ khác, con tàu Parki có thể không bao giờ sở hữu thứ công cụ đang nói đến. Do đó, toàn bộ ý nghĩ về việc đi tàu theo cảm tính trong khi chúng tôi càng lúc càng dấn sâu hơn vào hoang mạc nước tất nhiên phải từ bỏ.

Quyển hải trình cũng là một trong mớ đồ ăn cắp của Annatoo. Có vẻ nàng đã mang vào xưởng của nàng để ngẫm nghĩ. Nhưng sau khi tiêu khiển bản thân bằng cách đếm tới đếm lui những trang sách và phân vân làm sao từng ấy bề mặt riêng biệt lại có thể được cô đọng trong một chiếc la bàn nhỏ nhắn đến vậy, bất chợt nàng cảm thấy một nỗi ác cảm với văn chương và quẳng quyển sách xuống biển như thể món đồ vô dụng. Chắc hẳn nó đã chịu chung số phận của những tập sách nặng nề, chìm rất nhanh và rất sâu. Sau này liệu Camden và Stowe nào sẽ lao mình vì nó?

Một tối nọ Samoa mang cho tôi một tay sách bốn gập dọc, đã ngả vàng, giấy có vân, quá bẩn và dính hắc ín mà anh đã tìm thấy trong một hốc tối ở boong mũi. Rõ ràng nó là một phần của quyển nhật trình đã mất; toàn bộ chữ viết trên đó vẫn đọc được nhưng không mang lại thông tin gì về vị trí giống với nơi tôi muốn đến.

Nhưng không thể không bị ấn tượng vì một sự cố bi thảm mà trang sách đã thuật lại rất vắn tắt, cũng vì hình minh họa đáng chú ý về sự kiện ấy bên lề trang. Hình vẽ này không còn đề cập nào ngoài những dòng sau: “Hôm nay, biển lặng, Tooboi, một trong số những người Lahina, xuống biển tắm và đã bị cá mập nuốt chửng. Ngay lập tức đã cho người cứu lấy cái túi đồ của hắn.”

Cái câu cuối cùng ấy có thể hiểu theo hai nghĩa. Đúng rằng ngay sau cái chết của người thủy thủ không bạn trên biển, thủy thủ đoàn thường nhắm lấy của cải của người ấy và chia chác chúng, dẫu áo quần của người đã chết ít khi được mặc trước cuộc hải trình tiếp theo. Chuyện này nghe có vẻ nhẫn tâm, nhưng các thủy thủ lý luận như sau: thà là chúng tôi còn hơn là thuyền trưởng. Vì chiểu theo luật, dù xoàng hay không xoàng thì vật dụng cá nhân của các thủy thủ, nếu mất mạng trên boong tàu, phải được giao phó viên sĩ quan ấy cất giữ. Nhưng vì các thủy thủ đa phần mồ côi hoặc bụi đời và người thân họ hàng họ chỉ nằm ở đôi chân đôi tay, hầu như chẳng bao giờ có bất kỳ người thừa kế theo luật nào có mặt để nhận di sản của họ, vốn chẳng đáng kế thừa mấy khi, như của Esterhazy. Từ đó, việc đưa bộ “quân trang” của người chết từ boong mũi xuống cabin thường đồng nghĩa với việc thuyền trưởng chiếm giữ nó. Dù có thế nào, trên những con tàu nhỏ dặm khơi, những chuyện như vậy đã từng xảy ra.

Vậy nên câu bên trên, trích từ nhật trình của tàu Parki, có thể thấy là ít nhiều mơ hồ. Khi ấy, tôi thấy nó thật lạ lùng, vì chiếc túi cỏ của anh thợ lặn tội nghiệp đâu thể nào chứa thứ gì đáng giá, họa là có khi anh đã giấu ở đấy vài viên ngọc Cleopatra, được tách bất chính khỏi những vỏ trai mang lên từ biển.

Bên cạnh mẩu tin được chép lại phía trên là một bản phác họa vẽ bằng bút mực về nạn nhân, bị hành hình cách tàn bạo hơn cả; đôi chân của người bạn đáng thương được tả trong tình cảnh bị nuốt giữa chừng; đôi tay bám chắc vào những chiếc răng của con quái vật, như thể oanh liệt quyết cứu cho được phần thịt của mình được chừng nào hay chừng ấy.

Nhưng hẳn viên thuyền trưởng tốt bụng đã phác lại đài tưởng niệm dành cho người quá cố bằng trọn cả tấm lòng, chừng là trong khi rỗi nhàn sầu hải sau cái tai họa ấy. Vài nét đã bị nhòe mất trên trang giấy, có vẻ là dấu vết của một hai giọt nước mắt mặn mà còn vương.

Từ nét hình vẽ là lạ thêm vào trong bản văn, tôi đi đến suy luận rằng người phác họa, lúc này lúc khác, hẳn đã từng tham gia vào công việc săn cá voi. Bởi trong các nhật ký của một số tàu săn cá voi, người ta thường dùng mực tàu để vẽ minh họa theo kiểu tương tự như vậy.

Mỗi khi nhìn thấy cá voi nhưng không bắt được, các thủy thủ biểu thị bằng một nét đi viền hình chiếc đuôi của loài sinh vật, với phần thùy đuôi rộng và cong của nó. Nhưng trong những trường hợp con cá voi bị săn và giết chết, nét viền ấy được tô đen; mỗi hình là một con cá voi bị giết; khi lật trang nhật trình, ta thấy hiện ra những đối tượng nổi bật, cùng với đôi ba nhận xét mở đầu. Thế nên thật vô cùng lẫm liệt khi thấy ba bốn, thậm chí năm sáu hình vẽ như thế nối tiếp nhau: minh chứng rằng bấy nhiêu con cá khổng lồ đã phun lên làn nước cuối cùng trong ngày hôm đó. Và viên thuyền phó có nhiệm vụ giữ sổ sách của tàu thường lấy làm tự hào về độ sắc sảo sống động của những chiếc đuôi do mình vẽ; song, nói thật, lắm kẻ trong số các họa sĩ này chẳng phải Landseer[28].

Sau khi hoài công đi tìm trong cabin những vật phẩm mà chúng tôi cần có nhất, chúng tôi khởi sự khám phá hầm tàu, nơi chúng tôi còn chưa bước vào. Ở đây, chúng tôi tìm thấy một số lượng đáng kể những vỏ trai ngọc, dừa, và dư dật những thùng tô-nô nước sạch, những lá buồm và dây neo dư dùng và hơn năm mươi mấy thùng bò muối và bánh quy. Dù những vật thể vừa nhắc đến kia chẳng có gì lãng mạn, tôi vẫn dừng lại ngắm chúng hồi lâu, chìm trong một cơn mơ màng. Trên mỗi đầu thùng đều in dấu tên một địa danh ở nước Mỹ, mà tôi rất quen thuộc. Bởi chính từ nước Mỹ, phần lớn các loại nhu yếu phẩm trên tàu được chuyển sang để cung cấp cho số ít con tàu khởi hành từ quần đảo Hawaii.

Bấy giờ đã thấy quen thuộc với con tàu Parki trên bất kỳ phương diện có thể tìm hiểu, tôi lui tới boong mũi và triệu tập Samoa, Annatoo, Jarl, nghiêm túc thông báo cho họ.

Tôi nói rằng không có điều gì cho tôi sự thỏa mãn lớn hơn là ngay lập tức quay trở lại nơi đã diễn ra cuộc tàn sát và trừng phạt nghiêm khắc những kẻ gây ra nó vẫn còn sống. Nhưng vì cả thảy chúng tôi chỉ có bốn người và vị trí của những hòn đảo ấy hoàn toàn xa lạ với tôi; thậm chí nếu có biết thì cũng không thể nào tiếp cận được vì chúng tôi không có bất kỳ dụng cụ hàng hải nào; ta nhận thấy khá rõ rằng toàn bộ suy nghĩ về việc trở về nơi ấy hoàn toàn vô nghĩa. Lý do cuối cùng ấy đã ngăn chúng tôi đi đến quần đảo Hawaii, nơi con tàu thuộc về, dẫu rằng như vậy là nước đi khôn ngoan nhất, vì nếu thành công, ta sẽ được giao trả lại con tàu xấu số cho các chủ tàu của nó.

Nhưng xem xét mọi khía cạnh, có vẻ tốt hơn cả, tôi thêm, là cẩn thận duy trì con đường về hướng tây của chúng ta. Đây là đường dễ nhất vì chúng ta đã luôn có ngọn gió thổi từ đuôi tàu, và dù chúng ta có thể chẳng có nhiều hy vọng đến được một vị trí bất kỳ đã được định sẵn trước đó thì vẫn có một niềm chắc chắn khả quan rằng nếu cứ trôi đủ lâu, sớm muộn gì cũng sẽ gặp được một hòn đảo nào đó để nghỉ ngơi lấy lại sức; từ đó, nếu thấy cần, sau này chúng ta có thể lên tàu đi đến những miền đất dễ chịu hơn. Thế rồi tôi nhắc cho họ nhớ rằng miễn là chúng ta cứ giữ biển thì vẫn luôn có triển vọng được gặp một cánh buồn thân thiện nào đó; trong trường hợp ấy, mối lo âu của chúng ta sẽ không còn nữa.

Toàn bộ điều này tôi nói bằng một giọng nhẹ nhàng, cương nghị của một người thuộc bậc trên; bởi tôi muốn lập tức khẳng định vị thế tối thượng của mình mà không để ai nghi ngờ. . Bởi vì nếu không thì Jarl và tôi thà bỏ con tàu ngay tức khắc, còn hơn là ở lại trên boong chịu đựng cái thói đồng bóng kỳ cục của Annatoo, thông qua Samoa sẽ có lúc gây ảnh hưởng. Nhưng tôi đoan chắc về ông Viking của tôi, và nếu Samoa tỏ ra dễ bảo thì chẳng có gì phải sợ quý phu nhân của chàng.

          Và vậy là trong lúc tuyên bố, tôi đưa mắt ngó chăm chăm vào chàng; bằng cách ấy mà tôi hiểu ra rằng dẫu lúc này đã chịu phục tôi, chàng cũng vẫn cứ là một người, dẫu không hẳn toan tính điều gì hiểm độc, vẫn có thể có cơ hội đóng một vai xấu. Nhưng lòng dũng cảm của chàng và danh dự man dã của chàng như vốn có, tôi không một chút hồ nghi. Với một con trâu hoang như chàng, đã được thuần hóa dưới cái ách hôn nhân, tôi không thể không tưởng tượng rằng nếu chẳng có lý do nào khác, thì ít nhất việc có thêm chúng tôi trên tàu hẳn cũng khiến chàng  cảm thấy đỡ khổ trước sự bạo chúa của vợ mình.

          Phải nói rằng, với một anh chồng mái mổ, Samoa vẫn là một người trông cực kỳ dữ dằn. Và suy cho cùng tôi cũng thích chàng, giống như ta thích thú một con chiến mã hung hăng có bờm nhếch nhác, như Alexander trẻ tuổi thích thú với con ngựa Bucephalus; thứ ngựa hoang, khi đã vuốt ve rồi, thì cậu ta cũng chỉ yên tâm khi vẫn còn giữ chặt dây cương. Nhưng chuyện về Samoa, xin hẹn kể thêm sau.

          Đường của chúng tôi đã định và quyền chỉ huy của con tàu mặc nhiên được nhường cho tôi, điều cần làm tiếp theo là đặt mọi thứ về đúng chỗ của nó. Những lá buồm tả tơi đã được thay bằng những lá buồm mới, được kéo lên từ phòng cất buồm bên dưới; ở nhiều chỗ, dàn dây neo buồm trọng yếu đã được đi dây; các ròng rọc được buộc lại; các dây chằng và giàn dây níu bị chùng đã được căng. Tất cả mọi sự, chúng tôi hầu như mang nợ cây đinh nhọn không mệt mỏi và khéo léo của ông Viking, mà ông dùng như một vương trượng.

          Nhà xí của tàu Parki nhỏ bé vì thế cũng được dọn kỹ lại lần đầu tiên kể từ cuộc tàn sát, chúng tôi đem lại cho con tàu vẻ ngoài mới toanh và căn vuông các xà buồm cho xinh xắn, con tàu duyên dáng lướt đi; ông già Jarl thực thà thì ở vô lăng lái, thận trọng dẫn hướng tàu đi như một người cha nuôi tận tụy.

          Khi tôi đứng cạnh ông như một thuyền trưởng hay đi lên xuống boong lái, tôi cảm thấy không ít quan trọng khi đảm nhận công việc như vậy lần đầu tiên trong đời, làm chỉ huy của một con tàu ngoài khơi. Những hoàn cảnh mới mẻ chỉ làm tăng thêm cảm giác này: những vùng biển hoang dã và xa xăm nơi chúng tôi đang rẽ sóng; tính cách đoàn thủy thủ của tôi, và cả ý nghĩ rằng, trên thực tế, tôi vừa là thuyền trưởng, vừa là chủ sở hữu của con tàu mà mình đang điều khiển.

 

CHƯƠNG XXX

ĐÔI ĐIỀU ĐỂ DIỄN ĐẠT TRỌN VẸN SAMOA

 

          Ý định ban đầu của tôi là ghé qua quần đảo Kingsmill hoặc những vùng đất lân cận, và việc tình cờ gặp được Samoa lại càng củng cố quyết tâm ấy; và càng liên đới với chàng Belisarius, tôi càng hài lòng với chàng. Tôi không thể không khen ngợi bản thân vì đã được làm bạn với một người anh hùng mà, trong nhiều phương diện, đã chẳng lỡ dịp tỏ ra cực kỳ hữu dụng.

          Cũng như bất kỳ con người xuất chúng nào, ta để Samoa tự nói cho mình là tốt hơn cả; nhưng chúng ta cũng có thể truyền tải đôi điều về con người chàng. Dẫu khá nam tính, vóc người như một khối obelisk, anh man dã khó mà gây được sự cảm tình. Cũng xin đừng phát hoảng khi thấy anh chàng mang con dao của mình bên thùy tai phải, nó đã bị kéo dài đến mức gần chạm vai vì thói quen này. Một kiểu cất dao vô cùng thuận tiện và đỡ thổ phỉ hơn dao găm của dân Vùng Cao được giấu bên dưới xà cạp.

          Chính bà mẹ của Samoa, từ một thời xa xưa hơn nữa, đã đục lỗ xuyên qua người chàng  theo một hướng khác. Phần sụn giữa mũi chàng hơi thõng, nhọn, và Gothic[29], và được xuyên một lỗ; trông như chú chó Newfoundland ngậm gậy, Samoa diện một món trang trí rẻ tiền: một chiếc đinh bóng loáng.

          Chàng ta cũng khờ khạo không kém trong các khía cạnh khác. Chẳng hạn cách chàng xăm trổ gần như thiếu hoàn chỉnh. Các hình xăm của chàng chỉ choàng một nửa thân, từ đỉnh đầu tới gót chân, còn nửa bên kia thì chẳng vương một vết nhỏ nhoi. Được áp vào nhau như thế, chàng trông như một hợp thể của hai nửa lẻ đôi từ hai thụ tạo riêng biệt; và trí tưởng tượng của bạn sẽ bắt đầu suy đoán xem những nửa còn lại đang lang thang nơi đâu. Một khi chàng thình lình quay lưng về phía bạn, bạn tưởng mình thấy một ai đó khác chứ chẳng phải chàng, người mà bạn từng biết.

          Nhưng có một nét ở Samoa nằm ngoài tầm của những cách tân nghệ thuật: ánh mắt của chàng, thứ ở cả người văn minh lẫn man dã vẫn luôn sáng lên trên khuôn mặt đúng như khi mới chào đời. Quả thực đôi mắt của chúng ta là thứ kỳ diệu. Nhưng than ôi, lắm phen, cơ quan thiêng liêng sáng láng ấy chỉ còn là những thấu kính được cho vào trong hốc, như những mảnh kính trong gọng kính mà thôi.

          Nhưng anh Dân Đảo của tôi sở hữu một đôi mắt thật có hồn; nó nhìn thẳng vào bạn như thể có ai đang ở bên trong. Thật là một đôi mắt đẹp, chắc chắn! Có lúc rực rỡ đổi sắc như ngọc mắt mèo, khi tức giận thì rực lên như thép nung trong lửa trắng.

          Tướng Belisarius, hãy nhớ cho, mới đây vừa mất một cánh tay. Nhưng chắc bạn sẽ nghĩ rằng chàng bẩm sinh đã như thế, giống như Đức Nelson và mang vẻ tráng sĩ mà diện mẩu tay danh dự.

          Nhưng nói về Samoa như vậy thôi; chỉ nốt một điều nữa: cái tên của chàng là do một thuyền trưởng đặt cho; được gợi ý nhờ tên gọi bản địa của quần đảo mà chàng thuộc về; quần đảo Saviian hoặc Samoa, tên khác là Quần Đảo Navigation. Đảo Upolua, một hòn đảo thuộc cụm, được vinh dự làm nơi chôn rau cắt rốn của chàng, như hòn đảo Corsica đối với Napoleon, về sau thi thoảng ta sẽ nói về Samoa dưới cái tên Upolua, danh xưng mà anh chàng thích được gọi.

          Và sẽ thật thiếu ga-lăng nếu bỏ lơ một phụ nữ. Nhưng ta nói được gì về Annatoo đây? Thật tình mà nói, tôi không thể nào vẽ ra một bức chân dung dễ mến về quý phu nhân được, bởi vì ở những đối tượng xấu xí nhất, sự nịnh nọt chỉ khiến sự việc càng thêm tồi tệ. Hơn nữa, sự xấu xí thuần túy, không có gì bù đắp, thì tốt nhất nên để yên, chẳng cần sao chép lại làm gì. Tuy nhiên, xấu xí duy nhất chính là sự xấu xí trong tâm hồn, thứ hiện rõ trên gương mặt. Còn sắc đẹp, tuy dễ nhận ra, nhưng vẻ đáng yêu đích thực thì lại vô hình.

 

CHƯƠNG XXXI

LANG THANG ĐÓ ĐÂY[30]

 

          Ai cũng biết một niềm mê hoặc khi lang thang khắp nơi trong một tòa nhà cũ bỏ hoang, ở một miền đất ấm áp và mộng tưởng, nơi những đại sảnh trống tựa như vang lên cái tĩnh lặng, và những cánh cửa mở ra cót két như kẻ lạ bước chân; nơi cửa sổ, các cây trong vườn thọc vào những cành tối của chúng như cánh tay kẻ trộm đêm, và thi thoảng những chiếc đinh bật ra khỏi gỗ ốp chân tường, những con chuột lạo xạo phía sau như xúc xắc. Con người ta cứ ưa thích lang thang lên xuống trong những ngôi nhà ma ám như thế, và sẽ còn hay hơn nữa nếu nơi ấy bị ám bởi một câu chuyện kỳ khôi nào đấy.

          Những lúc tĩnh mịch lơ mơ của một ngày đi biển vùng nhiệt đới, thường thì tôi có cái thú nhòm con tàu cướp biển bé mọn này, với thân tàu thảm thương đã chịu nhiều vết tích.

          Và xét riêng về thú dạo bước thong thả cùng những cơn mơ màng tĩnh lặng thì tình cảnh của tôi lúc ấy gần như chẳng khác gì một mình đơn độc. Bởi lẽ Samoa, đôi lúc khá kín đáo, bận rộn với các suy nghĩ của riêng chàng. Và Annatoo hiếm khi phiền hà tôi mỗi khi nàng có mặt. Nàng miệt mài với những khúc vải calico và những ngọc ngà châu báu, những món đồ mà tôi cho phép nàng giữ lại, hầu cất đi cái tâm trạng khó chịu của nàng nếu có thể. Còn về phần ông Viking đế vương của tôi, ông là một người ít nói, trừ phi được gọi đích danh.

          Ngoài ra, vì cần phải lái tàu Parki vào ban ngày, cho nên ở vô lăng lái phải có người đứng trực; con tàu nhỏ xíu, và tấm mắt cáo, mà ở đó người cầm lái đứng bên trên, được nâng quá cao, đến nỗi anh nhìn bao quát ra tận ngoài xà mũi tàu; cứ thế Argus đưa mắt nhìn biển, khi dẫn đường tàu chúng tôi đi. Còn những lúc khác, thì chúng tôi giao phó con tàu cho những làn gió lành giám hộ.

          Khi đến lượt của tôi ở vô lăng lái - vì dù là chỉ huy, tôi thấy buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình với những người còn lại - hai mươi bốn tiếng một lần. Và không chỉ có Jarl và Samoa mới được giao bổn phận người giữ lái mà còn cả Lệnh Bà Annatoo, người đã trở nên khá thành thạo trong công việc này. Jarl luôn cho rằng sự hữu dụng của nàng có đôi chút hạn chế trong nghề lái tàu. Vì quá chú tâm đến một phần hình ảnh đáng yêu phản chiếu trên mặt kính của la bàn từ đặt phía trước, Annatoo đôi khi sao lãng bổn phận của mình và dẫn chúng tôi đi những bước nhảy ngoặt ngoẹo. Nàng cũng đâu phải, tôi tưởng, người phụ nữ đầu tiên từng khiến đàn ông ngả nghiêng.

          Vì những điều đã đã nói trên, tôi có nhiều thời gian rỗi cho bản thân. Đôi lúc, tôi trèo lên cao và nằm ườn nơi các dây cáp xà buồm ngọn - một trong số những góc căng ở dây neo buồm - tôi nhìn toàn cảnh vùng biển xanh vô tận và tự hỏi người ta đang làm gì ở miền đất không xác định ấy, mà số phận đã dành cho một chỗ trong tâm trí chúng tôi. Hoặc khi thấy bớt trầm tư, tôi lang thang đây đó, chuyền qua dây chằng từ cột buồm này đến cột buồm kia, trèo lên các đỉnh cột, hoặc quanh quẩn đến các đầu mút xà buồm, khám phá bất kỳ nơi nào có chỗ đặt chân. Nó giống như leo khắp nơi trên một cây sồi già to tướng và nghỉ ngơi ở những gạc cây.

          Đối với một thủy thủ, dây nhợ trên tàu là cả một công trình nghiên cứu. Và với tôi, mỗi sợi thừng tàu Parki được săm soi với thích thú vô vàn. Những kiểu đi dây lạ lẫm trên giàn dây níu, các vòng dây chằng, các thừng kê chân, các dây thắt đôi, các mắt thừng flemish, các thừng nhỏ - hết thảy khoáng dã của hệ thống thừng chảo mang những đặc điểm rõ nét về nguồn gốc con tàu.

          Nhưng có lẽ những giờ dễ chịu nhất đối với tôi chính là những khi tôi dành để duỗi mình trên chồng buồm cũ, trên đài buồm mũi; lười biếng gật gù theo cái lắc lư nhè nhẹ của con tàu.

          Thường xuyên tôi xuống cabin, đâu đã năm chục bận khám phá các tủ khóa và các buồng ngủ để tìm thứ gì là lạ. Và nhiều lần, với ánh sáng le lói, tôi bước vào hầm tàu tối như bước vào những lăng và những mộ; và luồn lọt giữa những góc ẩm ướt bên các thùng tô-nô, lách vào những hốc xa nhất.

          Đôi lúc, trong những chui nhủi hầm ngầm ấy, tôi phát hiện tạp nhạp những chỗ giấu đồ kỳ quặc của Annatoo, nơi các món lỉnh kỉnh được bí mật giấu gọn, những thứ nàng say mê. Quả thật, không ít phần của thân tàu tựa như một mỏ những đồ bị lấy cắp khỏi lòng tàu của chính nó. Tôi tìm thấy một chiếc mũ bảnh bao của thuyền trưởng, được giấu gọn ghẽ trong phần rỗng ở giữa cuộn dây buộc buồm, được che phủ theo kiểu thương tâm nhất bằng một đống thừng cũ; và cạnh đó, trong một chiếc thùng tô-nô, tôi phát hiện vài khúc phải calico nguyên tấm, buộc chặt thành khối lớn bằng một sợi thừng hầu như đủ chắc để giữ cột buồm.

          Gần với thứ ánh sáng vô tình mà, khi cửa hầm đã bị tháo, yếu ớt rọi vào khu hầm tàu này, là một chiếc thùng cỡ đại[31] ở boong đáy, mất nắp như Charles Đệ Nhất mất đầu. Và trong đấy một tấm thảm được trải tử tế để nghỉ ngơi, một khám phá đã giải thích cho cái thứ đã luôn luôn tỏ ra bí ẩn. Chẳng hiếm phen Annatoo thuộc vào những món mất tích ấy; và dẫu rằng, từ mũi đến lái, chúng tôi vẫn phải gọi inh ỏi cho nàng xuất hiện và cho những người bạn lo lắng của nàng được nguôi nỗi lao tâm khổ tứ, quý phu nhân vẫn biệt tăm biệt tích, yên lặng và vô hình như ma. Nhưng được lúc vui vẻ, nàng sẽ bí ẩn xuất hiện hoặc được thình lình trông thấy đang lặng lẽ thơ thẩn trên boong mũi, như thể nàng đã luôn ở đó từ muôn đời.

          Có hỏi han cũng vô ích, “Nãy giờ bà ở đâu, Annatoo dễ thương?” Bởi nàng chẳng đáp được lời dễ thương nào.

          Nhưng từ nay vấn đề đã được sáng tỏ. Nơi đây, trong chiếc thùng tô-nô lặng lẽ dưới hầm, Annatoo có thói quen cuộn mình một góc, như con rắn sọc cuộn mình dưới đá.

          Liệu nàng có canh chừng những của nả bí mật quanh quất đâu đây: liệu nàng có ở đây thực hiện nghi thức sám hối như một nữ tu trong buồng riêng hoặc bị xui khiến bởi những thế lực vô hình trong không trung[32] - chẳng ai nói được. Còn bạn?

          Quả thực, những kiểu cách của nàng như kiểu cách của loài cánh cụt khó hiểu khi xây những chiếc tổ khó hiểu của chúng, gây hoang mang cho toàn bộ giới khoa học và khiến bậc hiền triết ra ngớ ngẩn.

          Bí nhiệm thay Annatoo! Người nào sẽ giải nghĩa được nàng?

 

CHƯƠNG XXXII

XIPHIUS PLATYPTERUS

 

          Dạo ấy, cảnh hiu quạnh trong cuộc hải trình của chúng tôi đã được dịu bớt nhờ một sự kiện đáng tường thuật.

          Kể từ khi đi khỏi Quần Đảo Vỏ Trai Ngọc, con tàu Parki đã luôn được những loài cá nhỏ bơi theo sau, làm cho biển trở nên sôi nổi dễ chịu, và chúng cứ theo đàn mà bơi dọc mạn tàu. Nhưng Jarl và tôi hoài công kiếm tìm giữa hàng ngũ của chúng loài Cá Thuyền nhỏ xanh thép bấy lâu nay vẫn đưa đường dẫn lối cho thuyền Dê Biển. Có lẽ từ khi Dê Biển được khô ráo trên boong tàu Parki, những nhà tiên phong tươi tắn nhỏ nhắn ấy đã lẩn mất dạng, sâu dưới làn nước mặn, đua dọc sát sống tàu.

          Nhưng đâu phải về Cá Thuyền mà lúc này chúng tôi hầu chuyện.

Vào một buổi sáng nọ, sự chú ý của chúng tôi hướng về một cuộc bạo động dưới nước. Hàng đàn những chú cá nháo nhào lao mình, phóng lên không trung trong nỗi khiếp sợ tột bậc. Samoa giải thích rằng kẻ tử thù của chúng, loài Cá Kiếm, hẳn đang theo sau chúng.

          Và xin cho tôi được nói đôi lời, rằng trong hết thảy những tên bá quyền, những kẻ khoác lác, những phường du côn, những bè giặc cướp, những vị Hector, những bậc quân ngư, những nhà du hiệp, những đảng cướp đường, những tay thích khách, những nòi cướp cạn, những người dũng sĩ, những đấng anh hùng bất tử bơi ngoài biển khơi, loài Cá Kiếm Ấn Độ đến nay là loài nổi bật hơn cả, tôi xin đề tặng chương sách này dành riêng để tả về chiến binh ấy. Khi làm như vậy, tôi chỉ noi theo cái tiền lệ theo đó những nhà chép sử và nhà sử học, người bạn Peloponnesia của tôi là Thucydides cùng những người khác luôn dành nhiều thời gian để tường thuật về những kẻ hủy diệt trứ danh, mục đích chắc hẳn là để giữ chúng làm mẫu mực cho thiên hạ.

          Loài cá được đề cập ở đây là một sinh vật rất khác với loài Cá Kiếm thường thấy ở Bắc Đại Tây Dương: lớn hơn về mọi mặt và lại còn là một chú tiểu đồng hăng hái hơn. Chú còn được gọi tên là Cá Kiếm Ấn Độ để phân biệt với một loài trùng tên mà ở trên có nhắc. Nhưng theo các thủy thủ ở Thái Bình Dương, chú thường được gọi là Cá Giáo, còn đối với những ai ham mê khoa học và ưa thích những cái tên đúng trong sách vở thì ta cứ biết, rằng giữa các nhà tự nhiên học uyên bác với nhau, chú được biết dưới cái tên lạ lùng là “Xiphius Platypterus”.

          Nhưng tôi xin miễn cho người anh hùng của tôi hết những biệt hiệu này và thay bằng một cái tên hay hơn nhiều do chính tôi tự đặt: xin thưa, Kỵ Mã. Và quả thực chú là một Kỵ Mã, có quy củ và tước hiệu hẳn hoi: một quý ông đích thực sống cùng một thời đại tươi đẹp với Black Prince Edward, khi hết thảy các quý ông thành danh nhờ lưỡi kiếm, trong khi thời nay, ngoại trừ Cá Kiếm, các quý ông đa phần được nhận ra nhờ đôi ủng bóng loáng và ba toong song.

          Một Kỵ Mã can đảm và vui vẻ chính là anh hùng của chúng ta, lên đường với thanh kiếm Tolodo dài luôn rút sẵn của chú. Chú sẽ chiến đấu với bạn lút cán, vì lưỡi kiếm bằng xương của chú chẳng bao giờ có vỏ. Bản thân chú đã mang nó từ khi mới sinh - phải phải, ngay vào lúc chú lao mình vào Cuộc Chiến Đời, cũng như chính chúng ta vậy, những người trần mắt thịt, vốn trần truồng và không bao chẳng bị lao vào thế giới này. Chính chúng ta lại là những vỏ kiếm của tâm hồn mình. Và thứ tâm hồn trút kiếm của bậc kỳ tài còn sáng hơn mã tấu của Saladin. Nhưng biết bao nhiêu người đã để mặc cho lưỡi kiếm của họ ngủ yên, đến khi chính nó ăn vào cả vỏ, và cả hai mục ruỗng thành từng mẩu sắt gỉ. Bạn có bao giờ được nhìn thấy những cồn vụn sắt của những mỏ neo Tây Ban Nha xưa và cả những cán neo của những con tàu chiến cổ dưới đáy Vịnh Callao chưa? Thế giới này đầy rẫy những Tháp xưởng quân giới cũ, những binh xưởng Venetia đổ nát và những trường kiếm han gỉ. Nhưng những chiến binh đích thực thì đánh bóng thanh kiếm của họ bằng những tia sáng ban mai, đeo kiếm trên những thắt lưng can đảm của mình, dè chừng những vết hoen gỉ như dè chừng kẻ thù, và nhờ những nhát đâm chắc nịch và cú stoccado mà các thanh thép của họ luôn được giữ cho thật bóng và thật bén, như những ngọn giáo Cực Quang xông pha khắp Greenland.

          Đá đánh lửa phát ra thứ ánh sáng làm điên tiết viên Kỵ Mã của chúng tôi. Chú núp bóng ở nơi sống tàu giao với đường chú đi và lao một mạch chúi đầu vào đấy, bằng thanh kiếm Andrea Ferrara của chú đâm bừa một cú gọn ghẽ hết mực, chẳng hiếm phen bị cụt mất nửa, như tên du côn bỏ dao găm trong nỗi sống còn kẻ thù mình.

          Có trường hợp một tàu Anh Quốc, tàu Foxhound, đã bị lưỡi kiếm đâm thấu phần đặc nhất của thân, là mũi tàu, xuyên hẳn qua những tấm tôn đồng và các thớ gỗ và nhô ra vài inch trong hầm tàu. Trên chuyến tàu về London, nó đã được người ta cẩn thận cưa và được đóng vào lớp gỗ ban đầu như một vật hóa thạch, nay vẫn được giữ nguyên. Nhưng đây chỉ là một cuộc tấn công tương đối vô hại của viên Kỵ Mã gan dạ. Trường hợp tàu Rousseau của Nantucket thì còn hiểm hóc hơn. Con tàu gần như bị đâm chí tử và kẻ tấn công nó đã rút kiếm. Chỉ bằng cách giữ cho các máy cọc cạch bơm thì tàu mới có thể xoay xở về được tới cảng Tahiti, “nghiêng mạn” và được một phẫu thuật gia tàu thuyền lấy hắc ín và xơ thừng mà băng bó vết thương. Tôi đã được gặp con tàu này ngoài biển, không lâu sau thảm họa ấy.

          Sau trận đấu thương đầy ác nghiệt, viên Kỵ Mã của chúng ta đã quân bị cho mình tại xưởng quân giới nào, đây là điều không hề dễ nói. Nhưng thật khổ cho chú nếu phải lao vào trong các trường đấu ấy, kiếm chẳng mang lẫn vũ khí đã tước, phó mạng cho một tên cá mập hèn hạ nào đó mà chú gặp.

          Bấy giờ, thấy rằng các bạn đi biển của chúng tôi, những chú cá nhỏ dọc mạn tàu, đã bị hành hạ ác liệt và giết thịt bởi những cuộc tập kích của viên Kỵ Mã cố chấp, ra sức săn chúng để dọn một bữa điểm tâm thịnh soạn, tôi định thay mặt chúng mà xen vào và bắt giữ kẻ thù.

          Với một lưỡi móc cá mập và dây câu, tôi đã thắng lợi và đưa quý ông can đảm của tôi lên tàu. Chú đáp boong gọn ghẽ, đập vào ván tàu bằng chiếc đuôi vạm vỡ, trong khi một thước rưỡi trước chú chìa ra thanh kiếm dễ sợ của mình.

          Với vai trò là người thắng cuộc, tôi được phép trói tay kẻ bại trận; thế là, nhanh chóng giải quyết chú và cưa đứt thanh Toledo, tôi lấy nó làm chiến tích. Thanh kiếm ấy có ba mặt, mỗi mặt hơi lõm như một thanh đoản kiếm, tầm ba inch tính từ gốc, rồi từ đấy thon dần thành một mũi nhọn.

          Và dẫu không được rèn ở Tagus hoặc Guadalquiver, nó vẫn nhô khỏi bề mặt cái  nét nhám gợn sóng và vảy nước mà chỉ các thanh kiếm đáng tin cậy của Tây Ban Nha mới có. Nó là một thanh kiếm có hương thơm - như vua Hồi cổ đại, ngát xạ hương do ma sát. Nhưng khác xa với lưỡi sắt ở Tagus hoặc Damas, nó cứng như họng súng trường của Crocket, chắc hẳn cũng chí mạng chẳng kém.

          Đã lâu tôi treo thanh trường kiếm ấy trên đầu võng của mình. Chẳng phải nó đã được ca ngợi thành truyện như thứ kiếm sắc của Bayard gan dạ, một viên kỵ mã khác ư? Thanh kiếm của hiệp sĩ hẳn cũng đã giết cả hai chục hoặc năm chục mạng; nhưng thứ vũ khí mà tôi có trong tay thì chắc chắn đã xiên và đâm hàng ngàn.

 

CHƯƠNG XXXIII

OTARD

 

          Và đây là một chuyện nhỏ khác.

          Vào một chiều nọ khi một mình hiếu kỳ tiến vào hầm tàu, tôi hầu như đã thu được bằng chứng không ngờ rằng viên thuyên trưởng xấu số tàu Parki là người có óc phán đoán sáng suốt và là người biết hưởng thụ. Ngắn gọn là, tôi đã phát hiện được một thùng thơm phức rượu Otard cổ loại thượng hạng.

          Tôi nào có ý nhận xét thiếu cân nhắc về những gì có liên quan trực tiếp tới viên thuyền trưởng bất hạnh. Đằng khác, tôi cũng chẳng giống một kẻ đưa ma không thể nguôi ngoai, người đã bọc cuốn sách hài của Joe Miller của bạn mình quá cố bằng vải tang đen để bày tỏ nỗi buồn. Mọi sự chẳng phải đều có chừng mực, có mức độ hay sao?

          Nhưng ta hãy cho qua. Tôi đã tìm thấy thùng rượu Otard và uống ực, hơn thế nữa lại còn nhận thấy niềm khoan khoái tột bậc trong khẩu vị, và thấy lòng mình mừng rỡ reo vui. Thôi thúc kế tiếp của tôi chính là chia sẻ món quà trời trao ấy với các bạn tàu tôi. Nhưng ở đây, một suy nghĩ khôn ngoan lại xen vào. Từ các vị đế vương ngoài khơi, tổ tiên của ông, ông Viking được thừa hưởng một trong số những đức cốt lõi, ấy chính là niềm ghét và kinh tởm hết thảy những thức rượu mạnh và rượu chát, đến độ chẳng bao giờ muốn thấy bất kỳ thức uống nào, thế nên phải liền tay nốc cạn một hơi. Nói gọn, cũng như Alexander Đại Đế và những bậc hoàng thân khác, Jarl có tật uống như hũ chìm. Và tuy ở ngoài biển thì tỉnh táo hơn cả Fifth Monarchy Elder, thì đấy chỉ là vì lúc ấy ông được cất khỏi cơn cám dỗ mà thôi. Nhưng khi tiết lộ phương diện yếu đuối của ông Viking như vậy, tôi tha thiết mong rằng nó sẽ chẳng làm ông mất mặt trong bất kỳ đánh giá của bất kỳ con người độ lượng nào. Chỉ cần nghĩ rằng ngoài kia còn biết bao nhiêu người như ông - ấy còn chưa bàn sâu về Alexander Đại Đế, nhất là giữa tầng lớp của ngài; và xin hãy cân nhắc, tôi khẩn nài, rằng những người bạn có tâm hồn rộng rãi nhất, vì chính lý do ấy, lại là những người phù hợp nhất cho những cuộc rót rượu quá hào phóng; vì do quá rộng lòng, họ có nhiều nỗi vui sướng hơn người khác.

Về phần Samoa, từ sự im lặng tuyệt đối của chàng cho đến nay đối với bất kỳ thứ gì có men trên tàu, tôi kết luận rằng, cùng những bí mật khác, viên thuyền trưởng quá cố đã rất khôn ngoan mà đem giữ thứ rượu Otard cho riêng mình.

          Tôi cũng chẳng nghi ngờ gì ngoài việc anh Upolu, cũng như hết thảy những người Polynesia khác, thích cho đầu óc được khoan khoái và trong trạng thái ấy sẽ còn cứng đầu hơn cả heo mọi Rừng Đen. Còn về Annatoo, tôi rùng mình nghĩ, thứ rượu Otard ấy có thể châm lửa biến nàng thành một Nữ Thần Báo Thù còn dữ dằn hơn những vị thần từng đuổi theo Orestes.

Có lúc tôi suy nghĩ về cái tai hại khi công bố phát hiện của mình; tôi nghĩ về nghĩ đến những hiểm họa âm ỉ, lười biếng, và luôn rình rập của chuyến hải hành này, mà khốn nhất là khai tâm một thứ thức uống gây ngất ngây cho các bạn đồng hành của tôi, tôi quyết định giấu nó khỏi tất cả bọn họ.

          Tôi bị thuyết phục bởi lập luận ấy đến mức, trong một thoáng, tôi đã suýt lăn thùng  tô-nô, tháo nút và xót xa nhìn thứ chất lỏng bên trong hòa cùng thứ nước bẩn dưới hầm tàu.

          Nhưng không, không. Pha loãng thứ nước muối hôi hám kia bằng linh hồn chưng cất gấp đôi của quả nho quý giá? Hồn ma Hafiz sẽ hiện về ám tôi mất!

          Thế là một lần nữa, y học nhập cuộc; và Paracelsus đứng ra đỡ đầu cho mỗi cốc được uống vì ích lợi của dạ dày. Vậy là rốt cuộc, tôi quyết định để nó lại đúng chỗ của nó: thi thoảng ghé thăm, chỉ một mình tôi, nhằm mục đích kiểm tra.

          Nhưng để thay cho lời khuyên đến tất cả các vị chỉ huy, xin cho tôi có đôi lời rằng, nếu kho Otard của quý vị có bị phơi bày trước mắt - khi ấy, vào cái giờ dữ lúc chìm tàu, thì hãy đập vỡ chiếc thùng rượu mạnh của quý vị trước khi đi dây con thuyền cứu sinh.

CHƯƠNG XXXIV

HỌ LÁI TÀU THẾ NÀO

          Khi chúng tôi rời chiếc thuyền Dê Biển để lên tàu brigantine, chúng tôi hẳn phải cách ít nhất hai trăm lý về hướng tây so với địa điểm mà chúng tôi từng bỏ tàu Arcturion trước đó. Còn chuyện chúng tôi đã đi xa tới đâu, là Bắc hay Nam của Xích Đạo, thì tôi không thể đoán chắc được.

          Nhưng việc chúng tôi không cách đường Xích Đạo được khoảng nào đáng kể có vẻ đã thật rõ ràng. Bởi vì trong những đêm sao sáng nhất, hoàn toàn không thấy dấu hiệu của các chòm sao cực, dù chúng tôi vẫn thường xuyên dõi theo cả đường chân trời phía Bắc lẫn phía Nam để tìm. Đối với những ai quen quan sát bầu trời ngoài biển, thì chỉ cần chênh vài độ vĩ độ thôi là có thể nhận ra sự khác biệt rõ rệt trong dáng vẻ của thiên thể gần mép trời.

Nếu giả thiết của tôi về kinh độ vào thời điểm đó là đúng, và tính cả phần đường ít ỏi đã đi được trên chiếc Parki, thì ta còn cách đất liền mình tìm khoảng một trăm hải lý nữa. Nhưng vì những lý do hiển nhiên, không thể nào xác định chính xác ta sẽ còn phải trôi bao lâu nữa trước khi thấy đất liền. Những đợt biển lặng, gió nhẹ và dòng hải lưu đã khiến mọi thứ thành ra bất định. Mà chúng tôi đã chẳng có phương pháp ước lượng tiến độ hướng về phía tây, ngoại trừ cái mà người ta gọi là Dẫn Đường Dự Tính[33] - tức là tính số hải lý đã đi mỗi giờ, có điều chỉnh theo những sai lệch ước đoán khỏi hải trình dự kiến, do tác động của các dòng hải lưu vốn ở vùng Thái Bình Dương này đôi khi chảy rất xiết.

          Bấy giờ, xét về nhiều mặt, chúng tôi thấy an toàn trên tàu Parki hơn là trên chiếc Dê Biển. Số người tham gia càng lớn, cảm giác về nguy hiểm càng giảm rõ rệt. Kẻ nào sắp tuyệt vọng lúc lạc lõng nguy nan thì được nên can đảm nhờ sự hiện diện của người khác. Nhờ được ở giữa bạn bè, sự bình tĩnh và an ủi càng tăng.

          Tuy vậy, trên tàu lại có nhiều nguồn cơn khó chịu và lo lắng mà khi còn ở trên thuyền săn cá voi chưa hề có. Quả thực, giữa chúng tôi và biển sâu lúc này là năm trăm tấm ván tử tế hợp thành một bè trên mẩu thuyền bồng bềnh của chúng tôi. Nhưng tàu Parki thì cần nhiều chăm sóc và lưu ý hơn, nhất là về đêm, khi một người canh tàu can đảm là điều không thể thiếu. Với chiếc thuyền săn cá voi trước kia, ta có thể liều lĩnh áp sát bãi cạn hay rạn san hô mà không sao; còn bây giờ, một sự bất cẩn hay liều lĩnh tương tự có thể khiến tất cả những ai có mặt trên tàu phải trả giá bằng mạng sống.

          Dưới ánh nắng vui tươi, dong buồm qua làn nước lấp lánh, tôi không mấy phiền hà vì những mối lo nghiêm trọng; nhưng khi màn đêm buông xuống, mọi chuyện lại hoàn toàn khác. Và những nỗi lo sợ, đúng ra là những nỗi khiếp sợ mà tôi cảm nhận được, đã tăng lên nhiều nhờ tính cẩu thả của cả Jarl lẫn Samoa, khi họ trực phiên đêm. Lắm phen tôi phát hoảng trối chết và căng mắt nhìn kỹ đường chân trời tối tăm, khi thức dậy từ giấc ngủ mơ màng tôi phát hiện người lái tàu, mà trong tay người này đây là sinh với tử, đang an giấc đứng tựa vào cần lái, ở đấy như một vật cố định, như một con rồng há mồm tạc xẵng nơi mũi tàu.

          Nếu không vì trên boong của những con tàu khác, chính tôi đã từng nhiều lần gà gục bên vô lăng lái mặc cho mọi đấu tranh, thì tôi cũng hầu như sẽ chẳng biết thanh minh ra sao cho sự bất ý này của các đồng bạn tôi. Dẫu vậy, tôi vẫn cho rằng chỉ riêng việc ý thức được hoàn cảnh của chúng tôi thôi cũng đã đủ để khiến bất kỳ ai tỉnh táo suốt đêm canh gác.

          Trường hợp của Samoa, ngủ gục bên cần lái, thì thật là kinh khủng. Đôi ngọc mắt mèo của chàng chỉ hé mở; chúng hướng về phía ánh sáng la bàn, ánh lên giữa hai hàng mi như hai vành lửa. Lại còn cả vóc người khổng lồ và nét mặt man dã của chàng nữa.

          Vô ích khi tôi khiển trách, van xin, đe dọa: cái bệnh ngủ gật hàn hữu của các bạn tàu tôi đã tỏ ra vô cùng nan y. Cũng thật vô ích khi tôi nhắc cho ông Viking nhớ rằng ngủ trong phiên canh đêm trên một con tàu như của chúng tôi khác xa với sự vô ý tương tự trên boong tàu Arcturion. Trên Arcturion, vị trí của ta trên biển luôn được xác định rõ, cũng như khoảng cách đến đất liền; thế nên vào ban đêm các thủy thủ được ngủ gà ngủ gật, nhưng chủ yếu là vì thuyền trưởng biết rõ rằng có thể bỏ qua được sự thận trọng nghiêm ngặt.

          Tuy trong mọi vấn đề khác, Ông Giời tỏ ra là một người bạn đồng hành đáng tin cậy hơn cả, nhưng chỉ trong mỗi chuyện này thì ông lại trì độn, hoặc say sưa đến mức quái đản. Hoặc, biết đâu chừng, việc được một lần nữa thấy mình trên một con tàu hai boong đã khơi lại trong ông cảm giác về khoảng thời gian trước đây, khiến ông đắm chìm trong sự an toàn giả dối.

          Còn Samoa, chứng ngủ gật của chàng thuộc loại quyết ngủ cho bằng được: hoặc là thấy chiêm bao, hoặc là thấy tử thần. Anh chàng dường như hoàn toàn không ý thức về nỗi nguy hiểm mà chúng tôi phải đối mặt. Tôi thường cho anh man dã ngái ngủ xuống boong, và đích thân tôi lái tàu đến sáng. Sau cùng tôi có lý do ngủ ngày thật nhiều, để khi tối trời còn trực đêm cho thêm phần tử tế, dẫu rằng tôi đã cắt đặt Samoa và Jarl thường gác những phiên bốn tiếng mỗi người.

          Như trước đây đã có đề cập, phiên canh của Annatoo là ở vô lăng lái, nhưng chỉ là vào ban ngày. Và công bằng mà nói, tôi phải thừa nhận rằng nàng chu toàn rất tốt. Vì mặc cho khuôn mặt quyến rũ phản chiếu trên la bàn lờ mờ cuốn lấy những ghé mắt của nàng, suy cho cùng Annatoo rất nghiêm túc với việc lái tàu. Quả thực nàng lấy làm hãnh diện ở đấy lắm, luôn sẵn sàng khi tới phiên với độ chính xác tuyệt vời, đúng giờ xoay phiên không sai một giây. Đồng hồ của nàng là của chúng tôi, là vầng mặt trời. Về đêm, đó hẳn phải là ngôi sao chiếu mệnh của nàng, vì nàng thường hay chằm chằm nhìn vào một vị trí nhất định trên trời, như một người xem số trên mặt một tháp đồng hồ.

           Bằng thứ lý luận kỳ quái thế này thế nọ, nàng đã phỉnh phờ bản thân tin vào cái ý niệm, rằng hễ khi nào ai lái con tàu brigantine thì khi ấy người đó là thuyền trưởng. Vì lẽ ấy, nàng tự cho mình cái vẻ yêng hùng ở cần lái; với những cử chỉ ngông cuồng đưa ra những mệnh lệnh khó hiểu nào là điều chỉnh buồm, nào là rướn khỏi ra mạn tàu để xem chúng tôi đi nhanh cỡ nào. Toàn bộ điều này tiêu khiển cho ông Viking rất mực, lắm phen phát ra một trận cười, và là một trận cười to và sảng khoái: một hiện tượng đáng ký sự.

          Bấy nhiêu điều về Annatoo như vậy là để mào đầu cho điều tôi sắp nói. Khi thấy Jarl và Samoa ngủ gật ngủ gà,  buộc tôi phải thức canh tàu và chỉ có thể nghỉ vào ban ngày - chính lúc tôi thích được tỉnh táo hơn nhiều, tôi đã quyết định giao luôn cho Annatoo những phiên canh đêm ấy; nhiều lần nàng đã gạ gẫm lại cho tôi; cùng mắng nhiếc tật ngái ngủ của anh chồng nàng, dẫu hạn chế hết thảy mọi nghĩ ngợi về Jarl, người mà nàng đã trở nên quá mức thân thiện.

          Chị Calmuc trực phiên đêm đầu tiên thật đáng ngưỡng mộ, nếu không nói là quá mức tỉnh táo. Chỉ lái tàu không thôi cũng không đủ tận dụng được đầu óc linh hoạt của nàng. Đôi lúc nàng cần phải vội chạy từ cần lái để kéo dây buồm mũi[34] thêm một cái, ngay đầu mút dẫn xuống các mép mạn gần đó, sau đó bồi dưỡng bản thân bằng một hai hớp nước và một cái bánh quy, rồi nàng tiếp tục lái tàu, đầy tự mãn trong cương vị của mình. Cứ mỗi tiếng vỗ bất thường của buồm lại có một cú giậm mạnh xuống boong tàu hầu thông báo sự việc cho đoàn thủy thủ hốt hoảng. Nhận thấy sự không biết mỏi mệt như vậy của nàng, tôi sẵn tiện thuyết phục nàng đứng trực luôn cả hai phiên thay cho Jarl và Samoa; và khi nàng ở vô lăng lái thì tôi mới cho phép bản thân mình được chợp mắt trên một chồng buồm cũ trải ra trên boong lái vào mỗi tối.

          Chính Ông Giời là người thường khuyên răn tôi “dừng tàu” mỗi đêm để ngăn đà tiến của tàu tới khi trời sáng, một kế hoạch mà dưới những hoàn cảnh khác hẳn có lẽ đã cho phép tất cả mọi người được ngon giấc. Nhưng như đi như vậy sẽ rất khinh suất. Bởi vì khi tàu không tiến về trước thì các dòng hải lưu dồn dập mà chúng tôi gặp phải sẽ tiếp tục cuốn chúng tôi về phía đông; thêm nữa, trái với kinh nghiệm trước đây, gần đây các dòng chảy này có vẻ đã đổi chiều, một hiện tượng tuyệt nhiên không hề hiếm gặp trong khu vực lân cận đường Xích Đạo ở Thái Bình Dương. Và đấy là thứ đã kéo dài chuyến đi về phía tây của chúng tôi quá đỗi. Thậm chí dưới một luồng gió vừa phải, đôi lúc tôi còn tưởng rằng sức gió đã kháng lại lực cuốn của những dòng hải lưu, cho nên cứ tưởng là tàu đi được kha khá, trong khi thực ra hầu như chúng tôi chỉ ở yên một chỗ trên biển.

Các dòng hải lưu xích đạo của các vùng Biển Nam có thể xem như là thứ bí ẩn nhất trong số những điều bí ẩn. Từ đâu mà chúng đến, đến đâu, nào có ai hay? Xin nói cho chúng tôi biết, quy luật tiềm ẩn nào đã điều chỉnh luồng chảy của chúng. Mặc những lý thuyết nào gán cho chúng là một tiến trình hầu như đồng nhất từ đông sang tây, chịu tác động của các ngọn gió hướng về phía đông của đường Xích Đạo và là tác động thêm vào của những dòng Tia, những dòng hải lưu này luôn luôn chuyển dịch. Chu kỳ xoay của chúng cũng không thể nào căn cứ vào hoặc dự đoán được.

Nhưng dù có khó xác định nguyên nhân cụ thể cho các dòng đại dương đến đâu, ở bất kỳ nơi nào trên thế giới này, ta cũng đã thấy rõ một trong số tác động tốt của chúng. Và dù điều sắp nói có lẽ ai cũng biết, vẫn đáng đặt câu hỏi rằng liệu người ta đã thực sự đánh giá đúng tầm quan trọng của nó hay chưa. Ở đây tôi muốn nói đến sự hòa trộn và thanh lọc liên tục của nước biển nhờ các dòng hải lưu.

Vì cái gọi là chất muối đặc trưng giúp thanh lọc nước biển - theo lý thuyết thông thường - cũng đáng bị nghi ngờ. Và cũng khó thể phủ nhận rõ ràng rằng chính những chất muối ấy có thể làm nước biển nhiễm bẩn, nếu không nhờ sự lưu thông mạnh mẽ của các phần tử nước do dòng chảy tạo ra. Các thủy thủ biết quá rõ rằng một xô nước biển được để ngoài nắng trong một vùng khí hậu nhiệt đới sẽ nhanh chóng trở nên rất khó chịu, một điều vốn không xảy ra với nước mưa.

Nhưng tôi không hề xây dựng lý thuyết. Bằng cách lật lại vấn đề, biết đâu một lý thuyết sẽ được phát triển từ phát biểu trên, và cũng xin cho tôi thêm rằng sự khó chịu của nước biển để ngoài nắng có lẽ, ở mức độ không nhỏ, nảy sinh từ chất phân huỷ của động vật.

 

CHƯƠNG XXXV

A, ANNATOO!

 

          Để tiết lộ được trọn vẹn, tôi cần phải một lần nữa luận về Annatoo, những trò ăn cắp vặt của nàng và những trò ăn cắp vặt ấy rồi sẽ dẫn đến đâu. Trong tinh thần giản dị của tôi, tôi tưởng rằng quý phu nhân, vốn quá được tôn nịnh như nàng cần có, nhờ niềm tin tưởng tôi đặt nơi nàng, sẽ biết sửa sang tính nết cũng như ngưng những trò cắp vặt. Nhưng đâu phải như thế. Nàng bị hai chục con quỷ ám, cứ không ngừng xúi giục nàng giở trò ranh ma vì lợi ích riêng của chúng chứ chẳng phải của nàng, vì những trò chơi khăm ấy không hề mang lại bất kỳ lợi ích trần gian nào cho nàng, lúc này cũng như về sau.

          Một ngày nọ, cuộn nhật trình bị thất lạc. Tôi gọi Annatoo đến. Nàng đến, nhưng chẳng hay biết gì về nó. Jarl dành cả buổi sáng để tìm cho được một vật thay thế, và vài hôm sau thì bụp, chúng tôi phát hiện cái món ấy bị giấu tít trên bao lơn cột buồm chính.

          Một lần khác, phát hiện thấy con tàu nhỏ “nẹp” cứng khi lái tàu như thể có ai dưới nước đang giật ngược lại, chúng tôi tiến hành một cuộc khám xét kỹ lưỡng để xem vấn đề gì đây. Thì kìa; thứ chúng tôi thấy chỉ là một sợi dây thừng, chẳng biết quỷ quái thế nào mà mắc vào tấm tôn xích dưới chân giàn dây mạn phải. Nó bị kéo lê dưới nước. Lúc kéo nó lên - cũng nặng như lúc kéo sợi thừng của một xô nước nặng dưới giếng - thì thấy một chiếc hộp rắn chắc ngay đầu dây; bật nắp hộp thì thấy lộ ra linh tinh nào những con dao, rìu nhỏ và đầu rìu lớn.

          Được gọi lên chất vấn, anh Upolu cung khai rằng đã ba lần cứu nguy cho chính cái hộp ấy khỏi nanh vuốt vô cùng chiếm hữu của Annatoo.

          Ta có bốn người im thin thít trên con tàu gỗ sồi nhỏ nhoi này, và khi ấy, quyền lợi của họ ngang nhau. Có người trần mắt thịt biết điều nào lại cứ mãi can tội trộm cắp, chẳng vì lý do gì rõ ràng? Thật chẳng khác nào móc bạc từ túi bên này bỏ sang túi bên kia. Và việc đó có thể dẫn đến điều gì?

          Bởi lẽ, chẳng bao lâu sau, sự thể đã đến mức chiếc la bàn trong la bàn từ cũng bị lấy mất, đến nỗi chúng tôi đành phải kiếm cái thay thế, là cái mà chúng tôi đã mang lên cùng chiếc Dê Biển.

          Chính Jarl là người đầu tiên tố cáo vụ việc trộm cắp cuối cùng và đáng báo động này. Khi Annatoo đang ở cần lái vào lúc rạng ngày, ông đến để thay phiên cho nàng và nhìn xem chúng tôi đi tàu ra sao, để rồi giật mình kinh hãi nhìn vào cái la bàn từ rỗng không.

          Tôi bật dậy, đi tìm mụ đàn bà và dữ dằn đòi lại cái la bàn. Nhưng cái mặt ấy ngây ra; mỗi lời thốt ra là một lời chối bay chối biến.

          Còn khoan dung hơn nữa là điên rồ. Tôi gọi Samoa đến, kể cho anh chồng nghe chuyện đã xảy ra và dứt khoát rằng chúng ta không thể an toàn được trừ phi tối trời tống giam chị vợ. Về điều này thì anh chàng thầm đồng tâm nhất trí; và tối hôm ấy, khi Annatoo xuống boong mũi, chúng tôi chắn lại ngay cửa mạn trượt. Nàng kêu gào rất lâu nhưng vô ích. Và điều này được lặp lại mỗi tối; quý phu nhân đọc những chuỗi kinh chiều theo lối khí thế nhất.

          Đâu đó tôi từng ám chỉ rằng Annatoo cứ lâu lâu lại giương mắt nai với Jarl. Vậy nên tôi không ít ngạc nhiên khi thấy cung cách của nàng đối với ông thay đổi rõ rệt. Đang khi cùng chúng tôi kéo các dây buồm, nàng sẽ cấu ông vài cú láu lỉnh, đoạn nhìn đi chỗ khác, ngây thơ như một con cừu. Thế rồi, nàng sẽ không chịu xử lý với ông cũng cùng cái dây neo buồm ấy, làm mặt nhăn nhó, tráng sạch bình gỗ ở thùng nước, nếu khả năng cao rằng ông Viking vừa uống từ đấy. Nhiều lần khác, khi Ông Giời thực thà từ dưới boong đi lên, nàng sẽ làm bộ hét to chế nhạo và thè lưỡi ra; kèm theo hết thảy chuyện này là những cử chỉ thiếu lễ độ và vô cùng thiếu đoan trang, bật lên cái sự coi thường sâu sắc của nàng đối với ông.

          Thế nhưng Jarl chưa bao giờ chấp nhất đến hành động vô giáo dục của nàng, mà lại nhẫn nại lờ đi và tha thứ. Khi tìm hiểu lý do trong cách ăn nết ở kỳ lạ của quý phu nhân, tôi mới biết được, mắt đảo đi chỗ khác, rằng mới đây nàng đã giở trò lén lút với ông và không được tiếp đón nồng hậu.

          Rõ ràng, Jarl, một người quá thuộc loại triết gia, ngây thơ tưởng rằng người phụ nữ sẽ sớm tha thứ và quên ông đi. Nhưng một triết gia thì biết gì về phụ nữ?

          Chẳng bao lâu, những biểu hiện ghét cay ghét đắng của Annatoo với ông càng lúc càng chướng mắt, đến độ ông già thủy thủ thực thà không còn chịu đựng được nữa, và cũng như đa phần những người tốt tính khi bị chọc cho điên tiết, ông đã càn quét một trận lôi đình. Ông đề nghị rằng mụ đàn bà nên được bỏ vào bao và cho xuống biển; chứ ông không chịu đựng thêm một chút nào nữa.

          Giết người thì mang tính lây truyền. Ban đầu tôi suýt nữa chấp nhận ngay đề nghị này, nhưng cũng nhanh chóng bác bỏ nó. A! Annatoo: người phụ nữ không ai chịu đựng được: hỡi trời, xin giải thoát tôi khỏi cơn bịt bùng trên con tàu với thứ vò vẽ này đi.

          Nhưng chúng ta đã xong chuyện với nàng chưa? Chưa đâu. Nàng đã tiếp tục công tác trong cương vị được giao từ lúc bắt đầu chuyến hải trình: đó là các việc trong ban bếp núc. Bây giờ nàng bị phế truất. Cái xiên nướng thịt của nàng bị hỏng. Ông Viking long trọng quả quyết rằng ông sẽ chẳng ăn bất kỳ chế phẩm nào của nàng nữa, kẻo sẽ bị đầu độc. Còn về phần tôi, tôi thiếu điều tin rằng nơi ả hồ ly này có đủ ác tâm mà mang cho chúng tôi món nước dùng thiên tiên tử.

          Samoa nói sao về toàn bộ chuyện này? Bỏ qua chuyện nấu nướng, thì liệu có đáng tin rằng ngay khi đang sống giữa chúng tôi như chàng đây, chàng lại mù tịt trước những lỗi lầm đã được dự tính dẫu chưa thành của người vợ chàng? Nhưng sự thể đã vậy. Và đến tướng Belisarius đã cũng mù không khác về những mưu mô chước kế của nàng Antonina.

          Xin hãy nhớ đến mối tình của vị phu nhân cao quý ấy với chàng trai Theodosius; khi ông chồng khờ dại lại còn quay sang kết tội những kẻ tung tin đồn, với chính đôi sừng mà vợ mình đã cắm lên đầu ông ta.

          Một dịp nọ, bỗng nhận thấy một ham muốn bào chữa cho những việc trộm cắp của Annaoo, Samoa lấy làm hãnh diện thông báo rằng quý phu nhân đây là người phụ nữ đức hạnh nhất trong mọi người nữ.

          Nhưng than ôi, Annatoo tội nghiệp, phải nói thêm để làm gì? Và khi tôi nghĩ đến số phận nghiệt ngã sắp sửa giáng xuống nàng, tôi gần như ân hận vì đã kể lại câu chuyện này quá trung thực.

 

CHƯƠNG XXXVI

TÀU PARKI LÌA ĐỜI

 

          Một đợt lặng dài trên thuyền, và giờ đây, xin Chúa giúp cho, lại một đợt lặng khác trên tàu brigantine. Thời tiết bí hơi và ngập thở.

          Trong đợt biển lặng nóng bức ấy, chúng tôi nằm bất động và cứng đờ như Parry ở Cực Bắc. Mặt trời chơi đùa trên mặt biển bóng kính như mặt trời trên các sông băng.

          Vào cuối hai ngày, chúng tôi nhướng mắt nhìn và trông thấy một đám mây thấp, dần trườn, háu đói nở ra như một đội quân hai bên tả hữu dọc chân trời đằng đông. Tức thì Jarl bảo tôi hãy coi chừng.

          Ở đây xin nói rõ: dẫu rằng từ tuần này sang tuần nọ các vĩ độ xích đạo Thái Bình Dương ngự trị, những ngày ôn hòa nhất và sáng nắng nhất, khi giông tố đến, chúng kéo đến với tất cả sức mạnh của mình: tiêu cơn thịnh nộ ứ đặc bằng vài cơn gió cộc. Chúng đến như những Mamelukes: xông lên, rồi đi mất.

          Phải độ trọn một giờ nữa mới tới lúc chiều tà; thế mà mặt trời đã gần như bị che khuất. Trông nó như cuộn giữa những sườn dốc Scythia ảm đạm trên nền trời chếnh choáng. Phía trên đám mây giông, những mảng mây hơi nước báo điềm bay lơi, chóng tiến và nhanh rút: những kẻ gây chiến của Attila, ào ra từ trong toa của những tên lính Hun. Phía dưới, một bóng đen chập chờn trượt trên mặt biển. Khi chúng tôi chăm chăm nhìn, đám mây ấy đã đến gần hơn, càng lúc càng tiến nhanh.

          Gấp rút hết cỡ, chúng tôi lao vào cuộn các lá buồm mà, vì đợt biển lặng, đã chùng xuống trên dây cuộn. Và nhờ xà buồm trữ sẵn được dùng trên boong mũi làm mái chèo lớn, chúng tôi gắng sức hướng mũi tàu lao tới kẻ thù.

          Trận bão có vẻ sắp ập lên chúng tôi; nhưng chúng tôi chẳng thấy gió đâu. Đám mây vô thanh ấy lẻn tới; cái bóng đang tiến của nó đáp xuống trên một đầu sóng trắng sữa cá biệt và nổi bật trên mặt biển. Nhưng giờ đây lằn bọt sóng sùng sục ấy cuộn về phía chúng tôi như một cuộc xung kích trắng của các kỵ mã: Hotspur điên và mũ Murat lông trên đầu; xối thẳng tới một thác nước sủi bọt không ngớt, cuồn cuộn, và ngã dồn lên mặt biển gương phía trước nó.

          Vẫn chẳng một hơi gió. Bỗng chốc, như một cú đấm, và trước khi tấm bạt của chúng tôi được buộc chặt, chiếc thuyền phụ đang tròng trành bên mạn trái được gỡ khỏi hai đầu xà ngang: nước triều gầm hất tung vào bên mạn trước gió và những giọt nước biển lao xuống trên boong, nặng như những hạt máu đông.

          Tất cả là một trận ầm ĩ và mưa mù; một trận đâm sầm những xà buồm và dây buồm, một hòa lẫn kinh hoàng những cảnh tượng và tiếng động; tức khắc chúng tôi có vẻ đã ở ngay tâm bão kịch liệt; thừng chão của chúng tôi, như dây đàn hạc, rít bên trên luồng gió thịnh nộ. Các cột buồm dựng đứng, lắc lư, nhúng những chóp buồm của chúng xuống nước. Và như một con trâu bị húc ngã gục xuống đồng bằng, tấm thân đen của brigantine, rậm rì những rong tảo, nghiêng sườn hổn hển thở ngập bọt.

          Cuống cuồng chúng tôi bám lấy mép mạn. Và ầm vang bên trên tiếng biển gầm bỗng đâu nghe một tiếng dằm sắc, như tiếng tiều phu Na-uy đẵn thông. Chính là Jarl gan dạ, đã đầu tay rút khỏi giá treo của nó trên cột buồm cái rìu luôn được cất ở đấy.

          “Cắt dây buộc thuyền bên mạn trước gió!” ông la lớn và lần nữa bổ cây rìu của ông vào cột buồm. Chúng tôi nhanh chóng làm theo lời ông. Và sau khi cắt được ba trong năm dây buộc thuyền, ông hô to để chúng tôi ngưng. Thả rìu, ông leo lên mạn trước gió. Khi nắm được tay vịn, cột buồm thương tích gãy răng rắc làm đôi cùng một tiếng nổ như một khẩu pháo. Chỗ gãy cột ta có thể thấy được một làn bụi mỏng. Các dây buộc thuyền còn lại đã cắt xong. Bởi lực căng đè lên chúng, hai giàn dây níu điên cuồng bay trong gió và một trong số những ròng rọc lớn ở các đầu mút giáng trúng vào đầu Annatoo, nàng buông tay khỏi cột chống và trượt dọc boong tàu nghiêng, bị dòng nước xoáy nuốt chửng bên mạn dưới gió. Samoa thét gào. Nhưng thời gian đâu mà than khóc; chẳng một bàn tay nào với tới mà cứu được.

          Bằng những dây chằng đang nối, cột buồm chính lôi cột buồm mũi theo với nó; và ngay lúc đó, con tàu lập tức cân bằng trở lại, chúng tôi được cứu nhờ ông hoàng Viking vị cứu tinh của chúng tôi.

          Cơn thịnh nộ đầu tiên đã qua. Nhưng tận xa mạn dưới gió ta thấy lằn trắng đều của cuộc công kích của nó, đang cào biển thành bọt. Chung quanh chúng tôi, biển sôi lên như cả vạn vạc dầu; và xuyên qua gió lốc, sóng nhỏ lẫn sóng to, con tàu sắp chìm của chúng tôi nặng nề lội, mỗi cú húc chắc nịch làm vang dội trong thân tàu như những cú thụi vào hòm.

          Như một xác tàu chúng tôi trôi. Với mỗi dập dềnh chúng tôi lại giơ xà buồm tam giác lên trong không trung; va vào mạn tàu là rải rác những khúc vụn của các cột buồm. Chúng tôi nhanh chóng hết sức tự giải thoát khỏi chúng bằng cách cắt đứt hệ thống thừng chão còn buộc vào chúng.

          Chẳng bao lâu, đợt xấu nhất của cơn bão đã qua. Nhưng biển dâng cao.  Lớp mây vụn và bọt bão cuồng loạn trước đó giờ đã bị dằn vào trong những cơn sóng cồn cuộn dài, trải rộng, mênh mông; bọt kem trắng trên các đầu sóng của chúng như tuyết trên đỉnh Andes. Đôi lúc chúng tôi lơ lửng trên sườn sóng; khi ấy, đại dương xếp luống bốn bề trông như toàn cảnh từ đỉnh Chimborazo.

          Vài giờ tiếp theo, các đợt sóng lớn đã hạ bớt. Kia một vùng biển ôn hòa, một cơn gió ổn định, và một bầu trời trong, đầy sao.

          Đó là cơn bão đã đến sau đợt biển lặng của chúng tôi.

CHƯƠNG XXXVII

LẦN NỮA HỌ LÊN CHIẾC DÊ BIỂN

          Thử các tay bơm. Chúng tôi thả hòn chì và nhận thấy tàu Parki đổ máu ở mọi kẽ hở. Từ miệng hầm tàu, nước như suối òng ọc tuôn vào, sạch và trong như nước Saratoga.  Giờ tận của nó đã điểm. Nhưng bằng việc giữ các tay bơm, chúng tôi chắc chắn con tàu sẽ trụ được tới sáng, vì trước giờ đó chúng tôi không muốn bỏ tàu.

          Quãng thời gian ấy chúng tôi cọc cạch bơm, để chuẩn bị cho thuyền Dê Biển đón biển. Ngay khi biển cho phép, chúng tôi thả thuyền xuống bên mạn và để nó lơ lửng ở đằng đuôi tàu, chất lên thuyền những nước và lương thực cùng với nhiều thứ khác, gồm những cây súng hỏa mai và đoản kiếm.

Ngay sau khi trời hửng sáng, những cú va đập, lắc lư dữ dội dưới chân cho thấy nước trong khoang, bất chấp mọi công sức bơm, đã dâng nhanh đến mức làm những thùng tô-nô rỗng nhẹ nổi lên, đập thình thịch vào sàn tàu.  

          Lẽ ra, nhờ có nhiều thùng rỗng trong hầm, con tàu sẽ khó mà chìm hẳn, dù boong tàu sớm muộn cũng sẽ ngập; nhưng có một số thanh gỗ trên tàu đều thuộc loại gỗ bản địa, một loại gỗ, như gỗ tếch Ấn Độ, có đặc tính nặng hơn nước. Vấn đề ấy, cùng những vỏ trai ngọc trên tàu, đã làm mất tác dụng của sức nổi nhờ các thùng tô-nô.

Cuối cùng thì mặt trời hằng chờ bấy lâu đã mọc; tàu Parki lúc này chìm càng lúc càng sâu.

          Hết thảy mọi thứ đã sẵn sàng, chúng tôi khởi sự rời xác tàu để lên thuyền, như rời một bến cảng.

          Nhưng không phải là không có một chút tỏ bày niềm yêu mến với con tàu brigantine tội nghiệp của chúng tôi.

          Đối với một thủy thủ, một con tàu không chỉ là một khối bộ máy đơn thuần mà còn là một sinh vật có suy nghĩ và kiểu cách, có bản năng sống. Khi đứng bên chiếc vô lăng lái đang rung lắc, bạn cảm nhận được mạch đập của nó. Tôi đã yêu mến những con tàu, như tôi đã yêu mến những con người.

          Bỏ con tàu Parki tội nghiệp cũng giống như bỏ mặc một thứ gì biết cảm nhận số phận của nó. Thật phải lẽ khi ta để cho con tàu được chết một cách đường hoàng và anh dũng.

          Toàn bộ suy nghĩ ấy là của Ông Giời. Samoa và tôi thì đã lên thuyền, gọi ông nhanh chóng lên, kẻo tàu chìm, rồi sẽ lôi cả chúng ta xuống những xoáy nước; bởi con tàu quay đã trọn hai vòng. Nhưng Jarl vẫn dứt khoát chặt bỏ những đoạn dây buồm cuối cùng còn vướng, dọn các boong cho tử tế, vùi chiếc rìu của ông vào chân cột buồm chính đã vỡ nứt, rồi mới lên thuyền với chúng tôi.

Chúng tôi khẽ reo lên, rồi nhổ neo đi.

          Chưa tới mười phút sau, thân tàu cuộn loạn dưới biển, quay vòng lần cuối, hướng mũi tàu nhọn như một người giơ tay sắp lặn, trao một cú lao mình dài xáo động và chìm xuống.

          Nhiều tấm ván cũ của tàu đã từng hai lần va hỏng, trước đây từng vỡ vụn trên bờ biển, lúc này bỏ xác dưới một hầm biển thẳm sâu nhất, cùng xương cốt của những xác tàu đắm và những người chết đuối.

          Thế là lại được lênh đênh trên chiếc thuyền của chúng tôi nữa rồi! Nhưng lần này không còn cái khí phách gan lì như lúc chèo ra khỏi boong tàu Arcturion. Một việc táo bạo được làm trong cơn bốc đồng thì thường chẳng kéo theo mấy sợ hãi. Nhưng khi bị buộc phải làm, nó sẽ trừng trừng bày ra nỗi kinh hoàng ngay trước mắt. Cũng như lúc này đây. Tôi đã từng lao khỏi con tàu Arcturion với lòng can đảm; nhưng khi từ bỏ xác tàu đắm Parki này, lòng tôi cũng đắm cùng với nó.

          Với một làn gió thuận, chúng tôi tiếp tục hướng về phía tây, mong được nhìn thấy đất liền trước khi nhiều ngày trôi qua.

CHƯƠNG XXXVIII

BIỂN CHÁY

          Màn đêm, sau cảnh rời tàu Parki, đã trở nên đáng nhớ nhờ một cảnh tượng đặc biệt.

          Đang khi thiu thiu ngủ trên sàn thuyền, Jarl và tôi bất chợt bị Samoa đánh thức. Giật mình, chúng tôi trông thấy đại dương mang một màu trắng xanh, loá chói khắp nơi với những đốm sáng vàng. Nhưng cái sắc nước đang tỏa sáng khắp nơi ấy đổ một thứ ánh sáng tái nhợt lên thuyền, thế nên chúng tôi quay sang nhau nhìn như những hồn ma. Vì cách nhiều trượng ở đằng đuôi, đường rẽ nước của chúng tôi để vết thành một lằn bọt sáng ào ạt; trong khi đâu đó bên dưới mặt biển, vệt nước của những con cá mập hiện ra nhờ những dải màu lục phớt sống động, băng qua lướt lại với nhau từ mọi hướng. Ở đằng xa, và được phân bố theo đàn, nổi trên mặt biển như những chòm sao trên trời là vô vàn những Medusæ, một loài cá nhỏ, tròn, sặc sỡ, chỉ có thể thấy ở các vùng Biển phía Nam và Ấn Độ Dương.

          Bỗng chốc, khi chúng tôi đang chăm chú nhìn, vút cao trên không trung là một luồng phùn phụt những chớp lóe, đi kèm những tiếng thở sâu không thể nhầm lẫn của một con cá nhà táng. Chẳng bao lâu sau, vùng biển chung quanh chúng tôi phụt ra những đài phun lửa; và bạt ngàn những hình thù, phát ra một ánh chói lòa bên hông chúng, và đôi lúc ngẩng cao đầu khỏi mặt nước, và giũ những hạt lấp lánh, cho thấy vị trí cả một đàn lớn những con Cachalot trỗi lên từ dưới để nô giỡn giữa những cuộn sóng lân quang.

          Luồng hơi nước phụt ra sáng rực hơn bất cứ phần nào của mặt biển; có lẽ vì chất dịch phát quang vốn đã sáng, khi đi qua ống phun của cá nhà táng lại càng thêm rực rỡ.

          Chúng tôi sợ hãi tội độ, sợ rằng mấy con Thuỷ Quái ấy sẽ vô tình hủy diệt chúng tôi bằng cách tiến đến sát thuyền. Chúng tôi đã có thể tránh xa chúng; nhưng tất cả bọn chúng cứ bao quanh chúng tôi tứ bề. Tuy thế chúng tôi vẫn an toàn; vì khi chúng tôi rẽ làn nước xanh, đường sáng chói khác thường được vạch từ sống thuyền của chúng tôi có vẻ làm chúng nao núng. Chắc là bất giác phát hiện thấy chúng tôi, nhiều con đã lao thẳng xuống nước, hất những cái đuôi cáu bẳn lên cao trong không trung, khiến mặt biển càng thêm lấp lánh vì cú lao mình dữ dội của chúng.

          Hướng chính của chúng chắc cũng chung hướng với chúng tôi, về phía tây. Để tránh xa khỏi bọn này, rốt cuộc chúng tôi cũng đưa chèo và kéo về phía bắc. Khi làm vậy, chúng tôi bị một chú cá voi độc nhất đuổi theo, chắc đã nhầm chiếc Dê Biển với một con cá cùng họ cùng hàng. Mặc cho hết thảy nỗ lực của chúng tôi, chú cá càng lúc càng tiến gần, để rồi quẹt cái sườn sôi nổi của chú vào mép mạn Dê Biển, chỗ này chỗ kia để lại những dải dài chất trong suốt bóng loáng mỏng như tơ phủ lấy thân con Cachalot.

          Kinh hoàng trước cảnh tượng quá mới lạ, Samoa rụt người. Nhưng Jarl và tôi, đã quen với sự đồng hành thân mật của loài cá voi, thì dùng mái chèo đẩy nó cho xa khỏi thuyền: một công việc thường làm trong nghề săn cá.

          Khi được ở gần cá voi, đã hồi sinh nơi Ông Giời lâu năm tinh nhạy tất cả sự nhiệt thành trong thiên hướng táo bạo của mình. Dẫu bản tính có trầm lặng cỡ nào, một người thợ chuyên nghề săn cá voi cũng bộc lộ không ít niềm hứng khởi trong cuộc chơi trước mắt. Và cần phải có đôi chút thuyết phục mới ngăn Jarl khỏi phóng cây lao của ông: một hành động điên rồ trong tình cảnh này, và dĩ nhiên hoàn toàn vô ích. Nhưng “Ôi! Găm một cú thôi,” ông Viking của tôi la to. Và lại còn “Con tàu xưa của chúng ta giờ đang nơi nao?” ông nhớ nhung thêm vào.

          Nhưng tôi vui vô cùng khi con quái vật ấy rốt cuộc cũng rời đi, nhập lại với đàn, mà những phụt lửa cao ngất của chúng vẫn còn thấy được nơi chân trời đằng xa, hiện ra ở đấy như những ẩn hiện thất thường của Cực Quang.

          Biển giữ được độ sáng của nó khoảng ba tiếng đồng hồ, khi được nửa khoảng thời gian ấy thì bắt đầu mờ đi, và ngoại trừ những ánh sáng yếu ớt thất thường do những con cá lao nhanh dưới nước, hiện tượng này cuối cùng cũng hoàn toàn biến mất.

          Trước đây, có lần tôi được chứng kiến một vài triển lãm về lân quang hải dương, cả ở vùng Đại Tây Dương lẫn Thái Bình Dương. Nhưng không có gì có thể sánh với cảnh tượng được chứng kiến đêm ấy. Ở Đại Tây Dương, rất hiếm khi có khu vực nào phát sáng, trừ các đỉnh sóng; và chúng đa phần xuất hiện khi trời ẩm ướt, âm u. Trong khi đó, ở Thái Bình Dương, mọi lần tôi từng thấy đều chỉ là những mảng sáng lục lờ mờ, mà mặt biển xung quanh vẫn tối đen. Chỉ trừ hai lần ngoài khơi bờ biển Peru, khi tôi bị gọi dậy khỏi võng lúc nửa đêm bởi tiếng hô hoảng “Tất cả thủy thủ, mau lên boong! Đổi hướng tàu!” Và khi chạy lên boong, tôi nhìn thấy mặt biển trắng toát như tấm vải liệm; chính vì thế mọi người lo sợ tàu đang tiến vào vùng nước cạn.

Các thủy thủy rất thích những điều kỳ thú và thích kể lại chúng. Tôi cũng từng nghe được từ các lão bạn tàu nhiều phát biểu khôn ngoan về hiện tượng nói trên. Do thiếu viện lẽ triết học có cơ sở, người này bác bỏ ý niệm ngông cuồng của một trong số bạn bè hàng hải của tôi - một triết gia chẳng kém gì ông Viking - rằng ánh phát quang của biển là do bầy tiên cá khuấy động mặt nước, mái tóc vàng óng của chúng, lúc bị giật tung và rối bời, sẽ phát sáng làm rực lên sóng nước; tôi xin tiếp tục ghi lại những thuyết đáng tin cậy hơn.

          Faraday, biết đâu chừng, có lẽ đã quy hiện tượng này thành một điều kiện điện từ đặc biệt trong khí quyển và chỉ xuất hiện trong khí quyển mà thôi. Nhưng ở đây, người bạn khoa học của tôi sẽ bị phủ nhận chắc nịch bởi các thủy thủ sáng dạ, những người mà, trong chừng mực nhất định, lại quy nó thành sự xuất hiện của một lượng lớn chất động vật thối rữa, vốn đầy khắp biển khơi.

          Và xem ra cũng không phải là điều vô lý khi cho rằng, chính nhờ cách ấy mà chất lỏng ấy trở nên tích điện phát quang. Ta múc một thùng nước từ đại dương lân quang, và ở trong thùng ta vẫn còn thấy những vệt lửa; nhưng khi để yên một lúc thì hiện tượng này đã sớm lắng đi. Giờ ta đổ nước dọc boong tàu thì một dòng lửa chảy xuất hiện, do sự khuấy động mới làm nó lại bừng sáng. Ta đổ nước khỏi thùng, trong thùng vẫn còn những hạt lấp lánh ngoan cố bám vào trong chốc lát, và thành thùng tựa như đang bốc cháy.

          Nhưng suy cho cùng, sự bốc cháy bề ngoài của biển ấy không thể nào hoàn toàn được tạo ra nhờ chất chết trong đó. Có những loài cá đang sống phát lân quang; và trong những điều kiện nhất định, nhờ liên tục phát tán các hạt sáng li ti, chúng góp phần rất lớn vào hiệu ứng ấy. Đấy là ta còn chưa xác định trường hợp này đúng với nhiều loài cá mập, cá mực và nhiều loài khác thuộc các bộ có vây - hàng vạn động vật thân mềm siêu nhỏ, thường bơi trong tầm dây dọi, mà có lẽ chỉ riêng chúng cũng đủ để nhóm lửa làn biển mặn.

          Song những điều ấy chỉ là các ức đoán: có khả năng, nhưng chưa chắc chắn.

          Sau chuyện khoa học, ta bàn chuyện tình cảm.

          Một nhà tự nhiên học người Pháp cho rằng ánh rực rỡ ban đêm của đom đóm mục đích là để thu hút con khác giới; rằng loài côn trùng khéo léo phát sáng thân nó để làm đèn hiệu dẫn đường tình yêu. Như thế: đậu trên mép lá, và chờ chàng Leander của nàng, đang đến tung cánh vỗ hương hoa, một nàng côn trùng Hero nào đó sẽ thắp đuốc cho người tình thanh nhã của nàng.

          Nhưng than ôi, tam bận than ôi cho bầy cá lửa nhỏ nhắn tội nghiệp nơi biển khơi, có sức tỏa sáng nhưng lại làm đèn hiệu cho kẻ thù, dẫn đường cho sự hủy diệt của chúng.

CHƯƠNG XXXIX

HỌ NHẬP HỘI VỚI NGƯỜI LẠ

          Sau khi rời tàu Parki, chúng tôi được hưởng kha khá thời tiết êm ả, những làn gió nhẹ thổi cho có thay đổi gọi là. Lướt êm ả trên mặt biển, nơi mới chỉ trước đó không lâu còn là một tấm bọt trắng xóa, tôi không khỏi tự nhủ mình thật may mắn biết bao khi trận cuồng phong ập đến lúc chúng tôi còn ở trên chiếc brigantine, chứ không phải trên chiếc thuyền Dê Biển. Dẫu chiếc thuyền săn cá voi vốn nổi tiếng là chắc chắn giữa sóng nước, thì trong một cơn bão khốc liệt, tàu thuyền càng lớn thì cảm giác an toàn càng lớn. Do đó, cả ngàn tâm hồn liều lĩnh mới dám ở trên một con tàu trận tuyến để khêu gan những cơn bão khủng khiếp nhất, dù thực ra trên một chiếc tường-gỗ-thành-Troy, họ có khi lại kém an toàn hơn so với những kẻ lênh đênh đối mặt bão tố trên một con tàu buôn dáng lướt.

          Nhưng tôi không chỉ tự chúc mừng mình đã thoát nạn, mà còn mừng cho viễn cảnh phía trước. Đối với những cơn bão, hiếm hoi lắm mới xảy ra ở các vùng biển này, một cơn vừa xong thì hầu như là một lời đoan chắc rằng ta sẽ biển yên sóng lặng trong nhiều tuần tới.

          Lúc này đây, mặt trời vẫn nối tiếp mặt trời và đất liền chẳng có. Và cuối cùng có vẻ như thể chúng tôi hẳn phải đi quá giới hạn xa nhất về hướng tây của quần đảo mà chúng kiếm tìm: mối nghi ngờ đang rình rập mà tôi canh cánh trong lòng. Song, tôi không thể không ấp ủ niềm tin âm ỉ rằng rồi mọi sự đều sẽ tốt đẹp.

          Vào ngày thứ chín, những lo toan của tôi kết thúc. Dưới ánh rạng đông xám, đậu trên đỉnh buồm của chúng tôi là một chú nhàn đang say ngủ. Con quái thú này theo đúng bản chất là loài dã cầm hiếu kỳ, với cái tên mang nghĩa cái sự buồn ngủ của nó. Lông nó màu trắng tuyết, mỏ và chân nó màu đỏ máu, phần sau trông như quần vải lót trẻ con. Cố tình đùa ác để bắt chim, Samoa túm được ba chiếc lông đuôi; con vật hoảng sợ hét lên một tiếng rồi bay mất, để lại mấy cuống lông của nó trong tay chàng.

          Đi tiếp, chúng tôi dần dà cũng bắt gặp những chuyến bay thấp lồng lộng của những loài thủy cầm khác, đa phần là những loài ít khi thấy ở đất liền: nhạn biển, cốc biển, hải âu, bồ câu san hô, chim ưng, mòng biển, và những loài tương tự. Chúng bay tối cả trời; cánh của chúng tạo ra tiếng sột soạt trên đầu như mười ngàn chiếc lá đồng loạt lật úp. Những loài nhỏ hơn thì lướt trên mặt biển như sỏi ném thia lia từ bờ. Phía trên chúng là vô vàn những loài chim có sải cánh rộng. Trong khi bay cao hơn cả, vút liệng trong không trung là những chú “Thợ Lặn” táo bạo, hay diều biển, một loài có tầm nhìn với khả năng thật sự phi thường. Nó nhìn thấy bọn cá chuồn nhỏ dưới nước, từ một độ cao không dưới bốn trăm bộ. Xoáy tròn và gào lên khi tấn công, chim diều biển, trước là mỏ, găm xuống, sà vào trong nước, và trong giây lát biết mất hoàn toàn, sau rồi nhô lên, con mồi của nó bị quắp chặt trong móng vuốt. Nhưng khi mang nó lên cao, kẻ cướp táo bạo nhanh chóng bị những loài chim săn mồi khác tấn công, ra sức giành lấy chiến lợi phẩm của nó. Và bạn thấy con cá bị giật khỏi móng rớt trong không trung, tới khi một lần nữa lại bị quắp mất đang khi rơi xuống bởi những kẻ đuổi theo nhanh nhất.

          Bỏ lại những cảnh tượng này sau đuôi thuyền, chúng tôi bỗng vớt được một vỏ dừa nhớp, phủ đầy hàu xanh. Và không lâu sau thì lướt qua hai ba cành cây và một thân cọ trơ trọi mà khi đi thuyền đến gần hơn thì có vẻ như chỉ mới bắt đầu chuyến hải trình bất tận của nó. Khi tới ban trưa, màn mù tím đất liền, được nhận ra lờ mờ đang ngự ở chân trời phía tây, gần như bị che khuất. Tuy vậy, đằng sau tấm màn mù ấy, chúng tôi chắc rằng những cành cây đầy hứa hẹn đang vẫy gọi.

          Lúc bấy giờ chúng tôi đang khấp khởi lắm. Samoa thi thoảng một mình ngâm nga những bài vè ngoại giáo, còn Jarl thì gấp mười lần miệt mài với sự im lặng của ông hơn bao giờ; nhưng ánh mắt ông tràn đầy hy vọng và từ mũi thuyền mà phóng nhìn xa xăm. Bỗng, đưa tay che nắng, ông chăm chú nhìn trong chốc lát, đoạn bật dậy, thốt ra một tiếng kéo dài: “Có buồm!”

          Chỉ chấm nhẹ ở rìa xa nhất trên trời là một đốm nhỏ, đang nhảy múa vào tầm mắt mỗi lần chúng tôi leo lên những đỉnh sóng. Nó trông như một chú chim, bởi khuất nửa tầm mắt của chúng tôi đổ những cơn mưa lông vũ: một cú lao mình của bọn nhàn biển trắng sữa hướng xuống biển.

          Bọn chim chóng mất dạng. Nhưng cái đốm ấy thì vẫn còn - rõ là một cánh buồm, nhưng quá nhỏ so với một con tàu. Liệu có phải một thuyền săn cá voi - cái thuyền ở xa phía đuôi, và được che phủ nhờ cái màn mù ấy? Có vẻ như vậy.

          Thế nhưng, lặng lẽ, chúng tôi vẫn chờ cho người lạ tiến gần hơn, tin rằng trong một khoảng thời gian người ta sẽ chẳng nhận ra được chúng tôi, vì chúng tôi đang trong khu vực mà các thủy thủ gọi là “phản mặt trời”, hoặc phần đại dương mà các tia mặt trời chóe lên với cường độ khác thường.

          Khi cánh buồm ấy tiến gần, chuyện nó không tỏa trắng khiến chúng tôi nghi ngờ liệu nó có thực là một thuyền săn cá voi hay không. Lúc này nó có màu vàng và Samoa giải thích rằng nó ắt phải là buồm của một thuyền hải đảo nào đó. Đúng vậy. Đã hiện ra một xuồng đôi lớn, như những chiếc xuồng mà người Polynesia dùng để di chuyển giữa các hòn đảo xa.

          Người Upolu sốt ruột muốn gặp gỡ, cũng là điều mà Jarl không thích. Cân nhắc chốc lát, tôi mới bảo nạp đạn mấy cây súng hỏa mai; rồi căng buồm - gió thuận chiều - chúng tôi tiến về phía chiếc xuồng lúc này đang xuôi hướng vuông góc với đường thuyền trước đó của chúng tôi.

          Ở đây ta cần nhắc rằng từ những thứ áo quần sặc sỡ và những món khác đã được thuyền trưởng tàu Parki cung cấp để trao đổi trên tàu, tôi đã vừa sửa sang trang phục của mình thật ấn tượng, làm cho nó thật thoáng, rũ, và mang nét đông phương. Trông tôi như một tù trưởng Emir. Còn ông Viking cũng không hề lơ là noi gương tôi, dù có đôi chút cải biến theo ý riêng của mình. Với mái tóc dài rối và cây lao móc, trông ông như một vị thần biển lên những con tàu, lần đầu tiên được băng qua đường Xích Đạo. Còn về phần chàng Samoa xăm trổ, chàng vẫn diện cả váy lẫn khăn xếp, làm nhớ về một con báo ngăm đen, dù các đốm của chàng chỉ tập trung về một bên. Ngoài trang phục của chúng tôi, để phòng các trường hợp bất ngờ, chúng tôi cũng đã trang bị cho con thuyền rất nhiều vải trúc bâu Nam Kinh và lụa đủ loại.

          Nhưng bây giờ được nhìn thật tỏ tường trước mắt là đòn gánh một cặp mũi thuyền kềnh càng, chạm khắc tua tủa và băng xuyên qua làn nước với tốc độ đáng kể; cánh buồm căng rộng đang bọc gió như một cái bao. Có vẻ như trên tàu đầy đàn ông thanh niên và từ những tiếng la chói tai hướng về phía chúng tôi cùng độ chệch đường của chiếc xuồng, rõ ràng là chúng tôi đã gây ra ấn tượng không nhỏ. Họ có vẻ không biết nên đi hướng nào: liệu nên tranh thủ gặp gỡ, hay là tránh đi; liệu nên xem chúng tôi là bạn hay là thù.

          Khi chúng tôi tiến gần hơn nữa, nhìn rõ những khuôn mặt của họ, chúng tôi lớn tiếng chào, mời họ cuốn buồm, và cho phép chúng tôi lên xuồng. Nhưng không đáp một lời; nỗi bối rối của họ càng lúc càng tăng thêm. Và khi ấy, chưa đầy chiều dài hai con tàu, họ lướt thẳng qua mũi thuyền của chúng tôi, nhìn chúng tôi chăm chăm với tò mò lẫn sợ hãi.

          Thuyền của họ dài độ ba chục bộ, gồm một cặp xuồng song song, rất thuôn, cách nhau khoảng một thước theo chiều dọc, được nối với nhau bằng những thanh gỗ chéo cứng cáp, buộc ngang qua bốn mép mạn. Trên các thanh gỗ này là một bệ hoặc bục được đóng cao, khá khô ráo; và ở đằng đuôi là một mui xuồng hình vòm hoặc lều; đằng sau, là hai mái chèo bản rộng với phần cuối là những đuôi cá mập thô, nhờ đó mà con thuyền lái đi được.

          Xà buồm, căng một lá buồm vàng, là một cành cây cong, được đỡ xiên qua nạng cột buồm, trên đó còn bám vỏ cây xanh. Chỗ này chỗ kia là những búi rêu nhỏ. Mũi xuồng hơi khoằm, nhô cao, là nơi dựng cột, trông giống như một bàn thờ thô sơ, và chung quanh nó được treo nhiều loại trái cây, gồm hàng hai chục quả dừa còn nguyên vỏ. Mũi xuồng này đã được rào lại, tạo nên một loại cung thánh bên trong.

          Xà buồm đầu tiên, bắt ngang qua các mép mạn, kéo dài độ mười hai bộ ra bên ngoài bục, trên đó là những đoạn cách đều nhau, các dây thừng to được buộc chặt, nối lên đỉnh cột buồm, nhận vai trò làm giàn dây níu. Gió lúc bấy giờ thổi mát rượi và, như thể muốn đẩy mạn trước gió của thuyền hướng xuống nước, năm người đàn ông đứng trên cái xà ngang dài ấy, nắm lấy năm dây níu. Nhưng họ đã thất bại trong việc lấy lực đối trọng cho buồm; và bởi vì chiếc xuồng đôi nghiêng đối nhau, những bức tượng sống ấy được nâng cao trên mặt nước; vẻ ngoài của họ còn được làm cho nổi bật hơn nhờ điệu bộ háo hức, mối nguy hiểm hiển hiện nơi họ đứng, khi tia nước điên cuồng từ mũi tàu văng tung toé khắp người. Bỗng chốc, các Dân Đảo đẩy con thuyền nương theo gió; trong khi, về phần mình, chúng tôi thì dựa vào sức chèo, sợ làm họ phát hoảng trong khi lúc này đang càng lúc càng tiến gần. Nhưng lại gọi họ thêm một lần nữa, chúng tôi bảo rằng chúng tôi là bạn, và có chút quà giao hữu biếu tặng, nếu họ ôn hòa để chúng tôi tiến gần. Hiểu được điều này, một tiếng kêu lớn theo sau, và tôi bảo Jarl cùng Samoa đưa mái chèo, chèo thật nhẹ nhàng về phía những người lạ. Rồi thì, giữa một cơn bão những tiếng la om sòm, vài người trong số họ vội chạy đến mạn xa nhất trên bục, hai tay giơ qua đầu mà đứng, như thể chuẩn bị lặn xuống nước; những người khác thì đe dọa chúng tôi bằng những gậy gộc giáo mác và một người, một người đàn ông lớn tuổi đội một giàn mắt cáo bằng tre trên đầu tạo thành một kiểu giàn che bóng cho đầu, đứng dậy trước lều, giãn dài sau lưng là một dải ná bện rộng.

          Trước màn phô trương thù địch này, Samoa thả mái chèo, và mang quà của chàng về phía ông già, người mà, bởi thái độ của lão, coi bộ đe dọa giáng xuống chúng tôi số phận của tên khoác lác khổng lồ thành Gath[35]. Nhưng tôi nhanh chóng hạ miệng súng hỏa mai của chàng, nghiêm cấm bất kỳ dấu hiệu thù địch dù là nhỏ nhoi nhất, tuy vậy ra lệnh cho các đồng bạn tôi vẫn phải luôn đề phòng cảnh giác.

          Bấy chờ chúng tôi thôi chèo, và sau vài phút om sòm trên xuồng, họ chạy lại chỗ mái chèo lái và hướng thuyền ra trước gió, nhanh chóng lao khỏi chúng tôi. Gấp rút hết cỡ chúng tôi căng buồm và cùng lúc bắt tay vào chèo, chẳng chốc chúng tôi đã bắt kịp họ, quyết đạt được mối giao thiệp thân mật hơn.

 

CHƯƠNG XL

CHA VÀ CÁC CON

 

          Thấy rằng bỏ chạy là vô ích, các Dân Đảo lại dừng xuồng, và một lần nữa chúng tôi cẩn thận tiến đến gần; đích thân tôi hô lớn bảo họ đừng sợ; còn Samoa, với tính hài hước lạ lùng của chủng tộc chàng, cho rằng chàng biết mỗi người trong bọn họ từ khi còn bé tí.

          Chúng tôi tiến lại gần, chỉ còn cách họ chừng hai, ba thước rồi dừng lại, khiến họ phần nào bớt hoảng hốt. Buộc chặt một chiếc khăn lụa Tàu đỏ vào mái chèo dài, tôi vẫy. Một tràng pháo tay sống động, cùng nhiều lời cảm thán nhiệt liệt.

          Đang khi còn vẫy khăn, tôi nói thầm với Jarl cho chiếc thuyền nghiêng hẳn về phía xuồng, được thực hiện rất khéo, đưa mũi tàu, nơi tôi đứng, cho gần những người Dân Đảo hơn. Đoạn tôi thả tấm vải lụa giữa họ và các Dân Đảo, khi bắt được nó, lập tức trao ngay cho ông già hiếu chiến mang ná, người - khi ấy đang ngồi - trải nó ra trước mặt ông, trong khi số còn lại vây chung quanh, liếc vội món quà tuyệt vời, rồi liếc về phía những quà tặng còn tuyệt vời hơn.

          Ông già ấy là người đứng đầu của đoàn người này. Và Samoa khẳng định rằng ông ắt phải là một thầy tế của đất nước nơi những người Dân Đảo thuộc về, rằng chiếc xuồng không gì khác ngoài một trong những chiếc xuồng thánh của họ, đang trên một cuộc hải trình cúng tế nào đó. Hết thảy điều này chàng suy ra từ mũi tàu giống bàn thờ, và trên đó không có phụ nữ.

          Quyết dàn hoà với ông thầy tế, tôi thả vào xuồng một chiếc khăn lụa khác trong khi Samoa lớn tiếng bảo rằng chúng tôi chỉ có ba người và đến trong hòa bình. Trong lúc ấy, ông già Aaron[36] buộc chặt hai tấm vải lụa chéo vai, như một dải ca rô vùng Cao Nguyên, ngồi xếp bằng và đưa mắt nhìn chúng tôi.

          Đó là một cảnh tượng lạ kỳ. Ông thầy tế già, như một cuộn da cũ, trên người phủ khắp những biểu tượng chữ tượng hình, tôi dám chắc, còn khó giải nghĩa hơn bất kỳ thủ bản tiếng Phạn nào. Và trên vầng trán rộng của ông, những nếp nhăn khắc sâu là những ký tự còn bí ẩn hơn mà không Champollion[37] hoặc nhà du mục nào có thể giải mã được. Ông trông già như những ngọn đồi cao niên; mắt trũng nhưng sáng, và đầu bạc như đỉnh Mont Blanc.

          Những người còn lại là một bọn trẻ trung và dễ coi: nước da của họ như màu rượu Gold Sherry, tất cả bọn họ đều xăm trổ theo cùng một kiểu: hai sọc chéo rộng trên ngực và lưng; dài xuống thắt lưng, như quân trang lính bộ binh. Mặt họ đầy biểu cảm và miệng họ toàn răng đẹp, đến nỗi chỉ cần hé môi là như trai ngọc hé miệng. Được đánh dấu khắp người theo lối Tahiti những hình tròn nhỏ màu xanh, chấm ở giữa với một vết đỏ son, cặp đùi nâu rắn chắc của họ chẳng khác gì giăm bông Westphalia lấm chấm bụi đỏ Cayenne.

          Nhưng quả là một tương đồng tuyệt vời trong đặc điểm của tất cả mọi người. Có phải họ sinh cùng một lứa? Sự tương đồng ấy càng tăng nhờ những dấu vết đồng nhất của họ. Nhưng rồi lần lần ta biết rằng họ là những đứa con của cùng một cha; và người cha ấy, ông già Aaron, chắc chắn nương tựa vào những đứa con của mình như một vị tướng già vào những chiến tích thời trẻ.

          Họ là con của nhiều bà mẹ, và ông đang truyền dạy cho họ làm thầy tế[38].

 

CHƯƠNG XLI

MỘT CUỘC CÔNG KÍCH

 

           Những người lạ nhất quyết che đậy danh tính và mục đích chuyến đi của họ, đến độ phải một lúc chúng tôi mới có được thông tin mong muốn.

          Họ chỉ về hướng chiếc lều, như thể nó thuộc vào Lễ bí truyền Eleusinia. Và ông thầy tế già cho chúng tôi hay rằng bước vào đấy sẽ là báng bổ.

          Nhưng hết thảy việc này lại làm dấy lên trong tôi lòng hiếu kỳ muốn làm sáng tỏ cái kỳ quan ấy.

          Sau cùng tôi cũng thành công.

          Trong chiếc lều bí ẩn ấy ẩn giấu một thiếu nữ đẹp. Và theo một tập quán man dã, nàng được Aleema, ông thầy tế, dâng làm lễ vật từ đảo Amma để tế các thần Tedaidee.

          Bấy giờ, khi được nghe về người thiếu nữ, tôi chẳng chờ đợi gì nữa sất. Cần phải nói thêm, lòng tôi đã bị khuấy động biết chừng nào về lễ vật hiến sinh vô hình này, và tôi còn dốc lòng thề rằng dòng máu quý giá của nàng sẽ không bao giờ được tỏa khói trên bàn thờ. Dù có phải chết đuối vì chuyện này, tôi cũng quyết cứu nàng bằng được. Nhưng cho đến giờ, không một dấu hiệu hiểm nguy nhỏ nhất phát ra từ chiếc lều vẫy gọi chúng tôi tới. Từ nơi ấy, chẳng một tiếng động phát ra, trừ một tiếng sột soạt hàn hữu trên thảm. Có thể nào một người sắp bị hiến tế lại có thể yên ổn với phận mình như vậy?

          Nhưng đúng là liều khi quyết giải thoát người thiếu nữ, tốt nhất là tính đường cho cẩn thận. Tôi chẳng muốn đổ máu; lợi thế chẳng nghiêng về chúng tôi.

          Ông thầy tế già có vẻ kiên quyết ngăn chúng tôi cập xuồng của ông. Nhưng cũng kiên quyết không kém, tôi thận trọng đưa mũi thuyền Dê Biển đụng vào hông xuồng, nhằm tạo ít khả năng để họ lên thuyền chúng tôi với thái độ thù địch nhất. Thế rồi, Samoa tai đeo dao vD tôi với thanh đoản kiếm bước lên bục, để Jarl ở mũi thuyền cùng cây lao móc phòng bị, ba khẩu súng hoả mai đã lên đạn đặt bên. Ông được lệnh phải chống trả ngay lập tức nếu kẻ địch manh động trèo qua thuyền chúng tôi.

          Khi chúng tôi cập xuồng, những người Dân Đảo từ từ rút đi, cùng lúc thì thầm hội ý rất lung, hết thảy trừ ông thầy tế già, người vẫn còn đang ngồi, bày ra một bộ mặt bất khuất dẫu băn khoăn. Trước niềm kinh ngạc của chúng tôi, ông ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống bên ông; chúng tôi ngồI, song cũng cẩn thận không để mất liên lạc với Jarl.

          Với hy vọng khơi được thiện chí, khi ấy tôi mới lấy ra một cuộn vải cotton in và trải nó ra trước mặt ông thầy tế, hướng sự chú ý của ông vào những trang trí họa đồ bên trên, với hàng trăm hình những thủy thủ đang cùng lúc leo lên hàng trăm giàn đồng nhất những dây buồm. Liếc qua chúng một lúc, nhờ một dấu hiệu ý nhị, ông cho tôi hiểu rằng rất lâu trước đây, chính ông cũng từng leo lên giàn dây níu một con tàu. Khi đưa ra ám hiệu ấy, sắc mặt ông tối sầm với một nét hung dữ, như thể từng xảy ra điều khủng khiếp có liên hệ với kỷ niệm ấy. Nhưng rồi nó cũng qua, và có phần đột ngột, ông tỏ vẻ hớn hở lắm.

          Khi chúng tôi ngồi cùng với nhau như vậy và toàn bộ tâm hồn tôi tràn đầy những suy nghĩ về người bị giam giữ cùng kế hoạch hay nhất để đạt được mục đích của mình, và thường xuyên đưa mắt nhìn về phía lều, bỗng tôi để ý thấy một chuyển động giữa mấy người lạ. Gần như cùng một lúc, Samoa, ngay trước mặt Aleema, với giọng bình bình, bảo tôi hãy coi chừng đấy vì những trò ấp ủ trò tai quái nào. Lời cảnh báo ấy hầu như không được thốt ra, trong khi, tay cầm những gậy gộc khắc chạm, những người Dân Đảo đã hoàn toàn bao vây chúng tôi. Đoạn ông thầy tế già đứng dậy và cho chúng tôi biết rằng chúng tôi hoàn toàn nằm dưới quyền ông, nếu như chúng tôi không dứt khoát lên thuyền mà rời đi ngay tức khắc và không quấy rầy ông nữa thì tai họa sẽ giáng xuống chúng tôi.

          “Đi thì mi sống; ở thì mi chết.”

          Mười lăm người chọi ba. Có điên mới cãi lệnh ông. Nhưng người con gái đẹp đang gặp nguy hiểm.

          Con dao trước đó còn lủng lẳng bên tai Samoa giờ đang ở trong tay chàng. Jarl la lớn hò chúng tôi trở lại thuyền, vài người Dân Đảo lao tới. Không có thời gian để nghĩ. Tất cả đều diễn ra nhanh hơn có thể nói được. Họ tiến sát vào chúng tôi, để đẩy chúng tôi khỏi xuồng. Ông thầy tế già thô lỗ thúc tôi từ bên sườn, uy hiếp tôi với con dao găm, gai sắc của một con cá. Đã đẩy mà lại còn đe! Trước khi tôi kịp nhận ra, thanh đoản kiếm của tôi đã thọc nhanh tới. Miệng ông thầy tế thốt ra tràng chửi rủa; máu đỏ chảy bên sườn; ông già lảo đảo, chằm chằm tự nhìn mình, và như một cây độc cần úa nâu, ông ngã nhào xuống biển. Một tràng chửi rủa dấy lên trong không khí. Một tiếng thét điên cuồng vang lên từ trong lều. Phá đường thoát thân giữa đám đông, chúng tôi vai kề vai lao về thuyền. Nhảy phóc lên trên, chúng tôi thấy Jarl đang đấu với hai tên Dân Đảo, trong khi số còn lại vẫn đang hú hét trên bục. Thịnh nộ và tai ương hầu như khiến họ bất lực.

          Bằng một cú thọc kiếm, tôi cắt được dây buộc chúng tôi với xuồng và cùng Samoa lao vào hai tên Dân Đảo, với Jarl giúp sức, chúng tôi nhanh chóng chế ngự được họ, đè họ xuống đáy thuyền.

          Ông Giời và Samoa khoá tay mấy kẻ bị bắt giữ, còn tôi nhanh chóng căng buồm; chộp lấy dây buồm ở thanh quấn, chúng tôi mau chóng lao khỏi xuồng. Những người lạ bằng những giáo mác thách thức chúng tôi; một số hướng chúng về phía chúng tôi như thể định phóng trong khi số khác giơ tay chặn, như thể ngăn họ khỏi gây nguy hại đến các anh em mình trên chiếc Dê Biển.

          Các sự kiện có vẻ rủi ro lại thường dẫn đến những kết quả thắng lợi. Không hề triệt tiêu toàn bộ cơ hội giải cứu những kẻ bị bắt giữ, cuộc rút chạy tạm thời của chúng tôi, bắt buộc phải có để giữ an toàn cho Jarl, chỉ khiến cho phi vụ của chúng tôi thêm thành công. Bởi đã có hai trong số mấy người lạ đã bị bắt, tôi quyết định giữ họ làm con tin, để thông qua họ mà thực hiện kế hoạch của tôi mà không phải đổ thêm một giọt máu nào.

          Và từ đây ta cũng cần phải kể lại, rằng vài người bản địa đã bị thương trong cuộc công kích, trong khi cả ba người đã tấn công họ thì nhận được một vài vết bầm.

 

CHƯƠNG XLII

HỐI TIẾC

 

          Trong trận xô xát, không một khẩu súng hỏa mai nào được khai hỏa. Khẩu đầu tiên mà Jarl chụp lấy thì tịt ngòi, và trước khi ông kịp giật một khẩu khác thì cuộc chiến đã thành giáp lá cà, chẳng còn chỗ cho cử chỉ thừa thãi. Cây lao móc là tất cả với ông. Và quả thực, chẳng có gì sánh bằng đồ thép lúc công kích. Nó đến và đi sẵn sàng, và chẳng khi nào mỏi mệt. Kiếm ta là mạng ta, và với kẻ thù ta cũng thế; giữ được mạng hoặc chấp nhận đấy là chuyện vô tình. Ta được ở gần nhà hơn so với que thông nòng; và dùng thép để đấu nhau là một vở kịch không quãng nghỉ. Ta có những mũi đâm chí mạng hơn cả đầu đạn và những báng súng đầy rẫy những ống tinh vi phát ra một lực còn đáng tin hơn cả thuốc súng.

          Trói các tù nhân của chúng tôi dọc khoang thuyền, chúng tôi chèo đến chỗ chiếc xuồng, ra hiệu hữu nghị.

          Khi ấy, nếu có điều gì thích hợp để rút được một đợt triều dâng trong mạch thì chính là cảnh tượng kẻ thù bị đánh bại, vốn kém khả năng tàn phá hơn ta, nhưng vì một lẽ nào đó buộc ta phải hạ gục hắn. Đâu phải chiến thắng nào cũng là khải hoàn, đâu phải kẻ chinh phục nào cũng là anh hùng.

          Khi chúng tôi tiến gần xuồng thì đã rõ rằng nỗi mất cha đã một lần nữa ập lên những người còn sống. Giơ tay, họ nguyền rủa chúng tôi và thi thoảng phát ra một tiếng than khóc nho nhỏ, the thé, đặc trưng với chủng tộc họ. Như trước đó, những tiếng khóc yếu ớt phát ra từ trong lều. Và nổi lên hạ xuống trên mặt biển suốt lúc ấy là chiếc xuồng xấu số.

          Khi tôi nhìn cảnh tượng ấy, cây chùy sắt nào đã giáng xuống lòng tôi; lời nguyền rủa nào đã nhói vang trong tai tôi! Chính tôi đây là kẻ đã gây ra những tiếng khóc xé lòng mà tôi nghe. Bởi bàn tay này đây mà người chết đã chết. Niềm hối tiếc đã đánh phạt tôi đau; và như chớp tôi tự vấn lòng mình liệu cái chuyện chết người tôi đã gây ra có phát xuất từ một động cơ đạo đức là giải cứu tù nhân khỏi cảnh nô lệ hay dưới cái thói tỏ vẻ, tôi đã sa vào cuộc ẩu đả chí mạng này vì mục đích ích kỷ là được kết bạn với một thiếu nữ đẹp. Nhưng bóp nghẹt ý nghĩ này, tôi quyết sẽ vui vẻ. Chẳng phải tôi đang cứu mạng một thiếu nữ sao? Cứ để cho những kẻ chống lại tôi phải ngã xuống.

          Trước cảnh tượng thê lương bày ra trước mắt, Jarl - người từ nãy vẫn giương vũ khí đe dọa đám tù binh hòng thị uy với đồng bào họ - Jarl trung thực ấy buông rơi cây lao của mình. Nhưng vung vẩy con dao trong không khí, Samoa vẫn thách thức những người lạ; chúng tôi cũng chẳng thể ngăn được chàng. Máu ngoại giáo của chàng đã nổi lên.

          Đứng ngay đầu thuyền, tôi quả quyết với những người lạ rằng toàn bộ điều chúng tôi tìm nơi họ chính là thiếu nữ trong lều kia. Còn những người bị bắt phía chúng tôi sẽ được trả về, bình yên vô sự. Bằng không, họ phải chết. Với tiếng la lớn, họ khởi sự đứng lên và vung gậy gộc; nhưng thấy cây lao móc của Jarl giần giật ngay tim của những người bị bắt giữ, họ chóng thoái lui, sau cùng ra hiệu đồng ý với yêu cầu của tôi. Nhờ vậy, tôi nhảy lên bục và vạch một đường gần mũi xuồng ngang qua, ra hiệu cho những người Dân Đảo đứng yên ở đấy. Thế rồi tôi kêu từng người nộp vũ khí, rồi họ được cho lên thuyền.

          Chiếc Dê Biển giờ đây đã được đưa vòng về đuôi xuồng; và giao cho Jarl bảo vệ như trước đó, còn anh Upolu thì cùng tôi lên trên bục. Bằng các biện pháp này - các con tin vẫn bị trói trên thuyền - chúng tôi thấy mình được hoàn toàn an toàn.

          Được Samoa canh chừng, tôi đứng trước lều, lúc này thinh lặng như nấm mồ.

 

CHƯƠNG XLIII

VÀO LỀU

 

          Nhờ những khoảng thưa giữa các bện thảm, nơi này thoáng gió nhưng kín đáo. Ở bên hông có một lỗ tròn chỉ vừa đủ rộng để tra tay, nhưng lỗ hổng ấy phần nào đã bị đóng lại từ bên trong. Đằng trước, một tấm thảm dệt tỉ mỉ từ liễu gai phủ lấy đường vào được buộc lắt léo vào phần đứng của lều. Khi tôi rẽ màn thảm bằng thanh đoản kiếm thì bùng lên những tiếng la ó từ phía những người Dân Đảo. Và họ che mặt khi nội thất bày ra trước mắt tôi. 

          Trước mắt tôi là một cô gái đẹp nép mình. Hai tay nàng đang rũ xuống. Và như một vị thánh từ điện thờ, nàng âu sầu nhìn ra từ mái tóc dài sáng màu. Một tiếng rên nhỏ phát ra từ môi nàng, và nàng run như một chiếc ống nghe. Trên má nàng là những giọt nước mắt, và trên ngực một viên học trai hồng.

          Tôi có nằm mơ chăng? Một làn da trắng như tuyết: mắt xanh màu nền trời: những lọn tóc Golconda. Trong một thoáng tôi cứ mê hồn mà đứng, và nàng khẽ động đậy, e dè, và vẫn chăm chăm nhìn tôi, rồi thu sát vào mình tấm áo mỏng như khói sương. Bước một bước vào trong và vén một phần màn lều, tôi đứng như thế, để nhìn thấy và nghe được Samoa đang chờ bên ngoài, trong khi người thiếu nữ, nép mình trong góc xa hơn, hoàn toàn được che chắn khỏi mọi ánh mắt trừ tôi.

          Khoanh tay trước ngực, bấy giờ tôi chẳng nói năng gì. Số là trong lòng, tôi chẳng thể nối kết cái sinh vật bí ẩn này với những kẻ lạ mặt da ngăm. Nàng dường như thuộc một chủng tộc khác. Ấn tượng ấy mạnh tới độ vô thức, tôi nói với nàng bằng chính ngôn ngữ của mình. Nàng động đậy và rướn người tới, chăm chú nghe, như thể để nghe tiếng vang yếu ớt ban đầu của thứ gì đó mang máng hiện lại trong trí. Tôi lại cất tiếng, trong khi phất tóc ra sau, người thiếu nữ nhìn lên với ánh mắt sắc, hoang mang. Nhưng mắt nàng nhanh chóng cụp xuống, và rướn người tới trước thêm một lần nữa, rồi nàng trở lại tư thế trước đó. Sau cùng nàng chậm rãi ngâm nga mấy giai điệu, khác với những người Dân Đảo; dù tôi chẳng hiểu nghĩa, chúng dường như loáng thoáng quen.

          Nôn nóng muốn biết câu chuyện của nàng, tôi bèn hỏi nàng bằng tiếng Polynesia. Nhưng với nhiều thiết tha, nàng ra hiệu cho tôi nói chuyện với nàng như trước đó. Dần dần, tôi nhận ra rằng nàng không hề hiểu ý nghĩa những lời tôi nói, mà dường như chỉ đơn thuần bị tác động bởi thứ gì đó êm tai, và một lần nữa tôi lại nói với nàng bằng tiếng Polynesia, rằng tôi tha thiết được nghe câu chuyện của nàng.

          Sau nhiều do dự, nàng cũng đồng ý, giật mình vì tiếng báo động từ bên ngoài nhưng suốt khi ấy vẫn nhìn tôi chăm chú.

          Những lời nàng kể lúc đó rời rạc, đứt đoạn, nhưng ở đây tôi trình bày lại theo dạng trọn vẹn hơn.

          Câu chuyện kỳ lạ đến nỗi ban đầu tôi chẳng hiểu chút gì và suýt bị thuyết phục rằng thiếu nữ bất hạnh này chắc là một người đẹp bị điên.

          Nàng tự xưng là không phải người trần thế, mà là một trinh nữ đến từ Oroolia, Đảo Hân Hoan, nằm đâu đó trong quần đảo thiên đường của người Polynesia. Đến đảo này khi vẫn là một đứa trẻ nhờ một quyền năng bí ẩn nào đấy, nàng được thông linh từ Amma, nơi chôn rau cắt rốn của nàng. Tên nàng là Yillah. Và chưa bao lâu sau khi những làn sóng Oroolia rửa sạch làn da ô-liu của nàng cho trắng mịn, nhuộm mái tóc nàng thành ánh vàng rực rỡ, thì trong một lần dạo bước trong rừng, nàng bị cuốn vào những tua dây của một loài dây leo. Kéo nàng vào lùm cây, nó nhẹ nhàng biến nàng thành một bông hoa của nó, để linh hồn có ý thức của nàng cuộn trong những cánh hoa trong suốt.

          Nơi đây Yillah lơ lửng trong trạng thái xuất thần, thế giới bên ngoài tất cả đều nhuốm sắc hồng trong ngục thất của nàng. Sau cùng khi hồn nàng sắp bừng lên nơi nụ hoa đang nở, bông hoa ấy bỗng rụng khỏi cuống; và được làn gió nhẹ đưa ra biển khơi, nơi nó đáp vào mảnh vỏ sò mở mà chẳng bao lâu đã được đưa lên bờ biển Đảo Amma.

          Trong một giấc mơ, các sự kiện ấy được mặc khải cho thầy tế Aleema, người mà bằng một câu thần chú đã mở khóa chiếc hộp ngọc trai, lấy nụ hoa - mà lúc này đã cho thấy các dấu hiệu khai mở trong làn thinh không thức tỉnh, và mang những biểu hiện lờ mờ yếu ớt, như bình minh khuất sau những đám mây màu son tươi. Bỗng mở ra, đoá hoa toả hương thơm, lơ lửng trong không khí một làn sương hồng. Sau cùng đọng lại, xuất hiện từ màn sương ấy nàng Yillah trẻ trung như trước đây; các lọn tóc của nàng đều ướt, và một viên ngọc trai hồng trên ngực. Được tôn thờ như một nữ thần, đứa trẻ thần kỳ ấy bây giờ được ngự trong đền thánh của thần Apo, ẩn sâu trong một thung lũng; không đôi mắt phàm nhân nào từng được chiêm ngưỡng trừ đôi mắt của Aleema.

          Hết kỳ trăng này đến kỳ trăng kia qua đi, và rồi, chỉ bốn ngày trôi qua, Aleema đến với nàng trong một giấc mơ, nói rằng các linh hồn ở Oroolia đã gọi nàng về nhà bằng đường đến Tedaidee, bên hải ngạn ấy có một dòng suối mê hoặc chảy róc rách; suối ấy xuôi dòng trên làn biển mặn, giữa hai bờ nước xanh và, cuốn vào một xoáy nước, xoay vòng xoay vòng, xuống độ sâu khôn dò. Trong một chiếc xuồng độc mộc, Yillah phải xuống nơi xoáy ấy, để rồi sau cùng trồi lên từ một suối ngầm trong nội địa Oroolia.

 

CHƯƠNG XLIV

ĐI!

 

          Dẫu được diễn đạt bằng ngôn ngữ của tôi, nội dung câu chuyện của người thiếu nữ về cơ bản cũng tương tự như lời nàng kể. Song những điều ấy không được thuật lại với tư cách là các sự kiện trong quá khứ mà như là các ấn tượng của tuổi thơ và số phận chưa hoàn tất của nàng. Và dù câu chuyện ấy rõ ràng mang màu sắc huyền bí, hiểu biết của tôi về nghệ thuật kỳ lạ trong vấn đề tế tụng hải đảo, và các tưởng vọng mê hoặc được các nạn nhân của nó sung sướng đắm mình vào, đã bị tước đi phần lớn tác động mà đáng lẽ nó đã có thể tạo ra.

          Vì những mục đích kín đáo có liên hệ đến uy thế giáo chức, các thầy tế ở những miền khí hậu này thường giấu trẻ em trong các ngôi đền của họ và lấy làm ghen ghét mà tách biệt chúng khỏi mọi giao thiệp với thế giới bên ngoài, xảo quyệt gieo vào chúng, khi chúng lớn lên, thứ cuồng tưởng điên rồ nhất.

          Được dạy dỗ như vậy, các học trò của họ hầu như để mất nhân tính vào sự phóng túng không dứt của những tưởng tượng thần tiên. Trong nhiều trường hợp, họ còn được linh hứng thành các lời sấm truyền và đôi lúc bị các tín đồ lui tới nhờ vả, tuy vậy lại luôn tránh khỏi mọi ánh nhìn, sống ở những ngóc ngách trong đền. Nhưng trong mọi trường hợp, cái chết của họ là tất nhiên. Bị lừa gạt bằng một câu chuyện thần tiên nào đó về việc trở lại ghé thăm các hòn đảo Thiên Đường, họ bị đưa đến lễ hiến tế bí mật rồi bỏ mạng mà người thân họ hàng không hề hay biết.

          Phải chi lúc ấy tôi không biết gì về điều đó. Vì Yillah xinh đẹp đến mức có thể khiến người ta tin thật rằng nàng là thần nữ, và hẳn tôi đã có thể bị làm cho mê hoặc mà tin vào những truyền thuyết bí ẩn của nàng.

          Nhưng ôi, biết bao hân hoan và kiêu hãnh khi tôi nhận ra mình chính là người đã giải cứu nàng thiếu nữ tuyệt sắc kia - người, chẳng hề biết gì, vẫn đắm chìm trong một giấc mơ, đáng lẽ sẽ phải chịu số phận của nàng trên bờ biển Tedaidee. Giờ đây, tôi không chút áy náy vì cái chết của Aleema, kẻ từng giữ nàng. Tôi vui mừng khi đã gửi ông xuống với các vị thần của ông, rằng thay vì để cho rong rêu mọc khắp thân nàng Yillah yêu dấu chìm sâu dưới biển, thì chính ông thầy tế đê tiện đã đắm xuống tận đáy.

          Nhưng dù ông đã chìm xuống biển sâu, linh hồn ông đâu có chìm dưới làn nước sâu nơi tâm hồn tôi. Dù niềm hân hoan trên bề mặt có sủi lên thế nào, nỗi hối hận cũng đã ấp ủ nơi đáy lòng. Xem xét kỹ lưỡng, các động cơ của sự việc này không biện minh cho hành động điên rồ mà, trong lúc nóng giận, tôi đã phạm, tuy rằng các động cơ ấy được bảo hộ với một sự ra vẻ hào hiệp, che giấu bản thân tôi khỏi chính tôi. Nhưng tôi đã nén lại cái suy nghĩ ấy.

          Khi kể lại câu chuyện của mình, người thiếu nữ thường ngắt ngang với những câu hỏi liên quan đến tôi: Tôi đến từ đâu: da trắng, từ Oroolia? Tôi đang đi đâu: đến Amma? Và điều gì đã xảy ra với Aleema? Vì nàng đã hoảng sợ khi nghe cuộc giao tranh, dù không hiểu gì, và nàng đã nghe thấy người ta gọi tên ông thầy tế trong ai oán. Những câu hỏi này khi ấy tôi cố tình lảng đi; nó chỉ khiến cho nàng tưởng tôi là một á thần dịu dàng nào đó, đã vượt biển từ Oroolia huyền hoặc của nàng. Và toàn bộ điều này nàng hẳn phải lấy làm tin tưởng lắm. Có ai, như tôi, mà trước đây nàng đã được thấy? Đôi mắt nàng vẫn gắn chặt vào tôi, nhìn tôi theo cách lạ kỳ, và chú tâm vào âm sắc trong giọng tôi.

          Khi cảnh ấy đang diễn ra, bọn người lạ bắt đầu tỏ vẻ sốt ruột, và một giọng nói từ chiếc Dê Biển liên hồi réo gọi chúng tôi nhanh tay nhanh chân lên.

          Tôi nhanh chóng quyết định được hướng đi của mình. Rào cản duy nhất phải đối mặt đó là nguy cơ Yillah phát hoảng vì bất ngờ được mang lên thuyền. Tôi bèn cố gắng chuẩn bị tinh thần cho nàng. Tôi báo cho nàng biết rằng Aleema đã được sai đi làm một sứ mệnh dài ngày đến Oroolia; và rằng, trong thời gian ấy, việc trông coi nàng, nàng Yillah diễm lệ, đã được giao lại cho tôi; do đó, cần phải đưa lều của nàng sang chiếc xuồng đang chờ sẵn.

          Nàng nhận thông tin này với mối lo lắng tột bậc; và chẳng biết nỗi rối bời của nàng có thể dẫn đến đâu, tôi thấy nên đưa nàng - trong khi vẫn còn choáng ngợp vì lời thông báo về ý đồ của tôi - lên chiếc Dê Biển.

          Khi rời nơi ẩn náu của nàng, tôi báo cho Jarl biết kế hoạch của mình, và thế là không trì hoãn nữa!

          Bên dưới, chiếc lều được gắn vào một khung tre nhẹ; và từ các góc trên của nó, bốn sợi thừng, như loại dùng dựng rạp, giữ chắc nó vào bục. Các sợi này đã sớm bị dao của Samoa cắt đứt, và rồi chúng tôi nâng lều lên, nhẹ như không, chuyển nó sang chiếc Dê Biển; từ phía các Dân Đảo phát ra một tiếng hét điên cuồng, át cả tiếng kêu yếu ớt của người thiếu nữ. Nhưng chúng tôi không quan tâm đến om sòm. Quẳng vào chùm trái cây đang treo trên mũi bàn thờ! Việc đã xong; chúng tôi kéo buồm và lướt đi - chiếc Dê Biển, lều, các con tin, hết thảy. Lao tới đuôi xuồng lúc này đã bỏ trống, các Dân Đảo một lần nữa lại giơ tay và lên giọng nguyền rủa.

          Khi đến được một khoảng phù hợp, chúng tôi dừng lại để vứt khỏi thuyền những vũ khí đã lấy được; và Jarl khởi sự giải thoát các con tin.

          Trong khi đó, tôi vào lều, và bằng nhiều cách, tôi ra sức làm cho người thiếu nữ đỡ hoảng sợ. Khi được thoả thuận như vậy thì nghe thấy những tiếng lao mình dữ dội: các tù nhân của chúng tôi lao xuống biển để trở lại chiếc xuồng của họ. Người nào cũng ướt sũng, họ được các anh em mình đón nhận với những âu yếm tận tình.

          Những người bị bắt giữ lúc này nói một điều gì đó, bỗng có vẻ đã khuyến khích được những người còn lại dấy lên hy vọng trả thù - một lần nữa lại điên cuồng vung những giáo mác, ngay trước lúc được vớt lên từ dưới biển. Với nhiều quát tháo và rối loạn, họ nhanh chóng dong buồm, và thay vì đi xuồng về phía nam đến Tedaihee hoặc phía bắc đến Amma về nhà, thì họ lao thẳng theo chúng tôi, ngay phía sau.

          Đứng ngay đầu đằng mũi là ba người; những cây lao đã sẵn sàng thế phóng; từng hồi, họ lại gào lên những tiếng thét hoang dại.

          Họ thực sự truy đuổi tôi sao? Họ tiến thẳng phía sau tôi, như lũ chó săn sủa vang trên đường đuổi mồi. Yillah run rẩy vì tiếng la hét của họ. Tim tôi đập mạnh với nỗi khiếp đảm không thể diễn đạt. Xác Aleema dường như đang nổi lên phía trước: những kẻ phục thù của nó đang nổi cơn thịnh nộ đằng sau.

          Nhưng những bóng ma ấy chóng biến mất. Vì chẳng bao lâu, có vẻ như những kẻ tà giáo nhận thấy mình đã theo vô ích. So với kỹ nghệ của họ, chiếc Dê Biển nhanh nhẹn của chúng tôi đã vượt trội hơn. Và xa dần ở đằng đuôi thuyền, chiếc xuồng hung triệu đành bỏ cuộc, đến khi cuối cùng chỉ còn là một dấu chấm, để rồi khi một cơn sóng lớn dâng lên trước nó, thì chẳng còn thấy nó đâu nữa. Samoa thề rằng chắc hẳn nó bị ngập nước và chìm xuống. Nhưng dù nó có ra sao thì lòng tôi cũng chóng nhẹ bớt. Tôi chẳng thấy ai ngoài chúng tôi trên biển: tôi nhớ rằng sống thuyền của chúng tôi chẳng để dấu vết nào khi nó lướt đi.

          Cứ để thổ dân Oregon lần theo dấu kẻ thù xuyên qua rừng rậm, gai góc, đồi sâu thung hiểm; nhưng nếu hắn đến mép nước, thì chỉ còn biết hít hơi trong vô vọng.

 

CHƯƠNG XLV

NHỮNG HỒI TƯỞNG

 

          Trong việc giải cứu Yillah dịu hiền khỏi bàn tay của những người Dân Đảo, một kế hoạch dường như đã được hoàn thành. Nhưng giờ có điều gì phải làm nữa? Nơi đây, trên chiếc thuyền Dê Biển mạo hiểm, là một cô gái còn đáng yêu hơn những ánh ban mai; và để bầu bạn với nàng, còn ai ngoài tôi và các đồng bạn? Thế nhưng ngực nàng vẫn phập phồng với những hoảng hốt, các tưởng vọng của nàng hết thảy đều lang thang những chốn mê cung.

          Làm sao để chế ngự những tưởng tượng nguy hiểm ấy? Làm sao để nhẹ nhàng xua tan chúng đi?

          Có một cách: đó là hướng các suy nghĩ của nàng về tôi, như là một người bạn và là một người bảo vệ của nàng, và là một người tốt hơn và khôn ngoan hơn Aleema thầy tế. Song điều này chưa đạt kết quả nếu vẫn còn giả thuyết của tôi về một nguồn gốc thần thánh nơi đảo thiêng Oroolia; và thế là ấp ủ trong lòng nàng cái niềm quan tâm bí ẩn, như ngay từ đầu nàng đã mường tượng về tôi. Nhưng nếu sự lãnh đạm khó tính nơi vị cứu tinh của nàng khiến nàng xem chàng như là một người lạ lạnh lùng từ Miền Bắc Cực nào đó, thì làm sao nàng đồng cảm với chàng được? từ đó, làm sao nàng có được bình an trong tâm hồn, khi chẳng có ai khác để nương tựa? 

          Bấy giờ khi trở lại trong lều, một lần nữa nàng lại hỏi Aleema đang ở đâu.

          “Đừng nghĩ gì về ông ấy, Yillah yêu dấu,” tôi kêu lên. “Nhìn tôi đây. Da tôi không trắng như em sao? Nhìn đi, dẫu rằng từ lúc rời Oroolia mặt trời đã nhuộm má tôi, tôi không giống như em sao? Da tôi có nâu như Aleema da màu? Mấy người này đã bắt cóc em khỏi hòn đảo ngoài khơi, khi em còn quá nhỏ để mà nhớ ra tôi. Nhưng tôi đâu có quên em, Yillah yêu dấu nhất. Ha! ha! chúng ta đã chẳng cùng nhau rung lắc những lá cọ, và đã chẳng đuổi theo những quả hạch lăn xuống nơi thung lũng hẹp sao? Chúng ta đã chẳng bước vào hang bên bờ biển, và cùng nhau đi vào động mát nơi gò đồi sao? Nơi nhà tôi ở Oroolia, Yillah yêu, tôi có một lọn tóc của em, khi nó còn chưa vàng: một lọn tóc đen nhỏ như một chiếc nhẫn. Đôi má em đã từng ra sao khi đổi màu từ ô-liu sang trắng. Và khi nào tôi sẽ quên được cái lúc, mà tôi bắt gặp em đang say giấc giữa những đoá hoa, với hồng và ly bên má. Vẫn chưa nhớ ra ư? Em không nhận ra giọng tôi? Những tinh linh trong đôi mắt em trước đây đã từng thấy tôi. Chúng bây giờ đang bắt chước tôi khi nô giỡn trong hai hồ nước của mình. Toàn bộ quá khứ là một khoảng trống lu mờ ư? Hãy nghĩ về khoảng thời gian chúng ta chạy tung tăng dưới vòm lá râm mát, nơi những dây leo xanh quấn mình quanh những chiếc xương sườn khổng lồ của một con cá voi mắc cạn. Ôi Yillah, Yillah nhỏ bé, hết thảy đều đã đến nước này rồi sao? Em vĩnh viễn quên tôi sao? Vậy mà tôi đã băng qua cái thế giới nước rộng lớn hầu tìm được em: từ đảo này qua đảo kia, từ biển này qua biển nọ. Và giờ đây chúng ta chẳng chia lìa. Aleema không còn nữa. Mũi thuyền của tôi vẫn cứ hôn lấy những ngọn sóng, đến khi nó hôn lấy bờ biển Oroolia. Yillah, nhìn lên.”

          Nhận chìm hồn ma của Aleema: Yillah yêu dấu là của ta!

         

CHƯƠNG XLVI

CHIẾC DÊ BIỂN CÙNG MỘT NHIỆM VỤ DONG THUYỀN KHẮP NƠI

 

          Nhờ tính siêng năng của ông Viking, trước khi đêm xuống, chiếc thuyền Dê Biển của chúng tôi một lần nữa lại được thu xếp đâu ra đó. Và cùng những mối nối khéo léo của người thạo nghề biển mà chiếc lều nhẹ đã được buộc vào đúng chỗ; buồm đã được cuộn vào mép cuốn.

           Các đồng bạn của tôi lúc này hỏi tôi về những ý định của tôi; liệu chúng có thay đổi vì các sự kiện trong ngày hay chăng. Tôi trả lời rằng điểm đến của chúng ta vẫn là các hòn đảo phía tây.

          Nhưng từ đấy mà chúng tôi trôi dạt không đổi suốt cả buổi sáng; đến nỗi bây giờ chẳng thấy đất liền hiện ra ở đâu. Thế nhưng mũi thuyền của chúng tôi vẫn cứ hướng tới như trước.

          Đến khi tối trời, các đồng bạn của tôi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, để tôi lái thuyền.

          Ánh sáng giờ này mới dịu dàng và mơ màng làm sao. Những tia nắng mặt trời, đang lặn sau những đám mây vạch sắc hoàng kim, đến với tôi như thứ ánh sáng anh ánh đổ bóng qua tấm mắt cáo. Và làn gió thấp, ngát hương nhựa thơm đặc trưng ở vùng trung tâm Thái Bình Dương, thơm như hơi thở cô dâu.

          Cảnh tượng ấy, quá tĩnh lặng và mê hoặc đến mức bàn tay Yillah đặt trong tay tôi dường như không phải là một bàn tay nữa, nhưng chỉ là một cái chạm. Các cảnh mộng vụt qua trước tôi và bên trong tôi; có điều gì ngâm vang trong tai tôi; toàn bộ khí trời là một khúc nhạc.

          Và khi ấy một suy nghĩ xâm chiếm lòng tôi. Tôi ngẫm thấy chúng tôi cứ vậy mà thanh bình lướt đi ra sao, xa khỏi mọi ưu tư và lo lắng. Thế rồi, những cảnh tượng khác nào còn đang đợi chờ chúng tôi tại bất kỳ đường quanh hải ngạn nào. Nhưng có vẻ nhưng chẳng có hiểm nguy nơi vùng biển dịu mát; vùng chắc chắn cận đất liền thì tạo nên một cảm giác an toàn. Chúng tôi có nguồn lương thực dư dật trong vài ngày tới, và nhờ chiếc xuồng tà giáo, mà được dư dả nhiều trái cây.

          Ngoài ra, giờ đây tôi còn phải lo nghĩ gì về những lùm cây xanh và hải ngạn tương sáng? Chẳng phải Yillah là hải ngạn và lùm cây của tôi sao? Chẳng phải là đồng cỏ, rượu mật, thân nho mềm rợp bóng, và vòm lá râm mát của tôi sao? Trong hết thảy những thứ đáng thèm muốn và đầy vui sướng, bó lúa trĩu hạt, và cánh tay phải tôi là đã đủ rồi sao? Đủ: chừng nào tôi có hải ngạn cho mình. Một cú xoay lái, và mũi thuyền nhẹ của chúng tôi hướng về miền đất mơ hồ của bài ca, mặt trời, và cây thân leo: miền Nam trong truyền thuyết.

          Khi chúng tôi lướt thuyền đi, Yillah lạ kì đăm đăm nhìn xuống biển, và cũng khiến tôi sẵn sàng mà lao vào đấy với nàng, để được lang thang khắp biển sâu. Nhưng tôi chột dạ sững sờ; trong tưởng tượng, tôi thấy các xác lạnh của ông thầy tế đang lướt qua. Một lần nữa bóng ma ấy lại hiện ra; một lần nữa niềm hối tiếc lại đặt bàn tay vấy đỏ của nó lên linh hồn tôi. Nhưng tôi cười. Chẳng phải Yillah là của riêng tôi sao? Nhờ bàn tay của tôi đã cứu nàng khỏi điều bất hạnh sao? Vì tốt cho nàng, mà tôi đã liều chính bản thân tôi đây. Vậy thì chìm xuống đi, chìm xuống đi, Aleema.

          Khi sáng hôm sau, bật dậy từ giấc ngủ, các đồng bạn của tôi thấy mặt trời đã lên quá xà buồm, thay vì ở đằng đuôi vào giờ ấy như mọi khi, họ thiết tha hỏi, “Bây giờ ta đi đâu?” Nhưng thật ngắn gọn tôi cho họ biết, rằng sau khi dành cả đêm để cân nhắc một vấn đề rất quan trọng, tôi quyết định đi thuyền đến đảo Tedaihee, thay vì miền đất phía tây.

          Về điều ấy, họ chẳng lấy làm hài lòng. Nhưng nói thật, tôi đã nuôi dưỡng một ý định mập mờ, chỉ đơn thuần là muốn ngao du chút đỉnh, đến khi nào tôi thấy sẵn sàng hướng về đất liền hơn.

          Nhưng có phải tôi đã chẳng thông báo cho Yillah, rằng đích đến của chúng tôi là hòn đảo thần tiên mà nàng nói tới, Oroolia? Thế nhưng bờ biển ấy thật xa xôi quá, và thật là dại dột mà ra sức đi đến đó trên một chiếc thuyền đóng thủ công, quá hiển nhiên, đến độ chuyện lạ nào mà tôi đã không thực sự suy nghĩ kỹ càng về nó?

          Vậy là chiếc Dê Biển cứ trôi dạt trên biển, như một đám mây lưu lạc trên trời: đi về nơi mà chẳng ai biết ở đâu.

CHƯƠNG XLVII

YILLAH, JARL, VÀ SAMOA

 

          Nhưng đến lúc để nói, Samoa và Jarl xem nàng Yillah bí ẩn này thế nào; và Yillah xem họ ra sao.

          Như Người đẹp so với Quái vật, ban đầu cô gái cố tránh người bạn một tay của tôi. Nhưng thấy niềm tin tưởng của tôi đối với anh chàng man dã, một phản ứng đã chóng nối đuôi. Và chiểu theo thứ quy luật lạ lùng ấy, mà, trong nhiều điều kiện nhất định, những người xấu thậm tệ nhất lại thành ra chỉ còn gớm ghiếc theo lối có duyên, dần dà Yillah cũng xem Samoa như là một loại yêu tinh tốt tính và vô hại mà thôi. Từ đâu chàng đến, nàng chẳng quan tâm; hoặc tiểu sử của chàng thế nào; hoặc số phận của chàng có dính dáng với tôi ra sao.

          Biết đâu chừng, nàng xem chàng như là một thụ tạo mang nguồn gốc tự phát.

          Bấy giờ, như ở những nơi mà phụ nữ là người thuần hóa những bầy thú đàn ông; thì Yillah cũng đã kịp thuần hóa Samoa mà đem bỏ cái của kinh khiếp bên tai chàng, và thuyết phục chàng kiếm cái gì thế vào chỗ trống của cái món trang trí nơi mũi chàng. Về phần chàng, song le, hết thảy điều này đều phải có điều kiện. Chàng đòi hỏi cái đặc quyền được lấy lại cả hai món đồ leng keng ấy vào những dịp phù hợp.

          Nhưng nếu người con gái vui vẻ nô đùa với Samoa như vậy; thì cảm xúc của chàng đối với nàng khác biệt ra sao? Số phận mà nàng đã được định sẵn, và mọi điều không ai hay biết về nàng, đã hấp dẫn hết thảy những mê tín bản địa nơi chàng, mà được gán cho các thụ tạo có nước da như nàng một nguồn gốc còn hơn cả trần thế. Khi được phép tiếp cận người con gái, chàng trông rụt rè và lúng túng đến lạ; gợi lên sự tương đồng về một gã thần rừng vụng về nào đó, đã rút mất những chiếc sừng của mình; chậm rãi vẫy đuôi; cúi mình luống cuống trước một linh hồn rực rỡ nào đó.

          Và niềm tôn kính ấy của chàng là điều khiến tôi hài lòng hơn cả. Hoan hô! tôi nghĩ, hãy cứ mãi ngoại giáo đi. Song đấy cũng chẳng hơn gì bản thân tôi; bởi lẽ, theo một cách khác, Yillah là một thần tượng của cả hai chúng tôi.

          Nhưng còn ông Viking thì sao? Thú thật, về phần ông Jarl tử tế mà tôi đau lòng phải nói, rằng cái mối quan tâm nệ cổ mà ông dành cho các sự tình của tôi khiến ông nhìn Yillah như là một kiểu người không mời mà đến, một thứ ác tiên Cúc Đá, một người biết đâu sẽ dẫn tôi lầm đường lạc lối. Đôi lúc vì chuyện này đã dấy lên một tràng đả kích; nhưng ông sẽ chỉ hướng thái độ tận tụy về sự tức tối của tôi; và rồi tôi chẳng thèm nói năng gì nữa.

          Giản dị như một đóa hoa dại còn bọc trong búp, Yillah dường như chẳng thể nhận ra những ánh mắt tương phản mà các đồng bạn tôi nhìn nàng. Và như một vẻ đẹp đích thực dường như để ấp ủ cái điều cầm bằng, rằng một người như nàng khó mà cho thấy điều gì khác ngoài mội sự bất khả kháng cự với tất cả mọi người. 

          Nàng tỏ ra bất ngờ với vẻ ngoài của ông Viking lắm. Nhất là nàng bị ấn tượng bởi một biểu tượng đặc trưng trên cánh tay của người thủy thủ phi thường — Đấng Cứu Thế trên thập giá, in mực xanh; với mão gai và ba giọt máu đỏ son, nhỏ từng giọt từ mỗi bàn tay và bàn chân.

          Thế là giờ đây Jarl thực thà lại vô cùng hãnh diện về cái hình trang trí này. Đấy là phần phù phiếm duy nhất nơi ông. Và như một phụ nữ tay không đeo găng hầu khoe chiếc nhẫn ngọc lam tinh xảo, ông lão cứ luôn xắn tay chiếc áo chẽn, nhằm phô bày nét điểm trang ấy cho được rõ ràng hơn.

          Và Yillah sẽ xoay cánh tay Jarl hết vòng này đến vòng kia, tới chừng Jarl đành phải đứng cho vững, vì sợ quay mòng mòng. Lòng cảm phục tự nhiên như thế hẳn sẽ làm rung động tâm hồn người nghệ sĩ khéo tay biết dường nào!

          Cuối cùng, thông qua anh Upolu, nàng mới đề nghị với Ông Giời, rằng nàng muốn có được cái hình của ông lên cánh tay phải của nàng. Trong sự đơn sơ vô cùng, người con gái chẳng hề hay biết, rằng như một quang cảnh trong bức bích họa, hình ảnh ấy chẳng thể nào tháo ra.

 

CHƯƠNG XLVIII

ĐÔI ĐIỀU BÊN DƯỚI BỀ MẶT

 

          Không để bỏ sót một sự kiện đáng lưu ý, chúng tôi cần phải trình bày ở đây đôi điều miêu tả về đoàn tùy tùng lạ kỳ những chú cá đã đuổi kịp Dê Biển của chúng tôi, một hai ngày sau khi từ biệt chiếc xuồng.

          Một luồng nổi váng và sủi bọt đằng sau thuyền báo hiệu chúng tới. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã thấy mình là trung tâm của một quần thể vô số những sinh vật có vây, đa phần vô danh.

          Đầu tiên, đằng xa trước mũi thuyền của chúng tôi, là những chú Cá hồi Đầu bạc cùng bơi, ngay sát bên mạn, theo hàng ngũ đồng nhất như một đội quân. Rồi đến những chú Cá ngừ Bụng sọc, hai bên sườn xanh loáng. Đoạn, như một trung đoàn phân khu ba, luồn và xoáy xuyên làn nước như trục Archimedes, là những chú Cá Quẫy đuôi run rẩy; phía sau lần lượt theo hạng và theo hàng là những chú Cá Bò da — được gọi như thế vì cái vây ngộ dáng của chúng được gắn trên lưng với một đường cong vui nhộn, như thể súng lên nửa cò. Xa sau đuôi thuyền là vô vàn những tiểu đoàn Cá Lưng vàng xuất hiện, được võ trang ngay trên da.

          Lướt chầm chậm phía trên đầu là những đàn chim; mỗi cánh trên không đối lại mỗi vây dưới nước.

          Nhưng hãy để những loài chim biển bay tiếp: nào ta cùng với cá mà trở lại.

          Số lượng của chúng thật đáng ngạc nhiên; hằng hà sa số như lệ đổ vì kẻ bội tình. Xa xa ở cả hai bên sườn, chúng bơi thành những hàng dài, lớp xếp lớp; làn nước lúc nhúc những vật chủ của chúng. Bọn châu chấu biển, biết đâu chừng, sắp sửa gieo mình một cú tanh bành xuống một vùng tỉnh lị xanh rêu của Hải Thần. Và loài này thì dễ bảo và bạo dạn, như loài cá đầu tiên từng bơi nơi sông Euphrates; khó mà thoát được tay người; đến độ Samoa chẳng cần mồi hoặc thả dây câu cũng bắt được nhiều con.

          Chúng tạo thành một đoàn tùy tùng mẫu mực; chèo dọc theo hai bên mạn thuyền phủ hàu của chúng tôi, như thể chúng đã ở bên chúng tôi ngay từ lúc ban đầu, chẳng sợ thuyền chúng tôi dâng lên trên mặt nước, hay ít ra cũng chẳng mảy may biểu lộ thương cảm khi mất một đồng bạn dưới tay Samoa. Chúng trở lại hàng lối rồi bơi tiếp.

          Thật vô tư làm sao, nhưng trông chúng  cũng thật nhẫn tâm làm sao! Giả như một tấm ván mà có long ra khỏi thuyền, chúng tôi mà có chìm xuống đáy thì có khi, đoàn tùy tùng ấy hẳn sẽ vui lòng hớn hở mà thi hành những lễ nghi cuối đời cho di hài chúng tôi.

          Nhưng chúng tôi vẫn giữ đàn cá ấy bên cạnh; muốn được thân ái thế nào tùy ý bạn; Samoa tự xoay xở khi chàng nghiêng người qua mạn thuyền, còn Yillah thì vỗ tay với những sinh vật rực rỡ, vì một cú xoay vòng những bụng ánh bạc, làm cho cả một vùng biển rực sáng như một tấm khiên được mài nhẵn.

          Nhưng điều gì đã xảy ra với chú Cá ngừ Bụng sọc tội nghiệp ở đuôi thuyền kia, khiến chú phải khó nhọc bơi tới, với những mang cá tím thẫm? Chú có gì ở đấy, đang kéo phía sau? Ấy chính là tảo biển đang bám vào vây chú. Nhưng con vật bị vướng mắc này phải gượng sức để đuổi kịp bạn bè mình. Ấy vậy mà bọn chúng chẳng mảy may quan tâm. Cứ vậy chúng bơi đi; mỗi con tự lo cho mình, bằng không thì Samoa sẽ lo.

          Sau cùng thì chẳng còn thấy chú Cá ngừ Bụng sọc tội nghiệp ấy nữa. Vô vàn những vây cứ bơi tiếp; một vùng hoang vu trơ trọi nơi kẻ bị bỏ lại phía sau.

          Cá gì mà lạ lùng! Cả ngày dài, chúng đã ở bên chúng tôi và đến đêm vẫn nán lại và phát sáng, dưới ánh trăng nhạt còn lóng lánh và ánh vảy hơn cả dưới ánh chói vàng của mặt trời.

          Chúng bơi mới đẹp làm sao; trọn đời ánh bạc; lao mình đó đây giữa những hàng những ngũ, và cọ mũi, và bắt chuyện làm quen. Chẳng khóc thương cho chú Cá ngừ Bụng sọc rớt lại đằng xa đuôi thuyền; cũng chẳng khóc thương cho những chú đã bị Samoa tàn nhẫn giết chết. Không đâu, không đâu; hết thảy đều vui, vui niềm vui của cá, và nô đùa hớn hở; nhẹ lòng và nhẹ vây; lưng màu rực rỡ và tinh thần rực rỡ. Bơi đi, bơi đi! Tất cả những vây hoan hỉ của ta. Ta hãy rong chơi nơi bão lũ; ta hãy nối đuôi con quái ngư có mạn phủ hàu này; con cá kỳ hình dị tướng, dâng cao thật cao khỏi mặt nước; bơi mà chẳng cần vây. Cá gì thế nhỉ? Tiếng rì rào gì đấy nhỉ? Các cậu có nghe loài quái vật khổng lồ ấy thở chăng? Sao mà nó lại nhọn ở hai phía; phía nào cũng là đuôi; mắt thì chẳng có, miệng cũng chẳng nốt. Cá gì mà kỳ lạ! Cá gì mà khôi hài! Thế mà còn khôi hài hơn nhiều, mấy sinh vật phía trên ấy, trên tấm lưng lõm của nó, bám vào đấy như loài lươn lượn khúc, loài lươn bám và lướt trên lưng bọn Cá kiếm ấy, kẻ thù của chúng ta. Nhưng mấy con lươn ấy thật lạ lùng! Không biết chúng có nghĩ mình đẹp như chúng ta chăng? Không đâu, không đâu; chắc chắn, chúng chiêm ngưỡng những vây linh hoạt của chúng ta, những vảy lốm đốm và xinh xắn của chúng ta. Những kẻ đáng thương bất lực! Dám chắc chúng ao ước được như chúng ta, rong chơi nơi bão lũ, và chỉ cần ước một câu là đã càn quét biển khơi. Bơi đi nào; những vây hoan hỉ, bơi đi nào! Mặc cho hắn rớt lại phía sau, cái kẻ tật nguyền ấy; dàn làn; tiến vào; và ních đầy. Mặc cho hắn chết chìm, nếu hắn chẳng theo kịp. Với chúng ta chẳng có chuyện rề rà:

Là cá, là cá, chúng ta vui tươi bơi,

Chẳng màng đấy là bạn hay thù:

Vây chúng ta khoẻ,

Đuôi chúng ta quẫy,

Vượt biển khơi nào chúng ta bơi.

         

Cá, cá, chúng ta, những cá đỏ mang;

Chẳng ai phiền hà, máu nhiệt độ không:

Chúng ta nổi được là nhờ bọc khí,

Đông thật đông, mỗi chú một anh hùng.

Sự ở đời này, chẳng cần biết là chi,

Bóng không ai hay, mà chúng ta theo:

Được bơi, quả thật thích thú rất mực,

Vậy nào hãy bơi, cho bọt nổi bọt sùi.

Loài dị tướng sát bên chúng ta đây,

Chẳng vì yên ổn, quanh nó chúng ta trốn

Bóng nó trải rộng, mỗi thế mà thôi,

Chỉ mỗi dưới mạn, mà chúng ta bơi

Và còn những lươn đang ngự trên kia, 

Và còn những chim đang bay trên trời,

Chẳng màng đến chúng lẫn đường chúng đi,

Chúng ta hớn hở lướt xa thật xa!

Là cá, là cá, chúng ta vui tươi bơi,

Chẳng màng đấy là bạn hay kẻ thù:

Vây chúng ta khoẻ,

Đuôi chúng ta quẫy,

Vượt biển khơi nào chúng ta bơi.

          Nhưng làm sao bây giờ, các bạn cá của ta! Điều gì đánh động những hàng ngũ kéo dài của các cậu, rồi quẳng tất cả vào cuộc hỗn loạn những vảy và bọt sóng? Mặc kệ cái gã dài ngoằng cầm giáo kia, ngay đằng đuôi. Cất lên tiếng sáo, những chú cá hoan hỉ, hãy đãi chúng ta thêm một hai khổ thơ, hãy lấy đuôi cá ra mà đặt vè, gõ nhịp. Nhưng không đâu, không đâu! lời ca tiếng hát của chúng đã thôi rồi. Cái chết khốc liệt, dưới hình dạng của một Kỵ Mã, đang đuổi theo chúng.

          Coi chúng trở cái giọng khoe khoang kìa! Coi chúng ôm lấy con thuyền bị phỉ báng kìa! Coi chúng ước chi được ở trên thuyền kìa, bọn cá ba hoa! Coi hết thảy bọn chúng sợ hãi kích động kìa!

          Bởi lẽ, lúc ở đây, lúc ở kia, nghe một tiếng ùa kinh hoàng dưới nước, báo hiệu một cuộc mãnh công của loài cá săn mồi dữ tợn, với cây giáo đang để sẵn, phóng vào rìa đàn, bằng vũ khí của mình mà xiên cá, Kỵ Mã nuốt chửng chúng; rồi trở lại tấn công.

          Tuyệt vọng ôm lấy thuyền, những chú cá tội nghiệp chen chúc nhau nổi trên mặt nước, và thì thụp lên nhau, như người bị nhấc bổng trong đám đông. Chúng bám vào chúng tôi như thế, bởi cứ tưởng ở bên chúng tôi thì sẽ được an toàn. Biết vậy, chúng tôi chẳng lấy làm lo lắng, sợ rằng con Kỵ Mã có khi cũng chẳng xem chiếc thuyền của chúng tôi ra gì, ngang ngửa làm mồi cho chú; và đang khi đuổi theo bầy cá, thì đâm thủng chiếc Dê Biển đáng thương bằng một cú thọc. Một chiếc áo khoác, được cuộn lại, sẵn sàng để nhét vào lỗ thủng đầu tiên; trong khi cả ngàn chiếc vây vỗ ra tiếng vào những ván thuyền mỏng của chúng tôi, chúng tôi cảm thấy nao núng; như thể đang giẫm trên lớp băng mỏng, giòn tan.

          Dần dà, trước niềm vui không nhỏ của chúng tôi, kẻ thù đã bơi đi; và một lần nữa ở bên chúng tôi là đoàn tùy tùng hoan hỉ bơi trong nước; gấp mười hoan hỉ hơn bao giờ hết.

 

CHƯƠNG XLIX

YILLAH

 

          Trong vài ngày, lúc hướng này, lúc hướng kia, thuyền chúng tôi lướt đi, chung quanh là những chú châu chấu biển khơi ấy, ta tiếp tục chuyện nàng Yillah.

          Tôi còn chưa nói về vẻ đẹp của nàng. Đó là vẻ đẹp của một hồ nước pha lê nơi rừng sâu khôn dò: mọi thứ đều là sáng và tối; đầy những thoáng lộ; lúc âm u sâu lắng; lúc rạng rỡ má lúm; nhưng hết thảy đều lấp lánh và chuyển động, và hòa quyện với nhau.

          Nhưng vẻ đẹp hoang dã của nàng lại là tấm màn cho những điều còn lạ lùng hơn. Như thường lệ nàng sẽ nhìn tha thiết vào đôi mắt tôi, như một linh hồn thuần khiết nào đó nhìn sâu vào tâm hồn tôi, thấy ở nơi ấy những khuôn mặt hếch, giật mình sửng sốt, và hỏi mình đã phải bùa mê nào, nàng nhìn tôi như vậy.

          Nàng thường nài tôi lặp đi lặp lại một số âm tiết nhất định trong ngôn ngữ của tôi. Những âm thanh ấy nàng sẽ ngâm nga cho riêng mình, thi thoảng ngừng lại, như thể gắng nghe xem chúng đã mê hoặc ra sao.

          Trong giọng nàng, có điều gì rất khác với những người trên xuồng. Khác thế nào, tôi chẳng biết; nhưng nó cho phép nàng phát âm lưu loát tất cả các từ tôi dạy nàng; thậm chí còn như thể nhớ lại những âm thanh đã quên từ lâu.

          Giả như toàn bộ điều này đã khiến lòng tôi tràn ngập ngạc nhiên, nỗi ngạc nhiên ấy còn dâng lên biết bao, và lại còn bối rối hơn nữa, bởi để ý đến nước da và những nét trên khuôn mặt nàng.

          Sau nỗ lực theo nhiều cách khác nhau hầu giải thích cho những vấn đề này, tôi đã đến mức tưởng tượng rằng người con gái ấy chắc là một người Bạch Tạng (Tulla) mà đôi khi những người ở Thái Bình Dương thường mắc phải. Những người này có làn da trắng thanh tú quá đỗi, mang một sắc hồng nhạt, như nếp cửa miệng vỏ ốc. Tóc họ thì vàng kim. Nhưng, khác với những người Bạch Tạng ở các vùng khí hậu khác, mắt họ luôn xanh, và không chịu được ánh sáng.

          Các Tulla thường yểu mệnh. Thành thử mới có cái niềm tin rằng họ thuộc về một thế giới xa xăm nào đấy, và chỉ vì những trái khoáy trong sự quan phòng của thần linh mà họ mới xuất hiện trên trái đất này:  nơi mà hễ lơ là là họ đã nhanh chóng bị bắt đi. Và đa phần trong chuyện này, ở các đảo mà mạng người được dùng làm vật tế thần thì các Tulla được cho là thích hợp nhất để dâng lên bàn thờ, họ vốn đã được dành sẵn cho việc này ngay từ khi mới lọt lòng. Chính những suy xét này, liên hệ với những ý khác, đôi lúc tôi đâm nghi ngờ rằng vì ông thầy tế mà Yillah bị xem là một người thuộc những thụ tạo ấy. Song, những chi tiết về quá khứ của nàng thật quá bí ẩn, đến độ thường thì tôi chẳng biết phải suy diễn ra sao. Nhưng rõ ràng chúng đã cho thấy rằng nàng không hề có một khái niệm dù nhỏ nhoi nhất về nguồn gốc thực của mình.

          Nhưng những ý nghĩ về một trạng thái tồn tại trước cuộc sống trần gian này có khi bắt nguồn từ một trong những thị kiến thiên giới, được phát hiện rõ rệt trên khuôn mặt một đứa bé đang ngủ say. Rồi bị một người khác khéo léo tạo ra, đôi khi còn được lặp lại cho nàng nghe với nhiều thêm thắt, những tưởng tượng ấy dần dà cũng phải hình thành trong tâm trí nàng một sắc thái của thực tế, được nâng lên thành một niềm tin bởi vì sự tách biệt mơ mộng của cuộc đời nàng.

          Nhưng lúc này, ta hãy để phần tiểu sử tiếp theo và đáng tin cậy hơn được tường thuật, những khi thi thoảng được nàng kể lại.

CHƯƠNG L

YILLAH Ở ARDAIR

 

          Ở nơi thung lũng phủ đầy cỏ xanh Ardair, sâu trong nội địa Amma yên tĩnh, được những vách đá cổ kính vây quanh, người thiếu nữ Yillah từng sống ở đây.

          Thung lũng ấy vừa quá nhỏ bé và quá heo hút, vừa được những dốc đứng bao quanh tư bề, lại vừa quá rực xanh cây cỏ, và những bóng tối dối lừa ở đấy chơi đùa; đến độ, nhìn từ trên cao, trông nó như một hồ nước mát, một làn gió ngát, hơn là một thung lũng: các vùng rừng và vùng cỏ của nó hết thảy đều anh ánh mờ mờ, như những lùm cây biển và rêu biển dưới mặt nước lặng.

          Ở đây, chẳng ai lui tới ngoài thầy tế Aleema, người mà thi thoảng vắng mặt suốt nhiều ngày liền. Nhưng vào những mùa nhất định, một đám đông vô hình cùng những tiếng hát vang lừng bật lên trên mé những vách đá gần đó, xuyên qua những vùng đồng hoang rợp bóng, chầm chậm tháo lui; những tiếng ấy nhỏ dần nhỏ dần, khi chúng vãng qua những khu rừng xa xôi hơn.

          Vào những dịp khác, khi Yillah bị giam trong đền thần Apo, một tốp đàn ông tiến vào thung lũng, vây quanh nơi trú ẩn của nàng, nhảy múa ở đấy đến khi tối trời. Trong lúc ấy, có những chồng trái cây, những vòng hoa, và những giỏ cá, được đặt trên bàn thờ bên ngoài, nơi Aleema đứng, mặc áo vải tappa trắng, và lẩm nhẩm, trong khi các lễ vật được đặt dưới chân ông.

          Lúc Aleema đi khỏi, Yillah trở vào thung, lang thang giữa các cây và nghỉ ngơi bên bờ suối. Và khi nàng tản bộ, đưa mắt nhìn xuống nàng là những vách đá già nghiêm khốc, rậm rì rêu.

          Hướng về cuối thung, những bức tường cao ngất nhô nền của chúng lên, gần như lơ lửng giữa không trung. Một tảng đá lớn, được quẳng từ một bề cao gần kề, rơi xuống chắn lại, mãi ở đấy không dời. Những hàng cây trên không mọc lên khỏi mặt đất; những chú chim làm tổ nơi các khe đá; và những cây thân leo kỳ lạ quấn khắp nơi, lan kín các ngọn cây, nằm ở đó thành cuộn và thành dợn, tựa mãng xà phơi mình dưới nắng. Dưới tảng đá ấy, là một bức tường những hòn đá nặng cao ngất. Giữa các kẽ đá, ghé mắt nhìn sẽ thấy một vòm dài và rợp lá, vỗ nhẹ phía đằng xa đến nơi có biển cuộn dưới ánh mặt trời. Dưới thấp, những kẽ đá ấy đưa lối cho nước suối chảy ra, mà, dưới một thác nước đổ dài, trút lên những mỏm đá dốc xanh gần chân tường, vào một hồ nước sâu rợp bóng; nơi các mặt gồ ghề, vì dòng nước xoáy không ngừng, đã bị mòn thành một hình thù quái dị tựa như một đám người khổng lồ, với đầu ngập trong nước, lười nhác nghiêng về phía trũng lòng.

          Trong hồ nước này Yillah sẽ tắm. Có một lần, khi vừa ra khỏi, nàng nghe thấy những hồi thanh của một giọng nói, và lớn tiếng gọi. Nhưng tiếng đáp duy nhất là tiếng cành cây xào xạc, như thể có ai, vô hình, bỏ trốn từ thung lũng phía trên. Không lâu sau, một hòn đá lăn xuống, và Aleema thầy tế đứng trước nàng, nói rằng cái tiếng mà nàng nghe được là của ông. Nhưng nào có phải.

          Sau cùng những ngày mỏi mệt cứ càng lúc càng dài thêm, và người thiếu nữ ao ước có người bầu bạn. Khi gió ngừng thổi, ngủ ở các hang trong núi, và mọi lá trên cây đứng bất động như lệ trong mắt, Yillah buồn rầu và gọi những linh hồn trong lòng nàng thức giấc. Nàng hát những làn điệu trầm nàng nghĩ mình từng được nghe ở Oroolia; bỗng nàng giật mình hoảng sợ, như từ thâm sơn cùng cốc đáp lại với nàng những khúc nhạc còn hoang dã hơn những khúc nhạc của nàng. Và luôn luôn, khi buồn, Aleema sẽ tìm cách cổ vũ tâm hồn nàng, bằng cách gợi lên những quang cảnh tươi sáng ở Oroolia Diễm Phúc, cái nơi mà, ông khẳng định, nàng sẽ sớm được trở về, không bao giờ rời đi nữa.

          Khi ấy, trên đầu thung lũng Ardair, trên một đỉnh cao, tối, ở chóp hiện ra một nét mặt người nghiêm khốc; bóng của nó, cứ mỗi khi chiều tà lại trườn xuống sườn núi xanh: một bóng ma câm lặng, choáng khắp lòng thung lũng.

          Thi thoảng, khi cái bóng ma ấy đến gần, Aleema sẽ đưa Yillah tới, và chờ nó tiến lại, đặt nàng nằm xuống bên cái bóng, xếp hai tay nàng theo lối âu yếm; mà rằng, “Hỡi thần Apo! ngài có nhận lấy nàng dâu của ngài?” Và sau cùng, khi cái bóng trườn quá nơi ông đứng, và vùi cả thung lũng trong bóng tối thì Aleema nói, “Này Yillah trỗi dậy; thần Apo đã vươn mình ngủ ở Ardair. Con hãy đi, ngủ ở đâu tùy nghi mặc lòng; bởi lẽ con sẽ được ngủ trong vòng tay của thần Apo.”

Và thế là, cứ mỗi tối, người thiếu nữ lại được ngủ trong vòng tay của Apo nghiêm khốc.

          Có một ngày, khi một thứ mà ngày nào cũng chuyển động trước mắt nàng, ở nơi mọi sự đều bất động như chết, Yillah bắt đầu yêu cái bóng hoang dã ấy; nàng một mình bước tới để nhìn nó, lúc nó khẽ trượt xuống từ đỉnh thung. Bỗng, khi mặt nó chỉ vừa mới chạm đến một kẽ nứt, khiến nó trông như thể đang hé môi, thì người con gái nghe một tiếng nói lớn, tưởng rằng Apo đang gọi mình “Yillah! Yillah!” Thế nhưng lúc bấy giờ tiếng ấy lại có vẻ như tiếng mà nàng từng nghe lúc đang tắm ở hồ. Nhìn lên trên, nàng thấy một thanh niên đẹp mở rộng vòng tay, đang nhìn xuống nàng từ một vách đá khó tiếp cận. Nhưng hiện giờ, có một tiếng xào xạc nơi những lùm cây đằng sau, và nhanh như chớp, thứ gì đó lao vút trong không khí. Người thanh niên tiến tới. Yillah rộng tay đón chàng; nhưng chàng đã rơi xuống vách đá, và chẳng còn thấy nữa. Vừa hoảng, vừa khóc, nàng chạy khỏi cảnh tượng ấy, có ai khuất dạng chạy trước nàng xuyên rừng.

          Khi kể lại cuộc phiêu lưu này cho Aleema, ông mới bảo rằng cái điều mà nàng đã thấy chắc hẳn là một linh hồn dữ đến để quấy phá nàng, và rằng Apo đã giết chết nó.

          Hình ảnh người thanh niên này, đã đong đầy trong Yillah những niềm mong mỏi điên cuồng được thoát khỏi cái chỗ trú mình cô độc này; chỉ một thoáng được thấy ai đó ngoài ông thầy tế và cái bóng ma đã gợi nên những suy nghĩ mơ hồ về thế giới của các thụ tạo xinh đẹp, ở những vùng đất bên ngoài Ardair. Nhưng Aleema ra sức dẹp bỏ những tưởng nghĩ ấy, nói rằng ít lâu nữa thôi nàng sẽ được du hành đến Oroolia, nơi sẽ được gặp lại những linh hồn mà nàng chỉ nhớ mang máng.

          Ngay sau đó, ông đến mang cho nàng một vỏ ốc - một chiếc vỏ thuộc loại luôn văng vẳng tiếng đại dương - và áp nó vào tai nàng, bảo nàng hòa mình vào thứ sinh vật bên trong, cái vỏ ốc nhỏ ấy đã được đưa từ Oroolia đến để bầu bạn nàng ở Amma.

Người thiếu nữ thường áp nó lên tai, nhắm mắt, nghe và nghe những tiếng thở nhẹ bên trong, đến khi các hình ảnh được sinh ra từ âm thanh, và hồn nàng cứ lắng đọng hàng giờ trong ngây ngất.

          Rồi ông thầy tế lại đến, và mang cho nàng một con chim trắng sữa, mỏ nó đen nhánh, và mắt nó như những ngôi sao. “Ẩn trong này là linh hồn của một người thiếu nữ; nó đã bay từ Oroolia đến để gửi người lời chào.” Người lạ mặt mềm mại ấy sẵn lòng nép mình vào ngực nàng; hướng đôi mắt sáng của nó lên nàng, và khẽ hót.

          Nhiều ngày trôi qua; Yillah, con chim, và vỏ ốc đã trở nên không thể tách rời. Con chim dần quen hơi; mổ hạt từ miệng nàng; đậu trên vai nàng và hót vào tai nàng; đêm về thì xếp cánh vào lòng nàng, và, như một con chim biển, khẽ đi vào giấc ngủ: phập phồng trên trái tim của người thiếu nữ. Và mỗi sáng nó lại bay khỏi tổ, và vỗ cánh và kêu chiêm chiếp; và bay lượn tới lui; và vui vẻ líu lo; và dụi vào má Yillah đến khi nàng thức giấc. Rồi đến bên tay nàng: còn Yillah, thiết tha nhìn vào đôi mắt nó, thấy những khuôn mặt lạ ở đấy; và tự nhủ mình khi nàng chăm chú nhìn, “Có những hai linh hồn, chẳng phải một.”

          Nhưng rồi cuối cùng, đang khi bước vào rừng với con chim, nó bỗng bay khỏi vai nàng, đậu trên một cành cây và hất cái cổ họng trắng tơ của nó, từ đó bắn khỏi mỏ nó một tia nước trong, như một đài phun nước trong không khí. Bấy giờ, bài ca đã ngừng; thật cao và thật xa hướng về phía đỉnh thung, con chim bay mất. “Lil ơi! Lil ơi! trở lại, đừng bỏ ta, hỡi những linh hồn phúc lành của các thiếu nữ.” Nhưng con chim cứ bay mãi, tít trên một hẻm núi, vỗ cánh bay đến khi chỉ còn là một chấm nhỏ.

          Không lâu sau chuyện này, và vào buổi tối một ngày huyên náo những âm thanh chinh chiến bên ngoài bức tường thấp của thung lũng; Aleema đến bên Yillah hoảng hốt, mà rằng, “Yillah, đã đến giờ đi theo con chim của con; nào ta đi, trở về nhà con ở Oroolia.” Và ông cho nàng biết nàng sẽ du hành đến đó ra sao: qua một xoáy nước ở vịnh Tedaidee. Ngay đêm ấy, khi được che mạng và đặt vào lều, người thiếu nữ được đưa ra ngoài bờ biển, nơi có chiếc xuồng đang đợi sẵn. Nhanh chóng dong buồm, để đến sáng hôm sau thì đảo Amma đã khuất khỏi tầm mắt.

          Và đấy là cuộc du hành, mà hồi sau của nó đã được thuật lại.

CHƯƠNG LI

GIẤC MƠ DẦN PHAI

          Bị tước khỏi những mối liên hệ kỳ lạ, với những thứ mà một tâm trí như của Yillah hẳn phải tô điểm mọi biến cố cuộc đời nàng, câu chuyện về nơi ở của nàng ở Ardair hầu như không hề khó tin.

          Nhưng từ những ý nghĩ ngông cuồng mà nàng dung dưỡng đã trở nên siêu trần hóa quá mức, đến độ nàng thực sự tin mình là một thụ tạo thuộc những vùng đất của những giấc mơ. Quá khứ huyền hồ của nàng là thực tại của nàng.

          Nhưng khi chúng tôi càng lúc càng thân thiết hơn, những tưởng vọng ấy dường như đang mất chỗ đứng của chúng. Và nàng thường hay hỏi tôi về các hồi tưởng của chính tôi về hòn đảo không thực ấy. Và tôi cẩn thận cố gắng tạo ra cái ấn tượng, rằng hễ điều gì tôi từng nói về miền khí hậu ấy, thì đấy là đã được mặc khải cho tôi trong mơ; nhưng trong những giấc mơ ấy, nét mặt của nàng đã mỉm cười với tôi; thành thử mới có niềm thôi thúc đã đưa tôi lang thang đi tìm cái bản chất của hình ảnh tinh thần này.

          Và thật là đúng khi nói thế; và thật phải lẽ khi thề như vậy, trên đôi cánh tay trắng bắt chéo của nàng. Vì rằng, ôi, Yillah; chẳng phải em là biểu hiện trần thế của hình ảnh ngọt ngào, vốn đã ám ảnh những ý nghĩ ban đầu của tôi ư?

          Mới đầu nàng đã tin cuồng nhiệt, rằng thứ ái lực không tên giữa chúng tôi, là do trong dĩ vãng chúng tôi từng sống cùng nhau ở cùng một miền đất siêu trần. Nhưng những suy nghĩ như thế đã chóng tàn lụi. Song không phải là không có những xét nét lạ lùng. Nàng nhìn vào mắt tôi chăm chú hơn bao giờ hết; áp tai nàng vào tim tôi, và nghe những nhịp đập của nó. Và tình yêu, trong con mắt của đối tượng của nó vẫn luôn tìm cách điểm tô cho bản thân nó bằng những ưu thế hiếm có nào đó, tình yêu, đôi lúc xui khiến tôi phải chống đỡ cho thứ thần tính đang sụp đổ của mình; dù chính tôi đã làm nó ra suy yếu.

          Nhưng giả như có nhiều hối tiếc, trong cái nhìn của Yillah, thì tôi nhận ra bản thân mình đã oắt lại chỉ còn là một người trần mắt thịt; nhưng đúng ra là với những cảm xúc lẫn lộn, mà tôi đã suy tính sao cho cái ý niệm về sự thiêng liêng của nàng phải tiêu biến. Vì khi những suy nghĩ ấy bị đuổi mất, thì nàng càng bám chặt lấy tôi hơn, như một người mà nếu vắng bóng thì nàng sẽ thực sự đau buồn.

          Và khi ấy, đôi lúc, nàng buồn, và thường đưa mắt xa xăm và đăm đăm nhìn biển. Nàng cũng sẽ chẳng nói lý do tại sao nàng lại như vậy; cho đến khi cuối cùng nàng chịu thua; và trả lời, rằng bất kỳ những thứ dối trá Aleema đã gieo vào tâm trí nàng; mà về điều này thì nàng đoan chắc: rằng cái xoáy nước ở vịnh Tedaidee đã báo trước số phận nàng; rằng trong làn nước ấy nàng đã thấy những đôi mắt lấp lánh, và những bóng ma đang vẫy gọi, và những hình thù kỳ dị đang dọn cho nàng một chỗ nghỉ giữa đám rong rêu.

          Những giấc mơ của nàng tựa như của tôi vậy. Nhiều hình ảnh mà tôi từng nhìn thấy về cái xác xanh của ông thầy tế, đang mở rộng cánh tay của nó dưới nước, để đón lấy nàng Yillah tái nhợt, khi nàng chìm xuống biển.

          Thế nhưng các điềm triệu ấy đã đi khỏi, chẳng có niềm hạnh phúc nào trong vũ trụ này được như của chúng tôi. Chúng tôi đã sống và chúng tôi đã yêu; sự sống và tình yêu đã được kết hợp làm một; những ngày của chúng tôi lướt đi trong niềm vui sướng.

CHƯƠNG LII

KÌA ĐẤT LIỀN!

 

          Năm mặt trời đã mọc và đã lặn. Nàng Yillah hằng mong cho được nhìn thấy bờ biển; ở đằng tây chúng tôi cho thuyền mình hướng về, và sáng ngày hôm sau đất liền đã xuất hiện trong tầm mắt.

          Vô số những hòn đảo; nâng mình xanh biêng biếc qua làn gió da trời, và đưa mắt nhìn ra biển rộng, trông như những ụ rơm khô giữa cánh đồng mù sương. Cao vượt trên hết thảy, ở chính giữa, một ngọn núi hùng vĩ nhô lên; một đám mây xốp dựa trên đầu núi; một thân cột quấn vành hoa. Tít đằng xa, như những ngọn đồi tím trên nền trời khi chiều tà, trải ra thật xa, có thứ gì tựa như những dải đất liền nằm trên những dải đất liền, trong phối cảnh vô tận.

          Lướt đi tiếp, các hòn đảo dần rõ ràng hơn; nhô lên từ các ngọn sóng để gửi chúng tôi lời chào; bày ra những đồi, những thung, những đỉnh núi, quây tụ lại trong một vùng san hô trắng sữa, quá mênh mông, đến độ nhìn từ xa trông tất cả đều mờ mờ ảo ảo. Những hơi nước châu ngọc, trước còn lơ lửng trên những bờ biển tím, mà nay như đang đà gieo xuống biển những viên ngọc quý của mình; và khi các tia nắng gần như nằm ngang đường chân trời, chiếu xuyên qua không khí như một lăng kính lẫm màu, chạm xuống miền cỏ xanh, nó rùng mình khắp nơi với những hạt sương lóng lánh.

          Cứ thế chúng tôi tiến lại gần hơn: buồm của chúng tôi uể oải xịu xuống khi gió tắt dần tính từ vị trí của chúng tôi đến hải đảo. Những con sóng lả mình cuộn, như thể ý thức được rằng nhiệm vụ dài hơi của chúng đã sắp hoàn thành; trong khi rạn san hô trắng thì ánh lên, như vết của một con cá khổng lồ giữa mặt biển lặng. Song cho đến lúc này, chúng tôi vẫn chưa nhìn thấy một dấu hiệu nào của mái chèo hoặc xuồng; không một cột khói đằng xa; cũng chẳng một túp rạ sáng. Hoan hô! các bằng hữu tôi ơi, chúng ta đã tìm ra một chòm đảo[39] mới ngoài khơi.

          Yillah yêu dấu, không đến Oroolia nữa; em không thấy vùng đất đầy hoa này sao? Chúng ta sẽ chẳng còn muốn lang thang vô định nữa.

          Đi thuyền dọc khu vực ấy, chúng tôi đến một lối vào; và bỏ lại nền trời xanh biển rộng, chúng tôi dong buồm tới giữa mặt nước lặng, xanh lục của một đầm phá rộng. Được bày ra dưới những bóng lớn của các hải đảo, và nhuốm màu chỗ này chỗ kia với những sắc phản chiếu của những đám mây mặt trời, vùng nước ôn hòa trải quanh chúng tôi như một bầu trời khác. Ngay lối vào rạn san hô, là một hòn đảo nhỏ, với những cây cọ gảy hạc trong gió; một lồng chim của những âm thanh lôi cuốn, dường như đang mời gọi chúng tôi cập bờ. Và đây, Yillah, được cảnh cây cối xanh tươi làm cho vui mừng, đã đưa ra một đề xuất vui vẻ. Không gì khác, ngoài dựng cột buồm của chúng tôi, giương buồm, trên ngọn đồi cao nhất; và rồi tung cánh bay, khỏi hòn đảo và hết thảy; những cái cây đung đưa, những chú chim hót mừng, những bông hoa nhảy múa; tung bay, tung bay, băng qua biển rộng, đến Oroolia! Nhưng than ôi! mỏ neo rạn san hô của hải đảo nặng biết chừng nào, hàng lý dưới biển sâu khôn dò?

          Chúng tôi nhìn chung quanh; nhưng hết thảy các đảo tựa như đang ngủ say dưới làn ánh sáng ngập tràn.

          “Một chiếc xuồng! Một chiếc xuồng!” Samoa la lớn, khi ba chiếc thuyền proa xuất hiện đang vòng quanh một hải ngạn gần đó. Tức thì chúng tôi cho thuyền tới chỗ họ; nhưng sau khi dong buồm tới lui được một lúc, đứng dậy và nhìn chăm chăm vào chúng tôi, những người Dân Đảo đã nấp sau mũi đất. Vừa mới lẩn mất được một lúc, thì từ nhiều hải ngạn chung quanh, các thuyền proa khác đã ùa ra. Chẳng bao lâu, vùng nước chung quanh chúng tôi bỗng trở nên khoái hoạt nhờ những đoàn xuồng, lao khắp chỗ này chỗ kia như những con chim nước hoảng sợ. Ngay sau đó tất cả bọn họ đều tiến về một hòn đảo.

          Từ những hành động này mà chúng tôi suy luận rằng những người này hẳn là rất ít hoặc không hề giao thiệp với người da trắng; và khả năng cao là không biết giải thích thế nào cho sự xuất hiện của chúng tôi giữa những người này. Vì lý do ấy, mong muốn có cuộc gặp gỡ thân thiện, trước khi có bất kỳ nghi kỵ thù địch nào có thể dấy lên, chúng tôi hướng thuyền về phía đảo, đến nơi mà tất cả những chiếc xuồng mà lúc này đều vội vã hướng về. Những người còn chưa đến được nơi muốn đến, đã quay đầu và đi mất; trong khi những người trên thuyền proa đã cập bờ, thì bỏ chạy vào các lùm cây, khuất dạng.

          Băng qua đường đổ bóng hiển hiện của đảo trên mặt nước, chúng tôi đã đến được hải ngạn; và lướt dọc theo rìa của nó, băng qua từ xuồng này đến xuồng kia, đã được kéo lên bãi biển lặng như tờ, nếu không có chúng thì người ta sẽ tưởng nơi này rặt không một bóng người.

          Một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng quyết định cho Jarl và Samoa xuống thuyền, để đi tìm và xoa dịu người dân bản địa. Vậy nên, họ bước xuống một trụ san hô, từ đó mà họ vất vả tiến vào bờ; còn tôi thì cùng Yillah cho thuyền ra vùng biển bên ngoài, chờ kết quả.

          Trọn một tiếng đồng hồ hẳn đã trôi qua; chúng tôi vui mừng xiết bao, khi nghe được những tiếng hô lớn; và bỗng thấy một đám đông ồn ào náo nhiệt, mà giữa đám đông ấy ông Viking được cưỡi trên vai hai người bản địa đô con; trong khi anh Upolu, bước đi đằng trước, như đang tránh né một nỗ lực bị nâng lên cao không khác.

          Cả hai điều này đều là điềm lành.

          “Vào bờ đi!” Jarl la lớn. “Aramai[40]!” Samoa kêu lớn; trong khi những trận bão lời nói chen chúc nổi lên từ các Dân Đảo với những cử chỉ quá mức đang nhảy múa khắp bãi biển.

          Thận trọng hơn nữa xem chừng thừa thãi: tôi hướng mũi thuyền vào bờ. Ngay khi nhận ra điều này, thì một tràng vỗ tay đã dâng lên, các Dân Đảo vắt giò lên cổ chạy ra biển. Và lướt như một chú mòng biển nơi đầm phá lặng, chiếc thuyền sà lúp nhẹ lao vào giữa họ. Nhanh như chớp, năm chục bàn tay đã đặt lên mép mạn; và, cùng bao nhiêu thứ ở trên thuyền, được nhấc bổng trên không, là chiếc Dê Biển nhỏ nhắn, trên những đôi vai sũng nước, được cất sâu vào các lùm cây. Yillah thét lên vì lắc lư, và khi các cành cây cọ xát vào lều.

          Bằng gậy của mình, khi ấy một ông già chỉ vào một cặp cây như song sinh, cách nhau độ bốn bước; và một khoảng cách mặt đất một chút đã được chạc ra cho thuận tiện.

          Và ở đấy, sau đó, họ mới đặt gánh của mình xuống; nhẹ nhàng hạ chiếc Dê Biển giữa các chạc cây, có tán lá như lá liễu kết viền quanh lều và người ở trong.

 

CHƯƠNG LIII

DÊ BIỂN LÊN BỜ

 

          Cho tới lúc này, được bọc trong tấm áo choàng của nàng, và nép mình như một chú hươu non, Yillah đã được giấu kỹ khỏi mọi ánh nhìn. Nhưng ngay sau đó nàng đã ra khỏi mui thuyền.

          Những người Dân Đảo được nhìn thấy điều gì, mà khiến họ phải chiêm ngắm và sùng mộ trong im lặng quá mức: một số thì rút đi, số khác thì rón tới, và đàn bà ai nấy cũng đều xốn xang? Họ cứ nhìn mãi; và noi gương Samoa, dang tay cung kính.

          Sự tôn thờ đối với người thiếu nữ đã khiến tôi được mở mang thêm. Quả thực, từ khi có những cử chỉ lạ lùng, bấy lâu nay tôi đã thấy ngờ ngợ, rằng chúng tôi đã được đón nhận với những vinh dự hiếm có.

          Lúc này tôi tìm cách cho các đồng bạn tôi được nói đôi lời. Nhưng đám đông quá om sòm đến độ bất khả. Jarl thì vẫn ngự ở tọa vị trên cao của ông; những người khiêng nhiệt tình còn chưa chịu cho ông xuống. Còn Samoa, ấy vậy, lại là người đã lo tránh cho khỏi bị đèo trên vai, nhanh chóng liệu bước lại gần chiếc thuyền Dê Biển.

          Chàng khuyên tôi, lúc này đừng có đi xuống; vì dù có ra sao thì ở trong đó chắc chắn chúng tôi sẽ được yên thân; các Dân Đảo xem nó như là một vật thiêng liêng.

          Anh chàng Upolu thu hút rất nhiều chú ý; đa phần là từ phong cách xăm trổ của chàng, mà, cùng những đặc điểm kỳ lạ khác, đã gây chú ý cho những người bản địa quá đến mức họ cứ vây xung quanh chàng luôn mãi, hỏi những câu hỏi sấn sướt, và lúc nào cũng la lối dữ dội.

          Nhưng mặc cho nhu cầu to lớn với mấy lá phổi của chàng, Samoa cũng đã tìm cách thông báo cho tôi, rằng dẫu là dân chúng tụ tập đông đúc, nhưng tù trưởng ở đây không có, hoặc người có tầm quan trọng hiện diện; vị vua đất này, cũng như của các đảo lân cận, đều đang bận đến dự một lễ hội ở vùng khác của Quần Đảo. Nhưng ngay từ đầu khi thấy chiếc Dê Biển ngoài xa, các đội xuồng đã được cử đi báo cáo về sự kiện bất ngờ này.

          Chẳng bao lâu, khi đám đông trở nên bớt ồn ào, và không còn vây lấy Samoa nữa, tôi tranh thủ lúc sự đón tiếp này tạm lắng, và gọi chàng và ông Viking lên chiếc thuyền Dê Biển; hầu dồn sức chống lại mọi nguy biến.

          Samoa bấy giờ cho tôi hiểu, rằng mọi điều mà chàng biết, đó là những người Dân Đảo xem tôi như một thụ tạo thượng đẳng hơn. Họ đã hỏi chàng rằng, liệu tôi có phải Taji da trắng, một kiểu nửa thần tính nửa nhân tính hay chăng, mà đôi lúc là một Vị thần Giáng thế ở giữa họ, và thuộc hàng các cựu á thần bậc dưới xét về thẩm quyền. Về điều này, Samoa nói đúng thế; vả lại, còn thêm mọi điều chàng biết để khuyến khích cho cái ý tưởng ấy nữa.

          Bấy giờ chàng mới bảo tôi, ngay từ cơ hội ban đầu, tôi hãy xưng mình là Taji: tuyên bố rằng một khi nhận được danh hiệu á thần này, thì ta chắc chắn được hưởng lòng hiếu khách vô bờ bến trong buổi chiêu đãi chung; và người trong đoàn chúng ta sẽ tránh được mọi nguy hại.

          Ý này tôi thấy rất thuyết phục. Nhưng thận trọng là tốt hơn cả. Vì dù rằng giữa dân mọi rợ khi có người lạ đặt chân lên đất mình, thường được ca tụng như thần như thánh; không ít vùng đất hoang dã quả thực từng có các thần tự xưng, như là tên gọi quen thuộc; song điều này chưa hề miễn cho các đấng nhà trời ấy tránh khỏi nguy hiểm, khi quá tin tưởng vào khoản đãi rộng rãi dành cho họ. Trong những lúc náo động bất ngờ thì họ bỗng bị giết ngay tức khắc, khi niềm tin trọn vẹn vào thần tính nơi họ không hề suy suyển. Định mệnh đáng buồn của một nhà hàng hải xuất chúng là một minh chứng lẫy lừng cho sự trở mặt không thể giải thích này.

          Thành thử, lo lắng không ít, chúng tôi chờ các nhân vật quyền cao chức trọng của Mard; vì là chúng tôi được cho hay, rằng phải gọi bằng danh từ chung này, thì người ta mới nhận ra các hòn đảo của họ.

          Chúng tôi không phải đợi lâu. Bỗng, từ ngoài bờ biển, một tiếng thét chói tai vang lên. Thêm một lúc nữa, thì vang lừng vô vàn những kèn vỏ ốc đã làm khuấy động không khí; một tiếng hò hét hỗn độn càng lúc càng gần; và dồn ánh mắt của chúng tôi về phía của những âm thanh ấy, chúng tôi nôn nóng chờ điều sắp xảy đến.

 

CHƯƠNG LIV

MỘT ĐẤNG TỪ MẶT TRỜI

 

          Trước đây tôi chưa bao giờ được thấy tán lá rậm của những vùng rừng có xuồng đi qua. Thế mà chúng đã đi xuyên qua lá; hai xuồng sóng hàng được đặt trên vai mấy người đàn ông; trên mỗi xuồng là một tù trưởng, được đưa đi dọc theo cuộc diễu hành nhịp nhàng của những người khiêng xuồng trên vai, mái chèo cắp ngược bên sườn. Khi họ xuất hiện, dân chúng tỏ nhiều tôn kính. Độ chừng tám hoặc mười bước thì đoàn người dừng lại: các vua này được hạ xuống đất.

          Họ là những người đàn ông đẹp mã, ăn vận nhiều kiểu y phục. Hiếm có thay những lông vũ nhuộm màu, những trang sức cùng những món đồ điểm trang khác. Oai phong thay những tấm áo nhuộm phất phơ trong gió.

          Phong thái vương giả của các nhân vật này, sự tôn kính mà dân chúng dành cho họ và toàn bộ sự điềm tĩnh của họ chẳng mảy may khiến tôi ngạc nhiên. Thật là ngớ ngẩn khi cố gắng phô ra một vẻ cao sang thần thánh trước mặt những bậc quyền quý đích thực của cõi trần. Á thần Taji dường như tuột dần khỏi mấy đầu ngón tay tôi. Nhưng can đảm lên! và vuốt cho thẳng lông vũ trên đầu, tôi ra sức thể hiện từng li từng tí cái vai diễn mà tôi đã quyết định khoác lên mình.

          Một lúc lâu, gần như không thể đoán được các thủ lĩnh đang nhìn tôi với cảm xúc gì. Họ không thốt một lời.

          Nhưng lấy hết can đảm, tôi đặt thanh đoản kiếm lên ngực, và tay đặt lên cán, nói với các Đấng Quyền Cao Chức Trọng ấy như sau. “Hỡi dân Mardi, ta từ mặt trời mà đến. Khi sáng nay nó mọc lên và chạm đầu sóng, ta đã đẩy chiếc thuyền sà lúp của mình từ bãi biển hoàng kim và từ đó dong buồm đi trước những tia nắng ngang trời của nó. Ta là Taji.”

Tôi còn định thêm vài câu nữa, nhưng tôi đã ngừng vì tác động của đoạn mào đầu của mình.

          Lùi một hai bước, các tù trưởng hăng hái trò chuyện.

          Lấy thêm dũng khí, tôi tiếp tục tiến công, cố hết sức gieo vào họ đúng những ấn tượng mà tôi cho là đáng mong muốn. Nàng Yillah dịu hiền là một thiên thần từ mặt trời; Samoa thì tôi đã rước lên thuyền từ một rạn san hô trên đường đi từ quả cầu ấy; và còn về phần Ông Giời, phải rồi, như cái tên ông đã ngụ ý, ông từ trên ấy mà xuống. Tắt một lời, chúng tôi ai cũng là các vị thần đang trên đường du hí.

          Tiến về phía chiếc Dê Biển, một người  thuộc số các vua, một ông già trầm tĩnh, bấy giờ nói với tôi thế này: “Ngài đây có thật là Taji? Là đấng, xét theo truyền thống, sẽ trở lại cùng chúng tôi sau năm ngàn kỳ trăng? Song le hạn kỳ ấy còn chưa đến. Điều chi đã đưa ngài đến đây, hỡi Taji, trước thời điểm của ngài? Truyền thuyết có kể rằng vốn ngài chỉ là một á thần quen thói sinh sự, tự thuở ngài còn sống cùng cha ông chúng tôi. Nhưng bởi đâu mà ngài đến, hỡi Taji? Thật tình, ngài sẽ sẽ làm gián đoạn việc thờ cúng các tượng thần của chính ngài, và chẳng có ngài thì chúng tôi vẫn còn bao nhiêu thần thánh khác. Nhưng ngài đến để giao chiến? Chúng tôi có lắm giáo mác, và chẳng ham giáo mác của ngài. Ngài đến để sống ở đây? Nhà cửa đất Mardi này nhỏ bé lắm ru. Hay ngài đến để bắt cá ngoài bể? Xin cho chúng tôi biết, Taji.”

          Toàn bộ là những câu khó trả lời, đã vậy còn tạo ra tiền lệ tọc mạch trong việc đón tiếp các á thần lạ mặt khi họ trên đường du hí không bao cũng chẳng bị, đồng thời cũng cho thấy cái lối xưng hô thân tình mà những vị vương giả này dành cho các đấng bất tử. Tôi buồn bã không ít vì đã chẳng chịu chuẩn bị kỹ hơn cho vai diễn của mình, và không chịu học cho ra ngọn ngành về thân thế tiền kiếp của mình ở xứ sở này.

          Thế nhưng chẳng có gì can đảm cho bằng gánh vác nó.

          “Nghe đây. Taji đến, ông già kia, bởi lẽ ngài thích. Và Taji sẽ khởi hành khi ngài thấy thuận ý. Hãy hỏi bóng hồn tổ tiên các ngươi xem, có phải Taji từng chào đón họ một cách thô lỗ như thế, khi họ lừng lững bước vào cõi linh hồn, nơi Taji trị vì? Không hề. Taji thết tiệc. Ngài cởi áo choàng cho họ. Ngài đốt lửa để xua đi cái ủ dột. Ngài đã chẳng nói, ‘các ngươi đến để chiến đấu ư, thứ sương mù và hơi nước các ngươi? các ngươi đến để sinh sống ư? hay là các ngươi đến để bắt cá ngoài bể?’  Thôi được, vậy thì cứ thế đi, hỡi các vua xứ Mardi!!”

          Nghe vậy, ông vua già ngã ngửa; và ông được một tù trưởng sang trọng, phong thái phóng khoáng, thẳng thắn đỡ cho. Nhanh chóng tiến lại thuyền, ông kêu lên: “Ta là Media, con trai của Media. Tam bận đón mừng, Taji. Trên đảo Odo của ta có một bàn thờ kính ngài. Ta xin mời ngài đến làm khách quý nhà ta.” Thế rồi ông nhắc nhở những người còn lại rằng những người lạ đã đường xa trẩy đến và cần được nghỉ ngơi. Ông đề nghị hộ tống họ ngay tức thì về lãnh thổ của ông, nơi mà, ngày hôm sau, ông sẽ lấy làm vui mừng được tiếp đón hết thảy các vị khách quý.

          Và đúng như lời, ông ra lệnh cho thuộc hạ xếp hàng dưới chiếc Dê Biển. Nhảy khỏi mũi thuyền, người Upoluan được Jarl nối gót, để lại Yillah và Taji ngồi trong thuyền, được đưa ra khơi.

          Chẳng mấy chốc, một lần nữa chúng tôi lại lênh đênh; bên chúng tôi, Media ngồi thoải mái; sáu tay chèo của ông, ngồi trên mép mạn, cùng nhanh tay chèo đưa chúng tôi lướt qua đầm phá.

          Chuyển từ rừng cây ra biển khơi chỉ trong chớp mắt. Mọi thứ dường như là một giấc mộng.

          Nơi chúng tôi đang hướng đến còn ở xa, và khi chúng tôi vòng qua hết đảo này đến đảo khác, kích thước bao la của quần đảo hiện ra ngày một rõ rệt.

 

CHƯƠNG LV

TIỆC TRƯA TRONG ĐỀN

         

Khi gần đến Odo, bề ngoài của nó có phần khiến tôi thất vọng. Một hòn đảo nhỏ, độ nâng vừa phải.

          Nhưng ta chớ dò xét cao thấp ngôi nhà dọn tiệc đãi mình.

Trên bãi biển có mấy người bản địa xếp hàng đón khách, họ nâng Dê Biển, đưa chúng tôi vào bờ.

          Xuống đất, khi họ đang đưa chúng tôi đi cùng thì Vua Media, chỉ định một chái lá[41] gần đó, ra lệnh đem thuyền của chúng tôi đặt vào trong. Việc ấy xong xuôi, chúng tôi bước chân lên đất liền. Đây là mảnh đất đầu tiên chúng tôi giẫm lên sau rất nhiều ngày. Điều này đã truyền một sự rung động đồng cảm qua cơ thể chúng tôi.

          Trở bước vào trong nội địa, Media ra hiệu cho chúng tôi theo sau.

          Chẳng bao lâu, chúng tôi đã đến một khu vực xây theo kiểu hàng rào, được ngăn bằng một bức vách đồ sộ. Tại đây, có hiệu lệnh dừng lại, và người bản xứ liền hối hả gỡ một phần tường đá xuống. Khi đã mở lối, chúng tôi được ra hiệu bước vào pháo đài - như được giông bão đưa đến. Trên một ụ đất nhân tạo, đối diện một lỗ thủng, là một công trình nhỏ bằng tre, mở phía trước. Bên trong là một bệ dài, như một trường kỷ, đặt dưới ba bức tượng cũng bằng gỗ và cỡ ngang vóc người và cũng mang một nét giông giống loài có bản chất sống động ấy. Trước các tượng thần này là một bàn thờ, và ở dưới nền có nhiều thảm đẹp.

          Bước vào đền, như thể được thoải mái nơi nhà mình, Media bày những tấm thảm ấy để làm thành một chỗ nghỉ ngơi tử tế, nơi ông kính cẩn khẩn mời Yillah đến ngả lưng. Đoạn khoan thai cất bức tượng đầu tiên, ông ra hiệu bảo tôi an toạ vào chỗ của nó. Đặt bức tượng ở giữa sang bên, ông lặng lẽ thay nó mà ngồi vào. Những vật vô giá trị bị dời đi ấy đứng sừng sững trước mặt chúng tôi, và những khuôn mặt vô cảm của chúng nhìn vào sự kiện này với biểu cảm bất thường. Đến giờ, vẫn chưa ai nói ra một lời nào về ý nghĩa của cái lối đối xử bất kính với các vị thần bằng gỗ.

          Giờ đây, chúng tôi bình thản chờ đợi những điều kế tiếp sẽ xảy ra, và tôi thành tâm cầu nguyện rằng, nếu đây thật sự là một hành vi phạm thánh, thì xin cho cơn thịnh nộ của thần linh đừng giáng xuống kẻ vô tri như tôi - dù kẻ cầu xin đó vốn đến từ thế giới bên kia.  Không gian giữ một sự im lặng tuyệt đối: Jarl và Samoa đứng phía ngoài điện thờ; người trước trông bình tĩnh, nhưng đồng bạn của ông thì đưa những cái liếc mắt băn khoăn vào màn phong thần thân mật của tôi cùng với Media.

          Khi ấy tình cờ nhìn thấy bức tượng cuối cùng được cất đi, tôi đã chẳng mất bao lâu để phát hiện ra sự tương đồng nhất định giữa nó và vị chủ tiệc của chúng tôi. Cả hai đều được điểm trang cùng cách, nét khắc trên tượng tuyệt đối khớp với vết xăm của ông vua.

          Ngay sau đó, sự yên lặng bị phá vỡ bởi tiếng động phía ngoài: một quản gia bước tới, lảo đảo dưới sức nặng của một mâm gỗ khổng lồ mà, với tư thế cúi rạp, ông đặt lên bàn thờ trước mặt chúng tôi. Cái khay ấy được chất đầy như xe mùa gặt, chồng chất bao nhiêu là hoa trái đủ loại: nào mít bột, nào dừa, nào chuối táo quạ, nào ổi; và hết thảy đều ngon mắt, và hứa hẹn một sự ngon miệng sánh ngang.

          Khi được bày trước mắt những của ăn này, sau một thời gian dài xa cách với niềm thỏa mãn trọn vẹn những món xanh tươi, ngay lập tức tôi cứ tự nhiên mà lấy thức ăn cho Yillah và cho mình, tới khi, như chớp, một câu hỏi không mời mà đến giáng lên tôi. Các vị thần có ăn uống không? Và trở lại trong trí tôi cái điều Media đã tuyên bố về miếu thờ của tôi ở Odo. Liệu đây có phải nó chăng? Tự phạm thánh á thần cái thằng tôi đây, có phải tôi có sắp phàm ăn tục uống chính những lễ vật ấy, được đặt trước mặt tôi nơi đền thiêng miếu thánh của chính mình? Ý tứ đến cách ăn nết ở của mi, ôi Taji, kẻo mi sẩy chân và sai lối.

          Nhưng ngay đấy, chúng tôi đã thấy gì, ngoài vẻ uy nghiêm dửng dưng của thần Odo đang lặng lẽ khởi sự dùng bữa trong đền?

          Bây giờ thì sao? Có phải cả Media cũng là một vị thần? Thần Egad, chắc là vậy rồi. Nếu không phải thì tại sao tượng của ông lại ở nơi đền miếu này, và vị thần nguyên bản thì hoàn toàn ung dung, với đôi chân cỡ đại thu vào thoải mái bên dưới chính cái bàn thờ ấy. Điều này đánh bay hết thảy lo lắng kinh hãi của tôi về việc cần phải nhịn đói để giữ cho được cái vỏ thần thánh. Thành thử chẳng phải bày vẽ chi thêm, tôi cứ thế mà tự nhiên cả hai tay, cùng chăm sóc Yillah cho chu đáo, người đã bồi dưỡng nét đẹp ửng hồng của nàng bằng những trái ngon mọng nước, theo đó mà truyền lên đôi má nàng hương ổi ngọt bừng.

          Chúng tôi đã khuây cơn đói, và Media ra hiệu bằng cách giơ tay ở tầm ngang bụng, rồi chúng tôi chuẩn bị rời khỏi khuôn viên. Nhưng khi đến bức vách có lỗ thủng thì kìa, chẳng còn thấy lỗ thủng nữa. Nhưng rồi tường lại sụp xuống lần nữa, và thế là chúng tôi bước ra ngoài.

          Xin được nói thêm: việc phá sập tường như thế là một cử chỉ kính trọng dành cho các nhân vật tôn quý trong vùng này của Mardi. Nó dường muốn tỏ rằng một ông quý phái dường này hễ đi đến đâu là tạo ra ấn tượng đến đó, thậm chí trên cả những chất liệu cứng nhất.

          Nhưng ta trở lại với bữa trưa mỹ vị.

          Cứ việc lý tưởng hoá, tuỳ bạn, cái ý niệm rằng chúng ta là các thụ tạo thuần trí tuệ; nhưng không người nào biết suy nghĩ mà lại không việc ăn uống có thể mang lại niềm thỏa mãn to lớn. Hơn nữa, trong bữa ăn chắc bụng có cả hương vị của sự sống và bất tử. Như bong bóng, chúng ta cũng chỉ là những chiếc vỏ rỗng nếu không được làm đầy.

          Biết rõ điều này, tự nhiên đã cung cấp cho chúng ta cái mâm tròn phơi phới ấy, địa cầu của chúng ta, trong cuộc xoay vần bất tận những đợt và những vụ, đãi một bữa đại tiệc mãi không vơi. Dẫu vậy, cũng như hầu hết những yến tiệc chung, khách dự tiệc không hề ít, và lắm kẻ đã chết đói vì thịnh soạn.

 

CHƯƠNG LVI

VUA MEDIA GIA CHỦ

 

          Đi vào rừng cây, độ chiều tà chúng tôi đã ở giữa một không gian dễ chịu, quang đãng và thấy một nơi dân cư đông đúc trong rừng.

          Ở chính giữa hết thảy, như một rạp vải thống soái giữa các lều, là một công trình đồ sộ hơn hết số còn lại. Đây là nơi ở của Vua Media.

          Phân bố chung quanh một khu vực chừng năm chục thước vuông là nhiều thân cọ được cắm chặt trong đất. Cỡ chiều cao của một người tính từ đất lên, những cột ấy đỡ cho vô số thân cây nằm ngang, trên đó đặt một sàn cây râm bụt. Cao vượt bục này nhưng nằm trên những cột chống biệt lập bên trên là một mái có đầu dốc cách đất một khoảng ngắn.

          Nơi ấy chính là cung điện.

          Chúng tôi bước vào qua một lối vào hình vòm, rợp bóng cây, nằm ở một đầu mái lá cọ của công trình. Nhưng các Dân Đảo không đi qua lối vào đặc biệt ấy; hạ mình khom lưng, họ tìm lối vào dưới mái hiên rũ. Một tập quán đã có từ xưa và đã được trù liệu kỹ càng hầu nhắc nhở tất cả những thần dân ngoan cố về sự tôn nghiêm của nơi mà họ đang bước vào.

          Ba bậc đưa đến đỉnh bục, nơi những chồng thảm mềm và những chiếc gối dệt cỏ rất nhẹ, được nhồi bằng những lông tơ vàng của cây kế dại đang mời gọi những kẻ thích chậm rãi tìm đến ngả lưng.

          Ánh hoàng hôn ùa vào dưới mái hiên thấp, chỗ chúng tôi đang ngồi phía trên, mới thật dễ chịu làm sao. Và lúc này thiết kế của mái hiện ra thật rõ ràng. Chẳng có bóng râm nào đầy cảm kích và trọn vẹn hơn; chẳng bóng râm nào êm dịu và hoàn toàn hơn thế; ánh mặt trời chói chang bị chặn lại bên ngoài, như một tên hầu kiên nhẫn đợi lệnh bên thềm.

          Nhưng ai ở góc kia, đang há hốc miệng nhìn chúng tôi như một lão bộc lâm vào thế bí? Vị thần giữ nhà của Media, đội lốt một con quái vật dư đầy, cái đầu to tướng của nó ngửa ra sau, và cái mồm rộng há hốc nhét đầy những trái cây tươi và lá xanh. Quả thật, giả như tượng thần này có một linh hồn bên dưới mấy chiếc xương sườn nhiều mấu của nó thì thật trêu ngươi làm sao khi có một cái miệng hiển hách mà không có khả năng nuốt. Còn tệ hơn cả chứng khít hàm vô phương cử động, thứ không cho thực hiện công đoạn sửa soạn hầu nuốt cho trôi.

          Cái bức tượng Thổ Công ngồ ngộ ấy là một loại thần linh bậc thấp, vị thần của Vui Mừng, và thường thì sau đó, chúng tôi thấy cái miệng tròn vui vẻ ấy tại nhiều nơi khác ở Mardi. Ngày ngày, mấy cái hàm của nó được người ta làm cho đầy lên, như một bình hoa vào mùa hè.

          Nhưng liệu á thần Media có chấp nhận một vị thần bậc thấp mãi như vậy chăng? Liệu ông có tỏ lòng tôn kính nó? Nhưng thần thoại vùng Mardi ta sẽ bàn sau, qua đó làm sáng tỏ cái điều có vẻ bất thường vào lúc này.

           Lịch thiệp đưa chúng tôi vào cung điện, Media làm tròn vai chủ nhà bằng cách mời các vị khách ngả lưng nghỉ ngơi. Đoạn ông có vẻ rất rất sốt sắng muốn khiến chúng tôi hiểu rằng khi đưa chúng tôi về nhà ông, và từ đó mà chia phần tủ thức ăn hoàng gia để bồi dưỡng cho chúng tôi, ông đã chẳng đi một nước hấp tấp hay khinh suất nào. Các lão bộc vui vẻ của ông cứ chất đồ ăn quanh chúng tôi, đến khi chúng tôi gần như bị xây tường bít kín. Cứ mỗi mâm nóng hổi dọn ra, Media lại chỉ cho chúng tôi thấy, như một bằng chứng nữa cho sự dồi dào và hào sảng của chủ nhân. Màn chứng minh cuối cùng là kéo vào dưới mái hiên cả một cây chuối đã đốn, với buồng quả đỏ mọng tua tủa, mặt mày đỏ ửng vì xấu hổ khi bị giới thiệu thô bạo như vậy trước những người khách lạ.

          Đang hoàn cảnh ấy, Jarl lén lút hích vào Samoa, lấy làm thắc mắc, muốn biết toàn bộ chuyện này nghĩa là gì. Nhưng Samoa, hiếm khi nào hạ cố đến mấy câu hỏi đưa ra nơi khuỷu tay, chỉ lộ ra một hoặc hai ám chỉ mơ hồ mà thôi.

          Việc ấy cũng khá buồn cười, kiểu bộ tịch của Samoa tỏ ra lúc bấy giờ, ít ra là hướng về ông Viking. Còn với những người Mardi thì chàng thoải mái như đang ở nhà. Và khi ở đấy, ai lại chẳng duỗi chân và tự nhủ rằng, “Kẻ nào lớn hơn ta?”

          Nói thẳng ra: chuyện giữa chàng và Ông Giời là một thế cờ đã lật. Ngoài biển, Jarl từng là nhà tiên tri: một bậc hiền triết hàng hải, thông thái về cần sa và cần lái. Nhưng khi chiếc thuyền của chúng tôi được cao ráo thì anh Upolu đã ở tột đỉnh vinh quang của mình với vai trò là người ngoại giáo uyên bác, bậc thầy của Gog và Magoc[42], người cắt nghĩa mọi thứ bên ngoài văn minh và thuộc về bóng tối.

          Một hai giờ lúc này đã trôi qua trong cuộc chuyện trò rất ý vị với Media, cho đến khi tôi ngỏ ý rằng một chỗ nghỉ ngơi yên tĩnh sẽ rất được hoan nghênh. Lập tức ông cầm lấy một ngọn đèn sáp, đưa chúng tôi rời cung điện. Dẫn vào một dinh thự rộng rãi và chưa có người ở, Media cho tôi hiểu rằng nơi ấy giờ thuộc về tôi. Trèo lên bệ cao, ông tiến hành một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng, để biết chắc liệu mọi thứ đã đâu ra đó hay chưa. Có điều gì đó không vừa ý với mấy tấm thảm, ông cuộn chúng lại thành bó, rồi từng cái từng cái một bay vào đầu các gia nhân, những kẻ, nhận được ám hiệu nhẹ nhàng ấy, liền mang chúng đi và chẳng mấy chốc trở lại với những tấm thảm mới toanh. Những tấm thảm này được Media đích thân trải lên bục với độ chính xác toán học, quan sát kỹ càng những mép hoặc nếp xếp trên viền thảm, như thể ra sức truyền cho chúng một biểu đạt tình cảm.

          Việc ấy xong xuôi thì ông đi ra.

 

CHƯƠNG LVII

TAJI TỰ NHỦ

 

          Cuộc giao thiệp ngắn ngủi với gia chủ của chúng tôi, đến thời điểm này đã đủ để tôi hình dung khá rõ về cách ông ta, cũng như những thần dân thông minh hơn của ông, nhìn nhận tôi.

          Phong tư phóng khoáng và ung dung của ông đã cho thấy rằng, dù chấp nhận vai trò á thần của tôi, ông không hề vì thế mà kính nể sợ sệt; quả vậy, ông đã đối xử với tôi không chút khách sáo, như thể tôi chỉ là một người phàm không hơn không kém, như nấm mọc sau mưa.

          Cảnh tượng trong đền, tuy vậy, đã giải thích rất nhiều về cách xử sự ấy của ông. Chính ông cũng là một á thần, mấy lời xưng nhận về phẩm giá tương đương của tôi đã chẳng làm cho ông giật mình kinh ngạc, cũng chẳng làm suy suyển lòng tự trọng của ông.

          Còn đối với bất kỳ điều gì xa lạ về phần tôi và sự thiếu hiểu biết về tập quán Mardi của tôi: toàn bộ chuyện này, thay vì gây ra mối nghi ngờ bất lợi, lại củng cố niềm tin về chúng. Trước đây đã có nhiều trường hợp tương tự, nhưng ở một phạm vi lớn hơn. Một nhà hàng hải nổi tiếng có nhắc đến trong chương trước, đã được người Hawaii tôn sùng như một á thần, đã trở lại trái đất sau một chuyến du hành vũ trụ. Và họ đã tôn thờ ông như thế, dẫu ông cứ luôn miệng hỏi họ xem mình là ai dưới ánh mặt trời này mà được thờ phụng như vậy; tổ tiên họ đến hòn đảo này ra sao; và liệu họ có thể tử tế cung cấp cho thuộc hạ của ông một lượng thịt heo dồi dào trong thời gian ông lưu lại hay không.

          Nhưng cũng xin góp một hai lời bàn về các tượng thần trong đền ở đảo Odo.Bên cạnh sự tôn kính dành cho Media với tư cách một vương giả thế tục, nơi đây người ta còn thờ phụng ông như một thực thể linh thiêng. Khi ông vắng mặt về thể xác, tượng của ông sẽ nhận mọi lễ vật dâng tiến. Và khi còn trẻ, được nghe về những truyền thuyết trong pho thần thoại Mardi, Media đã nảy sinh một niềm yêu thích mãnh liệt với Taji phi thường: vị thần mà ông thường tuyên bố là xứng đáng được một hốc tượng trong mỗi đền thờ hiện có. Thành thử ông đã dành một chỗ nơi miếu thờ đặc biệt của chính ông để tôn thờ bức tượng tôi, đặt nó sát bên tạc vật thờ phượng ông.

          Tôi cảm kích lời ca tụng. Nhưng được ở đó thân mật bầu bạn với bức tượng kia, tôi thật lòng lấy làm hổ thẹn lắm. Và tôi có lý do của mình. Và có lý do chính đáng: cái của nợ kia là tượng của một tay làm bánh chuối nay đã được phong thần, mới qua đời không lâu; người mà, khắp Quần Đảo, một nhân vật lừng danh khắp quần đảo vì tài nghệ trong nghề. Khi còn sống dưới trần, hắn từng phục vụ trong gia thất của Media, và vị chủ nhân biết ơn kia sau này đã thấy hợp lẽ khi tưởng thưởng cho hắn danh hiệu tối hậu này - một điều đáng buồn thay lại làm giảm hẳn phẩm giá của việc được phong thần. Ở đây ta cũng không được quên rằng trong vùng này của Mardi, các nghệ nhân ẩm thực được xem là những người đáng được trọng đãi. Bởi lẽ với người dân Odo, chuyện ăn uống được xem như chuyện sống chết. “Cứ việc kéo nữ hoàng khỏi vòng tay ta,” Tyty xưa đã nói khi đánh bại Adomma, “nhưng giữ lại đầu bếp cho ta.”

          Tuy vậy, giữa xứ sở Mardian này tôi cũng không đến nỗi đơn độc trong việc mang hình hài một vị thần. Đa phần các vua ở Quần Đảo, ngoài Media, cũng tuyên bố rằng họ đáng tôn thờ như là các á thần, và điều đó được bảo chứng bởi huyết thống: tia sáng thần linh có thể truyền từ cha sang con. Để minh họa, có thể kể đến việc người dân ở nhiều nơi đã gọi thánh thần tối cao Oro bằng chính những danh xưng họ vốn dùng để ca tụng các bậc quân vương trần thế.

          Phải, có những vị thần ở Mardi còn lớn hơn và cao hơn tôi: ngoài những bậc quân chủ hoàng gia đúng nghĩa, sống trong những lều thánh tròn tròn hay hay bằng đất sét nâu hay hay; và hội hè, và chè chén, và ra oai trong những lều thánh vàng bằng tre trúc. Những á thần ấy có đủ phương tiện để duy trì địa vị siêu phàm của mình. Khi cần, có thể nghiền nát tận gốc rễ lòng ngờ vực của bất kỳ kẻ nào dám không quy thuận. Và bằng sự hiệp nhất không tì vết của giáo hội và nhà nước, chúa và vua, các Cæsar tối cao đã đích thân cai trị linh hồn lẫn thể xác của thần dân họ.

          So với những đấng quyền thế hùng mạnh này, tôi và thần tính của tôi đã co lại chỉ còn không không. Trong các tiền sảnh vùng rừng của họ, các thần hạ đẳng được giữ lại chơi la cà. Xin cho hay rằng, có lúc chúng tôi gặp vài á thần đã mục ruỗng, vỡ nát:  những nhân vật từng một thời lẫy lừng, nay chẳng còn đền thờ nào để chiêu đãi người ái mộ hay tín đồ mộ đạo. Họ lang thang khắp nơi trong cô độc và không bạn không bè. Nhiều khi trong cơn tuyệt vọng vì chẳng có lấy một bữa ăn, họ đâm ra tham ăn tàn bạo, và chỉ mong béo lên nhờ gặm nhấm vẻ huy hoàng gia phả. Nhưng thật đáng thương! Họ chẳng khác nào đám quý tộc xứ Scotland rách rưới ở London thời vua James: đông đảo đến nỗi khiến mọi sự phân biệt đều thành vô nghĩa. Mà không có sổ địa tô để chứng minh sản nghiệp, họ chỉ còn biết than thở trong vô vọng.

          Xét cho cùng, các vị thần sống và thở ở Mardi đông đến mức khiến tôi chẳng còn mấy coi trọng thần tính của mình. Và được thấy một vị gia chủ thuộc hàng bất tử như vậy, và được nghe về vô số những vị khác, hoàn toàn thần thánh về bản chất, ám các khu rừng và suối nước, quan điểm thần học của tôi trở nên rối bời lạ thường; tôi bắt đầu nghĩ về người Do Thái đã bác bỏ sách Talmud, và nguyên tắc thấm nhuần rộng khắp của ông, mà Goethe và những người khác đã tán thành.

Thế là, thay vì tiếp tục kinh ngạc trước sự táo tợn của chính mình khi tìm cách tự nhận là một vị thần - chuyện ban đầu đã gây ấn tượng cho tôi, giờ đây tôi nhận ra rằng tôi có thể làm một vị thần tùy ý, thoải mái mà chẳng cần lo sẽ có ai vì thế mà kính sợ tôi hay ít nhất là vì riêng lý do đó mà nhảy dựng lên như cái đuôi sư tử bị kéo.

          Còn về sự đón tiếp của Media, sự niềm nở ấy không hoàn toàn xuất phát từ việc ông ta tin tôi là thần. Thần tính của ông, ông cũng xem như cùng một trật. Điều khiến ông yêu thích tôi là do một cơn hứng bất chợt, một nét thất thường trong tâm tính khiến ông xem tôi như một trong nhiều kẻ đồng đẳng, chứ không phải một đấng không ai sánh kịp.

          Song điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả sự thờ ơ của vua Media đối với thần tính của tôi, chính là thái độ thản nhiên không chút xúc động trước chuyến hành trình kỳ vĩ của tôi từ mặt trời; sự thờ ơ với chính mặt trời; và với tất cả những điều kỳ diệu hẳn phải gắn liền với cuộc rời bỏ ấy. Không biết có phải ông đã từng ở đấy nên mới hờ hững quá mức đối với một chuyến du hành từ mặt trời hay chăng, điều này gần như đã trở thành một câu hỏi trong trí tôi. Hiển nhiên, ông không cho tôi là một hiện tượng gì ghê gớm, nếu chỉ xem tôi là một du khách.

Sự sửng sốt của tôi lại càng tăng khi nhớ rằng với dân chúng quần đảo này, bản đồ Mardi chính là bản đồ toàn thế giới. Trừ một vài đảo khuất tầm mắt và ở một khoảng cách không xác định, họ chẳng biết gì cụ thể về bất kỳ hòn đảo nào ngoài các hòn đảo của mình.

          Và chẳng bao lâu sau, tôi lại có thêm lý do để ngưng thắc mắc vì sao câu chuyện của tôi lại được họ tin dễ dàng đến vậy. Bởi người Mardian đã quá quen với những điều kỳ lạ còn lớn lao hơn cả chuyện tôi kể; họ thật sự tin vào những phép lạ đủ loại. Chỉ cần một trong số đó thôi cũng đủ khiến những kỳ tích của tôi phải ngượng.

          Vậy thì coi chừng thái độ của mi, Taji ơi, tôi nghĩ bụng, cũng đừng có mà trèo cao quá. Đã hẳn, mi có nhiều người ngang hàng với mình hơn những kẻ thấp kém. Chung quanh mi ai ai cũng vượt trội cả. Giữ mình cho thận trọng và đừng có ra bề kiêu căng, Taji ơi. Mi mà lên mặt thì sẽ chẳng được ai cứu vớt. Tránh mọi bóng gió hợm mình về thế giới bên kia và các vị thần quý tộc mà mi từng cùng giao du. Áo quần của mi chớ có chưng diện lòe loẹt chỉ vì nó mới lạ ở Mardi; cũng đừng có khoe khoang về tốc độ chiếc Dê Biển của mi chỉ vì nó chẳng giống một chiếc xuồng. Chớ khoác lác về dòng dõi mi, Taji ơi; vì chính Media sẽ cùng mi đo phả hệ dài cả sải đường. Chớ có “trưởng giả học làm sang”, Taji ơi.

          Thế là, khi cân nhắc mọi việc cho kỹ lưỡng và bản thân tôi cho nghiêm khắc, tôi đã quyết nghe theo lời khuyên khôn ngoan của Cố Vấn, không nhận càn bất kì điều gì, cũng chẳng ăn bớt những khoản chính đáng mà giao thiệp thoải mái, hòa đồng, thẳng thắn giữa các vị thần, anh hùng, thượng tế, vua chúa và các đức ông, những người đã tạo nên hàng quyền lực thần thiêng của Mardi.

 

CHƯƠNG LVIII

MARDI BAN ĐÊM VÀ YILLAH BAN NGÀY

 

          Đêm hôm sau khi chúng tôi đến, hẳn đã có nhiều giấc mơ được mộng thấy tại Odo. Nhưng tôi thì trằn trọc thao thức. Và khi tất cả những người khác còn ngủ, tuân theo một sự thúc đẩy không yên, tôi đã lẻn ra ngoài ngồi dưới ánh sao huyền diệu. Có những kẻ, khi ở nơi đất lạ, chỉ thích ngắm nhìn nó vào ban đêm.

          Người ta kể rằng, khoảng trống giữa những rặng cây nơi thành phố của Media tọa lạc vốn cao hơn những đồng bằng xung quanh. Cho nên ở đó ta có thể bao quát được một phạm vi rộng lớn.

          Khắp nơi là tiếng nghỉ ngơi thổn thức sâu lắng của con người và tự nhiên. Các rừng cây bất động; và trên các cánh đồng, như những quỷ lùn, là những bóng tối tiến đến và rút đi. Trọn vẹn trước mắt tôi trải ra những hạm đội đảo Mardi, thả neo sâu dưới cảng san hô của chúng. Gần đó là một đảo, viền quanh bởi rạn san hô sủi bọt ánh sáng, nằm yên như Sao Thổ giữa các vành của nó.

          Từ mọi đỉnh của chúng, một làn khói trắng sữa bốc lên, như phát ra từ các lều Ấn Độ dưới ánh trăng trung thu mờ ảo. Và trôi đi, những làn hơi ấy quyện với màn sương mỏng,  tựa hơi nước từ một thác lớn vẫn lơ lửng trên lớp rạn san hô bao quanh. Ở xa hơn hết, tận cùng đêm, cuộn trào đại dương đen tuyền.

          Thế mà đầm phá rộng, phản chiếu những đốm cháy trên trời ấy mới yên tĩnh làm sao! Tia sáng nghiêng của sao Hôm đâm sâu vào tận đáy lòng của nó, như một mũi chùy ánh sáng xuyên thấu đến tận những mỏ Golconda huyền bí, nơi dường như có muôn vàn yêu tinh đang miệt mài đào bới. Bỗng chốc một cơn gió nhẹ gợn mặt nước, và trục sáng ấy chẳng còn thấy nữa. Nhưng lằn rẽ nước sáng của mặt trăng vẫn còn đó: một vệt bạc, nhón bước trên mọi đỉnh sóng trong đường đi của nó, đến khi mỗi đỉnh tựa như một con ốc anh vũ mũi nhọn cuộn ánh ngọc trai, nổi trên mặt nước cùng một đoàn yêu tinh nào đó.

          Từ dưới đất lên tận trời! Cao phía trên tôi là lùm cây tối của Đêm với Dải Ngân Hà vắt ngang như dây leo, trĩu nặng những chùm quả hoàng kim. Ôi những vì sao! ôi những ánh mắt đã nhìn thấy tôi bất kể tôi có rong ruổi nơi đâu: mãi luôn yên bình, chăm chú, bí hiểm, hỡi các Sybil hãy cho tôi biết, tôi là ai. Những thế giới phi thường phía trên những thế giới! Ô kìa, khắp quanh tôi, những bùa mê lấp lánh và ghê gớm: tất cả những chòm sao rực rỡ, vinh quang, các bạn là vương miện của Chúa! Nhờ các bạn, hỡi những vì sao, con người mới có được những khoái cảm vi tế nhất, những ý nghĩ không thể diễn đạt thành lời mà lại chan chứa niềm tin.

          Nhưng vẻ sáng ngời êm dịu của các bạn châm chích con tim nặng chứng báo điềm biết bao. Có phải ta là một kẻ giết người, hỡi các vì sao?

          Hàng giờ trôi qua. Cơn ngây ngất sao trời đã tan. Đợi đã lâu, bình minh lúc này ló dạng.

          Ban đầu, rạng dọc trên khuôn mặt đang thức, hé nhìn từ những mí mắt mê man, thế rồi tỏ lộ trong những ánh mắt nán lại lâu hơn, tới chừng, cũng như mặt trời, tinh thần trỗi dậy, và tỏa các tia sáng của nó khắp nơi.

          Cứ như thế Yillah của tôi rạng lên mỗi ngày, nàng làm cả thế giới của tôi rực rỡ lên; nhuộm hồng hơn nữa những cụm mây đã đượm hồng, lả lướt trên đôi gò má mùa hè của nàng, như mây bay trong vòm trời Ý.

         

CHƯƠNG LIX

BỮA SÁNG CỦA HỌ

 

          Không phải thế giới của ta chỉ toàn là những ngôi sao sáng và những đôi mắt sáng: vậy nên hãy quay lại câu chuyện của chúng ta.

          Một gia chủ chu đáo phải luôn thức dậy đúng giờ, hầu chăm sóc cho các vị khách quý của mình và đảm bảo rằng ngày mới của họ bắt đầu thật thuận lợi. Vua Media thông báo về sự xuất hiện của mặt trời bằng cách đích thân sột soạt trên mái hiên chòi lá của tôi.

          Bữa ăn đã được dọn ra dưới giàn cây kế bên, mà các gia đồng của Media đã dọn cho phẳng phiu để đón tiếp chúng tôi,  và các viên thủ lĩnh dưới trướng ông cũng đã có mặt. Nơi đây chúng tôi ngả mình trên những tấm thảm. Không khí ban mai dịu và mát; những làn sương vàng trên núi, dải lụa bạc trải trên cỏ và những chú chim đang đọc kinh sáng trong lùm cây - lông vũ sặc sỡ của chúng chớp nháy trong tầm mắt, chỗ này chỗ kia, như thể một cầu vồng nào đó đang núp mình trong tán lá.

          Bày ra trước mắt chúng tôi là những món ăn, được dọn trong những trái bầu nhuộm màu lạ mắt, hình dạng ngồ ngộ, không phải đồ sứ Pháp nhưng không hề kém thẩm mỹ; và cũng như đồ sứ thật, chúng đã được nung qua lửa. Khi còn xanh và mềm, người ta hái chúng từ trên cây rồi khoét bỏ ruột, rạch những nét bé chi li như nét chạm trổ. Mặt nền đã được chuẩn bị, các hình khác nhau được khắc tỉ mỉ. Và các đường viền được lấp đầy bằng những lỗ tinh tế, một số loại dầu thực vật nhất định được rót lên chúng, nhằm mục đích tạo màu. Được nhét đầy một loại đất đặc biệt, trái bầu ấy lúc này được đặt trong một lò nung dưới đất. Và đến khi nung xong thì được đào lên, trút những món bên trong ra rồi rửa sạch dưới suối, nó có một lớp vỏ nhuộm đậm, mỗi hình đều được vạch rõ và khó hiểu, nền thì trong mờ. Ở một số trường hợp, do được dùng nhiều loại chất nhuộm, mỗi hình là một màu riêng.

          Những cốc còn oách hơn cả những cốc uống rượu vang. Sức chứa lớn như be rượu, chúng hầu như thay thế cho các bình gạn.

          Giữa xứ nhiệt đới, trái cây cùng chút rượu nhẹ là bữa sáng lý tưởng. Và với những vườn ăn trái và vườn nho trong tầm mắt, kẻ nào - trừ tù trưởng Hetman dân Cossacs - có thể muốn hơn? Chúng tôi có thừa nước nho lên men. Nhưng chuyện ấy xin để sau - vẫn còn nhiều hầm rượu lâu năm và vô vàn tiệc vui đang chờ đón.

          Trong suốt bữa ăn, Media đã để ý đến y phục của chúng tôi lắm. Ông nài tôi xem xét chất vải tấm áo choàng chuẩn hoàng gia của ông chút đỉnh để thấy nó cao cấp hơn vải của tôi đến cỡ nào. Quả thật áo tôi phải tủi thẹn: áo của ông có những hình trang trí hiếm thấy bằng sắc đỏ và đen tinh tế, viền bằng lông chim nhuộm, và đính những tua rua bằng móng vuốt đỏ của loài chim nhỏ.

          Sau đó đến chiếc mũ Guayaquil của Ông Giời; hình dạng kỳ cục của nó khiến chủ nhà chúng tôi phá lên cười nhạo; rồi ngài đội một quả bầu lớn hình nón lên đầu một thị vệ, bảo rằng bây giờ hắn là Jarl rồi. Về điều này, cùng hết thảy những câu nói đùa tương tự, Samoa chắc chắn đã cười ầm lên không ai bằng, dẫu chuyện cười đùa không thuộc tạng người của chàng. Có lẽ chàng thấy hả hê vì cuối cùng cũng có cơ hội đem sự chế nhạo từng đổ lên mình - một kẻ mọi giữa người da trắng - mà quật lại chúng tôi.

          Những màn pha trò này kết thúc, Vua Media lấy lại vẻ đứng đắn, như thể để bù cho sự suồng sã trước đó. Ông đàm luận như vương đế với các tù trưởng của mình, gật đầu ra hiệu thiên ý với các gia đồng, gọi thêm một bầu rượu khác, trong mọi mặt đều mang cái vẻ vương quyền hùng dũng.

          Bữa ăn kết thúc, chúng tôi đi đến chái lá, nơi chúng tôi thấy chiếc thuyền Dê Biển nhỏ bé trong chuồng như một con chiến mã. Một cuộc cướp bóc đã xảy ra. Các mạn và đáy của nó đã trụi mất sạch những con hàu xanh nhỏ nhắn và cả tảo biển, mà như đỉa, đã từng bám chặt các ván thuyền của chúng tôi suốt hải trình dài hơi, biếng nhác.

          Người dân ở đây đã ăn sạch chúng như món cao lương mỹ vị.

 

CHƯƠNG LX

BELSHAZZAR NGỰ TOÀ THƯỢNG THẨM

 

          Media là vua Odo. Và vì sự giản dị trong cung cách của ông cho đến lúc này, lẫn thái độ thoải mái, thẳng thắn với chúng tôi, giả sử chúng tôi mà có dại dột nghi ngờ điều ấy, thì chẳng hoài nghi nào trụ nổi với bằng chứng sống động của nó, mà chính hôm nay chúng tôi được chứng kiến lúc ban trưa.

          Khi mặt trời đứng bóng, Media thường có thói quen khoác lên phẩm giá của ông bằng những biểu tượng chính quyền; và ngồi trên đi văng hoặc toà phán quyết, để nghe và xét xử mọi kiện tụng được dâng lên cho ông, cùng ban bố các pháp lệnh hoàng gia của ông.

          Đi văng ấy được nâng cao ở một đầu của một vòm lá rộng rãi, tạo thành từ một lối đi giữa những hàng cọ uy nghiêm, trong tư thế khảng khái, giữ trên cao tán cọ oai vệ của chúng.

          Vương miện của quốc vương hải đảo thuộc phong cách Đông Phương nguyên thuỷ; về hình dáng, có lẽ, tương đồng với các vương miện được thoải mái chưng diện như mũ săn của Vua Nimrod oai nghiêm thiêng liêng, người đã mau mắn chạy theo bầy chó săn của ngài. Đó là một chiếc khăn quấn đầu bằng vải bện tappa đỏ, xòe ra là những chiếc xương Cá Đuối nhọn, trắng, bóng. Những chiếc xương này rẽ ra từ một dải hoặc băng ngọc trai quý; được mang lên từ biển nhờ những nam nhân ngư chuyên lặn sâu nhất của Mardi. Từ giữa vương miện một mũi giáo ba lá dựng lên. Và một quyền trượng mũi giáo cho bàn tay phải của vua thêm trang trọng.

          Khi ấy, so với hết thảy lời huênh hoang của các nhà dân chủ của các bạn, thì một vị vua đẹp là một cảnh tượng rất đẹp để ngắm nhìn. Ông trông rất giống một vị thần. Chẳng trách sao các thần dân ngoan ngoãn của ông đã thề thốt quá đỗi, rằng vị chúa tể và chủ nhân tài giỏi của họ Vua Media là một á thần.

          Một vị vua trên ngai! A, tin tôi đi, quý vị Gracchi, quý vị Acephali, quý vị Leveler, chắc chắn, đây là một điều đáng xem; dẫu có được chiêm ngưỡng tại Babylon thành Vĩ Đại, khi vua Nebuchadnezzar lên ngôi; hoặc điện Scone xưa vào thời Macbeth; hoặc thành Rheims, giữa các Oriflamme, tại lễ đăng quang của Louis Đại Đế; hoặc Tu viện Westminster, khi vua George hào hiệp cở bỏ bộ lông hải ly đội lấy vương miện; hoặc dưới bóng cọ nhẹ nhàng trên một hải đảo ngoài khơi.

          Người cai trị trên người, người quỳ lạy trước người, là một cảnh tượng mà thiên thần Gabriel chắc sẽ du hành đến đây để chiêm ngưỡng; bởi ngài chưa bao giờ chiêm ngưỡng nó trên trời. Thế mà vua Darius ra luật cho dân Mê-đi và Ba Tư, hoặc nhà chinh phục xứ Bactria cùng gánh ngựa vua buộc vào cỗ xe ông, nhất định chẳng cao trọng cho bằng Beau Brummel phong nhã rung chuông gọi hầu.

          Một vị vua trên ngai! Chính là thần Jupiter gật đầu ra hiệu nơi hội nghị Olympus; chính là Satan, được nhận ra giữa những mũ miện dưới Địa Ngục.

          Một vị vua trên ngai! Chính là mặt trời trên đầu núi; mặt trời trên đỉnh Sinai ban bố lề luật; mặt trời của hệ chúng ta: các hành tinh, như công tước, tham dự vũ hội, và các chư hầu nam tước chờ lệnh.

          Một vị vua trên ngai! Suy cho cùng, chỉ là một quý ông tọa vị.

          Và vị chúa tể của chúng ta đã ngự trên toà như thế, đức Vua Media.

          Thời gian trôi qua. Và sau khi phân xử và bác bỏ những vụ nhỏ nhặt, Media đã gọi một số nhân chứng để làm chứng một án liên quan đến một Jiromo nọ, kẻ dại dột, đã ngu ngốc mưu phản vị quốc vương khi ấy còn đang ngồi xét xử và bồi thẩm hắn.

          Tội trạng của hắn đã rõ ràng. Khi đã nghe xong lời khai của các nhân chứng, từ một bó cọ dừa Media rút một lá, đặt vào tay một tùy phái hoặc phò tá, mà rằng, “Đây dành cho Jiromo, nơi hắn bị tống ngục; với lời khen tặng của nhà vua; rằng chúng ta ở đây chờ cái đầu của hắn.”

          Nó bị vứt bỏ như chiếc khăn xếp trước một thống chế Dey[43], rồi ngay sau đó được mang trở lại.

          Lúc này là đến mấy kẻ hầu mặt hóp, nghèo rách, cho nên trông thật ám muội, đang lầm bầm, lẻm bẻm và hiền như Gấu Nâu. Bọn họ đến và lảm nhảm về một số ẩn ngữ đẩu đâu về “tường thành,” “vách ngăn,” “đê quai,” “bảo hộ,” “hiến chương quý tộc,” “khiên,” “hộ mệnh,” “quyền tập ấm vĩ đại và vinh quang,” và mấy thứ lắp bắp vô nghĩa khác.

          Trong số các phò tá, có một số nhân vật xin hội kiến Media.

          “Đến, quỳ trước ngai,” là câu trả lời.

          “Xương bánh chè của chúng tôi bị nhức vì đau dây thần kinh toạ,” là lời đáp thấp khớp.

          “Một thứ mưu mẹo để các ông khỏi phải quỳ,” các phò tá nói.

          Và tiến lại họ chào salam, và xin Media tha qua cho mấy kẻ hầu mặt mũi hãm tài này. Thấy vậy chúa tể ra lệnh cho họ quỳ xuống bằng xương chày ngay lập tức, hoặc là trước nhà vua hoặc là trước đao phủ, bất cứ ai tùy ý họ.

          Họ ưa vế trước hơn. Vậy khi quỳ xuống, những người thính tai (vốn rất đông ở triều đình) đã uổng công vểnh tai lên, hầu nghe cho được những tiếng răng rắc kỳ lạ, khai hoả từ những đạn xương và hốc xương, vốn luôn xảy ra khi các triều thần bị thấp khớp quỳ gối.

          Thế rồi, thành một hàng, cũng chính những xương bánh chè ấy đã quỳ trước vua; người đã đưa mắt nhìn họ như những chim đại bàng trên trời đưa mắt nhìn những ngỗng con trên những đống phân; hoặc như những thợ săn, với chó săn đang khom lưng quanh những con thú non.

          “Lời cầu xin của ngươi?” Media nói.

          Đó là một kiến nghị, rằng sau này mọi khác biệt giữa người với người ở Odo, lẫn tất cả những xúc phạm viện ra để chống lại nhà nước, nên được mười hai người lương thiện xét xử và chấp thuận. Mười hai người này phải không khó chịu với bên hoặc các bên liên quan; các bằng hữu của họ; và trước đây không thiên vị khi đề cập đến vấn đề đang bàn. Thêm nữa, rằng bắt buộc phải có sự nhất trí giữa mười hai người để đưa ra phán quyết; và không dọn bữa tối cho đến khi nào họ nhất trí được với nhau.

          Vua Media khinh miệt cười một tràng thật lớn thật lâu.

          “Thẩm phán của các ngươi đấy,” ông kêu lên, lắc lư quyền trượng. “Gì cơ! Mười hai người thông thái thì thông thái hơn một? hay mười hai tên ngốc, hợp lại, thành một nhà thông thái? Mười hai người chân thực được chân thực hơn một? hay mười hai kẻ bịp sẽ bớt bợm hơn một? Và nếu, trong số mười hai, có ba khôn, ba dại, và ba thông thái, ba bịp bợm, và ba ngay thẳng, thì từ đấy làm sao đạt được nhất trí thật đây?

          “Nhưng nếu mười hai thẩm phán tốt hơn một, thì một ngàn hai trăm sẽ tốt hơn mười hai. Nhưng cứ lấy cả quần chúng là một thẩm phán, và các ngươi sẽ phải chờ rất lâu mới có được một lời phán quyết.

          “Nếu về một điều đáng ngờ, mà trong quan điểm trái ngược của một người đã khó mà nhất trí, thì làm sao có được nhất trí trong sự náo động của mười hai cái đầu rối trí? Dù cũng nhiều nhất trí trong mười hai chiếc bụng đói meo.

          “Các thẩm phám không khó chịu với bị cáo! Áp dụng nó vào một vụ hình sự xem. Ha! ha! nếu lỡ đâu một Cadi nọ không được chấp thuận, vì hắn đã thấy bị cáo phạm tội đang xét xử. Thì, đầu óc hắn sẽ thiên lệch: ở hắn sẽ không có sự công bằng! Hoặc người bị cáo bẳn tính của các ngươi biết đâu không ưa một người khác, vì cái mũi khoằm, hoặc con mắt lác hung ác thì sao.

          “Đúng là đần độn nhất trong mớ ý tưởng điên rồi! Các ngươi hãy bởi ta mà biết, rằng bạn bè đích thực chẳng đưa ra phán quyết đích thực. Jiromo là một tên nổi loạn. Nếu ta có xét xử hắn bằng bạn bè của hắn, thì ta đã xét xử hắn bằng những tên nổi loạn; và kẻ nổi loạn đã nổi loạn vì một mục đích nào đấy.

          “Cút đi! Vì công lý chính xác thì ở trong một thể hợp nhất, và vào thời sau hết một vị thẩm phán sẽ phán xét thế giới trước mọi khiếu nại; vậy thì — dẫu rằng công lý thường khó đạt được ở dưới thế gian này — nhưng con người cũng đã đến gần mục tiêu nhất, khi con người bắt chước gương mẫu thần thánh ấy. Cho nên, một thẩm phán tốt hơn mười hai thẩm phán.”

         “Và vì Công Lý, xét theo lý tưởng, thì luôn được phác họa cho trội trên đám đông; thế nên, bởi quyền cao của cấp bậc của mình, một vị vua chân chính là vị thẩm phán tốt nhất trong số những thẩm phán độc nhất ấy, tức là một cá nhân tốt hơn mười hai người. Và cho nên ta đây, Vua Media, là thẩm phán tốt nhất ở đất này.

         “Hỡi các thần dân! Chừng nào ta còn sống, một mình ta sẽ cai trị các ngươi và xét xử các ngươi. Và dù ngươi ở đây quỳ gối trước ta đến khi đã nằm dưới đất, và mọc rẽ ở đó, thì lời kiến nghị ấy sẽ không đươc chấp thuận từ ngai này. Ta là vua: các ngươi là nô lệ. Ta là để ra lệnh: các ngươi là để phục tùng. Và giờ đây ta ban sắc lệnh, rằng  từ rày về sau không được lắp bắp vô nghĩa về tường thành và vách ngăn trên đất này nữa. Vì một tường thành và một vách ngăn chết, để ngăn dấy loạn, là thứ mà ta sẽ giáng lên nó, kẻ nào chỉ cần cần thở ra những lời kềnh càng ấy một lần nữa. Thì này! Giáo mác! canh chừng những xương bánh chè ấy ở đây quỳ đến khi mặt trời lặn.

         Khi ấy đã quá trưa; và tháo vương miện, và đặt nó lên bục để những kẻ đang quỳ mà nhìn suốt cuộc sùng bái của họ, Vua Media rời khỏi nơi ấy, và một lần nữa lại trở thành vị gia chủ dễ thương.

CHƯƠNG LXI

MỘT NGƯỜI GIẤU MẶT

         Suốt thời gian còn lại của ngày hôm ấy, cùng vài ngày sau, chúng tôi cứ luôn nhận được những thăm viếng từ các đảo lân cận; những nơi có dân cư đi thành các hạm đội và tiểu đoàn tụ tập quanh Odo để được diện kiến các vị khách quý của vua đảo ấy. Trong số họ có nhiều sứ giả từ các vua đảo lân cận gửi đến những bài diễn văn cảm tình lẫn quà cáp.

         Song không cần phải kể chi tiết các cuộc gặp mặt đủ kiểu, hoặc thuật lại theo các hình thức khác nhau, mà những người lạ mặt hoàng gia ấy đã biểu hiện mối quan tâm của họ đối với chúng tôi.

         Tuy nhiên, vào ngày thứ ba, nhận thấy một nhân vật bí ẩn, như những người giấu mặt bí ẩn vô tình bắt gặp, khi đang băng qua bóng tháp Quảng trường Yến anh Lima. Nó khoác tấm áo choàng tappa tối màu, phủ và xếp chùng khắp chân tay; và với một tay, che mặt, chỉ để lộ mỗi một con mắt. Thế mà con mắt ấy là cả nhân hoàn. Lúc thì nó dán mắt vào Yillah bằng một cái nhìn hiểm ác, lúc thì vào tôi, nhưng mới một biểu đạt khác. Mặc cho dân chúng có đông có cỡ nào, mặc cho có huyên náo cỡ nào, thì con mắt khôn dò ấy vẫn cứ chằm chằm nhìn; đến khi nó dường như không còn là mắt nữa, nhưng là một linh hồn, cứ nhòm nhỏ vào tâm hồn tôi luôn mãi. Thường thì tôi gắng tiếp cận nó, nhưng nó tránh tôi, rồi chẳng mấy chốc lại xuất hiện.

         Chỉ cho Media cái sự hiện hình ấy, tôi khẩn nài ông tìm cách đuổi nó đi, để những ngờ vực của tôi có lẽ sẽ được xua tan vì nó chẳng có hình có dạng. Ông đáp, với nhã ý, rằng các vị ẩn danh thì thiêng liêng lắm đấy. Đến độ tấm áo choàng xếp kín và vải trùm cũng được người ta canh giữ cẩn thận như một toà lâu đài. Cuối cùng, thật là nhẹ nhõm, bóng ma ấy đã biến mất, và chẳng còn thấy nữa.

         Chúng tôi được vinh dự đón nhận rất nhiều và rất nồng nhiệt những lời mời ghé thăm. Nhưng tạm thời chúng tôi từ chối; bởi muốn xây dựng bản thân chúng tôi trong lòng Media cho thật vững chãi hơn, bởi đâu thể tránh được những lúc thăng lúc trầm mỗi khi đi đây đi đó. Có một người bạn trung tín thì vẫn an toàn hơn ở giữa một đám người quen.

         Bấy giờ, khi những phép xã giao ấy đã xong, và vào sáng ngày thứ tư từ hôm chúng tôi đến đây, có ba thiếu nữ mắt đen đến đổ bộ ngoài bãi biển, tóc họ nâu đen, vận những tấm áo choàng dài chấm phá nhiều màu, cùng những bông hoa tươi tắn trên đầu.

         Cùng những phép chào salam, những người lạ này được một nô bộc tóc bạc của Media dẫn tới chúng tôi, ông này cúi đầu cáo lui, lầm bầm, “Từ Nữ Hoàng Hautia,” rồi đi khỏi. Bất ngờ, tôi đứng lặng, và chào đón họ.

         Người đầu tiên, cười rất nhiều và nịnh hót rất nhiều, vẫy trước mặt tôi một đoá Diên Vĩ nhiều màu: đoá hoa cờ phấp phới cùng những đuôi nheo. Tiến gần, người thứ nhì đoạn trình ra ba đóa Anh Thảo Chiều ánh hồng gân tím, sương vẫn còn bám trên chúng. Người thứ ba đặt vào tay tôi một nụ Mười Giờ; rồi đến một nhành Ô Đầu.[44]

         “Xin cảm ơn thiện ý của các nàng! giờ đây các nàng có nhắn nhủ gì?”

         Giật mình vì màn đón tiếp này, đã có dụng ý khéo léo, họ bàn bạc một lúc; khi người cầm đoá Diên Vĩ nói với một giọng dịu ngọt, “Chúng tôi từ Hautia đến, nơi có nụ Mười Giờ ngài cầm.”

         “Vậy xin gửi lời đa tạ đến Hautia; nụ hoa thơm lắm.”

         Rồi nàng chỉ vào nhành Ô Đầu.

         “Đóa này cũng ngọt ngào; xin cảm ơn Hautia vì những đóa hoa. Làm ơn, mang đến thêm cho ta.”

         “Người này chế giễu bà chủ chúng ta,” và lướt khỏi tôi, họ vẫy những đóa hoa Phỉ[45], để tôi lại một mình và băn khoăn.

         Kể cho Media về cảnh tượng ấy, ông cười; tuôn ra những ám chỉ lạ lùng về Hautia; nhưng chẳng biết ý của bà ta là gì.

         Ban đầu cái sự tình ấy khiến cho tôi không ít khó chịu, cùng với rất nhiều ngạc nhiên; nhưng trong niềm sung sướng mới lạ về cuộc dừng chân mới mẻ của chúng tôi ở đảo Odo, điều này đã sớm lướt khỏi tâm trí tôi; cũng như trong một khoảng thời gian, tôi đã chẳng nghe tin gì về Nữ Hoàng Hautia nữa.

 

CHƯƠNG LXII

TAJI RÚT KHỎI THẾ SỰ

 

         Sau một thời gian, khi những người lạ mặt không còn lũ lượt kéo đến như trước, tôi xin phép vị gia chủ của chúng tôi, làm một cuộc dạo chơi trên lãnh thổ của ông; mong muốn được ngắm nhìn toàn bộ lãnh thổ, và bị ngấm ngầm xui khiến bởi niềm hy vọng sẽ tìm được một chỗ ở vừa ý với cái gu khó chiều, hơn là chỗ đã được cắt đặt sẵn cho tôi.

         Cuộc dạo chơi — một cuộc dạo chơi khoan khoái quả là — đã dấy lên trong tôi ý muốn rời Odo. Nhưng không phải là đi thật xa; mà là đâu độ chừng mười hay mười hai thước, đến một nhúm cù lao xanh nho nhỏ; một trong số những cù lao, nằm tản mác, chung quanh đảo, làm tổ như tổ chim trên những nhánh của rừng san hô, với rễ bám chắc xuống nền biển sâu. Giữa những cù lao ấy và bờ biển, trải ra những dải đá ngầm, cùng những bãi cạn bên trên, vừa đủ để thả nổi một chiếc xuồng. Một trong số cù lao ấy có nhiều cây gỗ và thân leo; một buồng cây ngoài biển. Và được Media cho phép, tôi quyết định sống tại đây.

         Chẳng mất bao lâu để Media chiều theo ý tôi; và cũng chẳng bao lâu trước khi chỗ ở của tôi được sẵn sàng. Bện vào với nhau, những cành cây xoắn được lợp rất chắc. Và bốn bề cũng được lợp với những lá dứa dại đỏ thẫm; những lưỡi giáo dài, chia nhánh của chúng bị gió thổi bốc lên, khiến cả nơi này phừng phừng như những ngọn lửa cháy. Các cây thân đốt, đặt nằm trên các thân cọ dừa, làm thành sàn nhà. Thật là dẻo dai! Khắp Odo đâu đâu cũng có, giữa hàng tù trưởng, nó truyền cho con người cái vẻ oai hùng, đến độ ta có thể bảo, nhờ đấy mà tạo ra cái khí cốt phong nhã quý tộc trứ danh.

         Bệnh tưởng! mà cố làm sàn cho đàn hồi! Nó sẽ cho bạn nhún nhảy thật dễ chịu và êm ái, như thể xóc nảy, và tống khứ mấy tâm trạng tù đọng đang phủ lấy vũng hồ tâm hồn bạn.

         Đó là nơi tôi ở. Nhưng tôi đã không nhắc gì đến những món phụ tùng nhỏ nhặt lặt vặt trong việc nội trợ vùng nhiệt đới: những bầu những bí, những sọ dừa, và những cuộn vải tappa đẹp; để rồi cuối cùng được cùng Yillah ngồi dưới buồng cây của mình, tôi nhìn khắp chung quanh, và chẳng muốn gì sất.

         Nhưng còn Jarl và Samoa thì sao? Tại sao ông lão Jarl lại thấy cần phải bày vẽ kiểu cọ giống tôi làm gì. Như một gã độc thân trong buồng kín, ông sống ổn định ngay đối diện nhà tôi, trên đảo chính, trong một túp lều nhỏ trong rừng.

         Còn Samoa, chẳng bắt chước ông bạn mình, chàng vẫn nán lại trong trại của người Khết và người Giơ-vút ở Odo. Lôi kéo thời giờ rỗi rãi của người ta bằng những câu chuyện kỳ lạ: còn, trái tim thiếu nữ bằng những mồi chài kỳ lạ.

         Khi thích, tôi hoàn toàn được yên tĩnh trong buồng cây của mình; nhờ Media ra nghiêm lệnh cấm người qua kẻ lại tuỳ tiện. Thế mà cứ mỗi ngày ba lần lại có một ông già hay líu lo mang đến cho tôi đồ ăn của uống.

         Tuy được sống ẩn dật như thế, nhưng tôi không thể hoàn toàn tránh được những nhòm nhỏ của người dân các đảo lân cận; những người này thường tạt ngang qua cù lao, chậm rãi đưa chèo, và chăm chăm để ý đến chỗ ở của tôi. Nhưng vì họ đi xuồng cách một khoảng xa, và không bao giờ dám đổ bộ vào, nên sự qua lại hàn hữu của họ tuy có gây phiền phức cho tôi song chẳng đáng là bao. Nhưng đôi khi vào một buổi tối, khi những bóng dày đặc và lướt nhanh đổ xuống, ta sẽ lờ mờ trông thấy một chiếc xuồng; đang lượn quanh nơi tôi ở như một hồn ma. Và có lần, trong màn đêm yên tĩnh, nghe thấy tiếng mũi xuồng gợn sóng rất gần, tôi lao tới, nhưng cái bóng ma đã nhanh chóng đi mất.

         Vào đêm hôm ấy, Yillah vừa ngủ vừa rùng mình. “Xoáy nước,” nàng lẩm bẩm, “những tảo biển êm dịu.” Rồi sáng hôm sau nàng lạc trong những mơ mẩn, ngắt những đóa lan dạ hương trầm ngâm, hoặc nhìn chăm chú về nơi đầm phá.

 

CHƯƠNG LXIII

ODO VÀ CHÚA TỂ CỦA NÓ

 

         Giờ là lúc để đi sâu vào mô tả hòn đảo này và chúa tể của nó.

         Bắt đầu với Media: là một quý ông ga lăng và là một vị vua. Ông xuất thân từ một dòng dõi đẹp tướng. Trong gia phả vô tận của ông, thần thánh xét hàng thập phân, các vua vô số, cùng các anh hùng, tù trưởng, thầy tế đông đảo. Mà ông cũng không phải đích thân đi tạo ấn tượng sai lầm về nguồn gốc của mình. Ông không phải là hậu duệ xa xôi của người lùn, là kẻ thấp hèn nhất trong dòng giống đang đà suy thoái. Ông đứng như một cây cọ; quanh đầu cột lá ô rô chẳng rũ xuống tao nhã những mái tóc mềm, cho bằng những lọn tóc trên vầng trán cao quý của Media. Tay ông khỏe để vung dùi, hoặc để ném lao; và thật uy lực, tôi thiết nghĩ, quanh vòng eo người thiếu nữ.

         Vậy là bấy nhiêu điều về Media. Giờ ta bàn đến đảo của ông.

         Cuộc dạo chơi khoan khoái của chúng tôi đã cho thấy bản thân nó là một thế giới tròn, nhỏ nhắn; đầy vẻ đẹp như một khu vườn; chìm trong những vườn cây mê hoặc; được tưới tắm bởi những dòng suối chảy khắp; và được phủ lá luống cọ viền quanh, có rễ hút dinh dưỡng từ nước. Và tuy rằng có rất nhiều ở các khu vực khác thuộc Quần Đảo, thế nhưng ở Odo lại chẳng có lấy một trái mít bột nào. Một chi tiết đáng chú ý, ta có thể thấy ở những vùng này, nơi các đảo nằm san sát nhau, thế mà lại quá khác nhau về thổ nhưỡng, đến độ, có một số loại trái cây thì phát triển tốt ở đảo này, và xa lạ ở đảo kia. Nhưng đảo Odo trứ danh vì những trái ổi, mang hương vị sánh ngang một đôi môi mới hôn; và cũng trứ danh vì những trái nho, mà cốt nho của nó đã khiến cho bao nhiêu người cười và bao nhiêu người khóc.

         Ngoài khu vực đông dân nơi Media ở, còn có những cụm dân cư khác ở Odo. Tầng lớp cao hơn đang sống, tản mác, trong các hộ gia đình riêng biệt; nhưng họ không phải là các ẩn sĩ. Một số vùi mình giữa lòng những lùm cây râm mát, rung rinh trong gió. Số khác, thích ở một nơi gần biển, sống bất di bất dịch ngoài bờ cát trong những chiếc lồng tre nhỏ; để khi sáng ngày họ đã ùa ra với những tiếng kêu vui tươi, và đằm mình vào bồn nước mát lạnh, với mép bồn bọt sóng là ngưỡng cửa nhà họ. Số khác nữa thì như những chú chim, làm tổ giữa những góc rừng trong nội địa được dựng trên cao; để mọi thứ bên dưới, và xanh mờ, bạc nhược trải dốc trái tim đập rộn ràng của đảo.

         Các tù trưởng và các nhân vật lỗi lạc vui vẻ ấy đã sinh sống như thế. Còn các dân thường, gồm các nông nô, và các Helots, các nô lệ chiến tranh tù đày, sống ở những nơi kín đáo, khó tìm. Một nơi mà, với người ngoài, toàn bộ hải đảo trông vô tư và xinh đẹp. Nhưng sâu trong các hẻm núi và khe đá, các thụ tạo ấy sống trong các hang động hôi thối, trong hang thú, chứ chẳng phải nhà người; hoặc họ xây cho mình những cái chuồng từ cành cây mục — bởi họ cấm không được bén mảng đến những cây còn tươi tốt — mà khúc ruột mốc của chúng chứa đầy sâu bọ. Lo lắng sẽ bị mắc một loại ôn dịch nào đó, xuất phát từ cái nơi dơ dáy này, nên các tù trưởng ở Odo hiếm khi đi qua con đường ấy; và đi tham quan trong những nơi ở xanh tươi của họ, rồi rót rượu, và hái quả từ những rừng cây ăn trái tốt nhất, tự hỏi làm sao bọn người bẩn thỉu ấy lại có thể chui rúc trong bùn nhơ, và trưng ra mấy bộ mặt vàng bủng như thế. Nhưng họ có khi nào đem tổ ấm đến cho người khác bao giờ; họ có bao giờ ra sức mà kéo người ta khỏi chỗ bùn nhơ ấy; họ chẳng rộng cửa mở vườn cây ăn trái; cũng chẳng can ngăn những lệnh phán đám người làm thân trâu ngựa này vào chỗ đang sống mà như đã chết rồi. Đúng là thảm cảnh! để thấy những Helots vai rộng, còng lưng trong các hầm: do con người đào nên, nhóm ba, và đồng tâm: hầu như bao quanh đảo này. Và ở trong đấy, được nuôi bằng thứ đất mùn nhớp, và đọng sương tự nhiên bởi trời, và bởi mồ hôi đắng của con người, mà những củ Khoai Môn bổ dưỡng ấy phát triển rất mạnh.

         Lao động nhọc nhằn là định phận con người; nhọc nhằn đầu óc, hay nhọc nhằn đôi tay, hay nỗi thống khổ còn lớn hơn cả, nỗi thống khổ và tội ăn không ngồi rồi. Nhưng một khi con người làm việc vất vả và thí mạng mình cho các chủ nhân nắm giữ mạng sống của họ — thì, thì, tâm hồn gào lên, và từng gân máu vỡ toác. Những nông nô tội nghiệp này cũng vậy. Và chẳng mấy ai trong số họ lựa chọn khác ngoài tỏ ra là những kẻ thú tính.

         Giờ đây ta cần nói, liệu Odo không phải là vùng đất của niềm sung sướng thuần khiết, và dồi dào không vơi? — Odo, trong nơi ẩn náu của nó những đứa con chối bầu sữa mẹ, chẳng có nguồn dưỡng chất nào bởi đấy chảy ra. — Odo, trong những rừng cây tối tăm, ám ảnh thâm sâu, khi băng ngang qua thì bạn nghe những tiếng kêu thảm thiết nhất, và những giọng nguyền rủa Media. Ở đó, con người bị roi vọt; tội của họ, là tội dị giáo; tội dị giáo ấy, là Media chẳng phải á thần. Vì điều này mà họ thét lên. Trước đây cha ông họ đã từng thét lên; cha ông họ, những người, bị tra tấn, đã nói rằng, “Chúng tôi lấy làm hạnh phúc được kêu rên, để con cái của con cái chúng tôi sẽ được vui mừng.” Thế mà con cái của con cái họ đã kêu gào. Nhưng, cả những người này, cũng vọng lại tiếng các thế hệ trước, và lớn giọng thề nguyền, “Cái hố đào cho chúng tôi sẽ cho thấy nấm mồ kẻ khác.”

         Nhưng ta hãy cho qua toàn bộ chuyện này. Để nhìn ngắm, và để rong chơi khắp nơi nghỉ ngơi, Odo có vẻ là một vùng đất hạnh phúc. Những cây cọ vẫy chào — dẫu rải rác đâu đó bạn nhận thấy một cây khô héo và tê dại; những đóa hoa bừng nở — dẫu những đóa đã chết thì héo tàn thối rữa; những ngọn sóng chạy dọc bờ biển trong vui sướng — dẫu khi sóng rút, đôi khi chúng để lại những xương xẩu lẫn với vỏ sò.

         Nhưng ngoài những điều này ra, khắp đảo chẳng thấy dấu hiệu nào của cái chết. Liệu người ở Odo đã sống từ ngàn đời? Liệu suối nước Ponce de Leon đã từng ở đấy? Bởi lẽ khắp đảo, bạn chẳng thấy những hàng ngũ nấm mồ, chẳng thế hệ nào bị gặt ngã nơi luống cày. Ở Odo, chẳng một quan thái thú lòng chai dạ đá nào lại nằm ngủ dưới một văn một chí cao quý; chẳng có lời cầu requiescat-in-pace[46] nào chế nhạo một tội nhân bị đoạ đày; chẳng một memento-mori[47] nào khuyên răn người ta sống khi họ còn có thể. Nơi đây Cái Chết giấu đi đầu lâu của nó; và đem giấu dưới biển, mộ phần chung ở Odo. Chẳng phải bụi đất trởi về với bụi đất, mà bụi đất trở về với biển khơi; chẳng phải xe tang mà là xuồng đưa linh cữu. Vì hễ ai chết trên đảo này đều được đưa ra rạn san hô bên ngoài, và ở đó mà được chôn cùng cha ông của cha ông họ. Thành thử mới có ý nghĩ, rằng vào những đêm giông tố, khi chung quanh các hải đảo, cao vút trên trời, là khối mây và bọt của rạn san hô trắng ấy, rằng đó đây, cứ ríu rít trông và trực, cho hàng vạn những người đã lấp mộ dưới biển khơi.

         Nhưng tại sao lại có những lễ tang chìm dưới nước ấy?

         Odo chỉ là một hải đảo nhỏ, và người sống phải nhường chỗ cho người chết, và thuộc địa nhỏ nhoi của Sự Sống bị những vị gia chủ khốc liệt của Cái Chết trục xuất; như các bộ lạc hung dữ Tamerlane lan khắp các đồng cỏ cắm lều của người Khan?

         Và giờ đây, điều tiếp theo, những người Dân Đảo nói rằng: “Sao lại gieo sự mục nát vào mảnh đất mang lại sự sống cho chúng tôi? Chúng tôi chẳng muốn hái nho của mình trên những nấm mồ. Đất này là một bình hoa, chứ chẳng phải bình tro.”

         Họ nói rằng Oro, đấng tối cao, đã dựng một nghĩa trang ngoài biển.

         Và còn nấm mồ nào vinh quanh hơn? Liệu Mausolo được chôn cất trác tuyệt hơn? Hay những ngọn đèn nơi nhà nguyện đã cháy trước lăng Charlemagne, tỏ ra tráng lệ, hơn hết thảy những vì sao, đã sáng rực phía trên người thủy thủ đắm tàu?

         Nhưng thôi không nói chuyện chết chóc nữa; con người nhún vai, và chẳng yêu người đồng bạn của mình; dẫu chẳng mấy chốc nữa đây tất cả chúng ta rồi cũng sẽ là bạn bè với họ.

 

CHƯƠNG LXIV

YILLAH MỘT CÁI BÓNG

 

         Có lúc chúng tôi đã từng hạnh phúc ở Odo: Yillah và tôi sống trên hòn đảo nhỏ của mình. Viên ngọc trai trên ngực nàng cũng chẳng ửng hồng hơn đôi hoa hồng trên má; tuy có khi chúng lụi tàn và đi mất; và ánh nhìn của nàng mang vẻ tái nhợt chết chóc khi nàng lầm bầm về xoáy nước và đám tảo biển. Tái nhợt tựa như linh hồn tôi khi nghĩ về thầy tế Aleema.

         Nhưng ngày qua ngày, câu thần chú của nàng đã kết quanh tôi cái phép thuật của nó, và hết thảy những gì ẩn khuất nơi con người nàng càng lúc càng trở nên xinh đẹp và lạ lùng hơn. Liệu tôi có gần gũi với một linh hồn chăng? Tôi vẫn thường nghĩ rằng Thiên Đường đã đến với tôi nơi thế gian này, và rằng Yillah đích thực là một thiên thần, và thế nên mới có những bí ẩn đã thánh hóa nàng.

         Nhưng những niềm vui của chúng tôi mới thoáng qua làm sao. Giông tố theo sau hừng đông rực rỡ. — Những kỷ niệm dài của những cảnh tượng phù vân, những ý nghĩ bi thương của những giờ vui sướng — mi thật chung cho toàn thể nhân loại. Khi hạnh phúc, chúng ta có ngừng lại và nói — "Ô kìa, diễm phúc người, tâm hồn ta?” Không hề: hạnh phúc ít khi tỏ ra là hạnh phúc, trừ phi nhìn lại từ những tai ương. Một phong cảnh đầy hoa, bạn phải bước ra, để chiêm ngưỡng.

         Từng giờ trôi nhanh, rồi từng ngày, một khoảnh khắc ngắn ngủi niềm vui sướng của chúng ta. Buồng tiên nơi đầm phá đẹp, cảnh tượng của rừng cây nhàn hạ và trái tim thư thái, — Ôi, Yillah, Yillah! Mọi khu rừng lặp lại âm thanh, cái hoang, rừng hoang nơi tâm hồn hoang của tôi. Yillah! Yillah! Những tiếng nói xa lạ nho nhỏ, kêu lên, trong tôi, và đời đời, và thật xa thật sâu, chúng vọng mãi.

         Ngày ngày trôi. Khi một sáng nọ tôi thấy gian nhà không một bóng người. Đi mất rồi! Một giấc mơ. Tôi nhắm mắt, và sẽ mơ lại được nàng. Nhưng vô ích. Bật dậy, tôi gọi tên nàng; nhưng chẳng có tiếng đáp. Vội đi khỏi cù lao, tôi đến được hải ngạn gần đó, và tìm nàng trong rừng; và hợp những người bạn của tôi, cầu xin họ giúp cho. Nhưng tất cả đều vô hiệu. Chẳng thấy gì, ngoài cây và hoa. Thế rồi chúng tôi tìm đến Media; cho ông biết chuyện; và ngay lập tức, ông đã tập hợp hàng đoàn người để truy tìm khắp đảo.

         Trời đã về trưa; nhưng Yillah vẫn chưa thấy. Rồi Media đoan chắc rằng Yillah không còn ở Odo nữa. Nàng đã đi đâu, và bằng cách nào, ông chẳng biết; cũng chẳng thể nghĩ ra được.

         Trong tình thế ấy, bỗng có vài sứ giả từ bên ngoài đến; những người mà, cho rằng mọi thứ đều ổn với Taji, đã đến để nhắc lời mời thé thăm các vùng chung quanh. Giữa những người này, có các sứ giả của Nữ Hoàng Hautia, với lá cờ Diên Vĩ của họ, và lần nữa cùng mang theo hoa. Nhưng họ đến rồi đi mà không ai hay biết.

         Lên đường trở về, những phái viên ấy được vô số người hầu của Media hộ tống, được gửi đi đến các đảo lân cận, hầu tìm nàng Yillah mất tích. Nhưng đã ba ngày, và, từng người một, tất cả họ đều trở về; và đứng trước mặt tôi không nói được gì.

         Có lúc tôi mê sảng. Rồi có khi, rơi vào trạng thái lặng thinh bên ngoài, sống trong tâm trạng và mê mẩn, với đôi mắt không biết nhắm, một ánh nhìn mãi xa xăm.

         Họ gắng đánh thức tôi. Các cô gái nhảy múa và ca hát; và người ta kể cho tôi nghe các câu chuyện thần tiên; về những tiểu yêu kỳ quái, những thanh niên bị mê hoặc; về những khu rừng và những khu vườn dưới biển khơi. Song tôi vẫn chẳng nhúc nhích, nghe mọi thứ, nhưng chẳng để ý gì sất. Media kêu lên, “Xấu hổ thay, hỡi Taji; ngài đây, một vị thần đấy chăng?” rồi đặt một cây giáo vào bàn tay bạc nhược của tôi. Jarl lớn tiếng gọi tôi tỉnh giấc. Samoa thì kinh ngạc.

         Ngày ngày vẫn trôi nhanh. Và dần dà, trí nhớ tôi hồi phục. Các suy nghĩ về những gì đã ập lên tôi như những cuộn sóng dồi về một bãi biển đã lâu trơ trọc. Một luồng, một sùi những hồi ức! — Yillah yêu dấu đã không còn nữa, và tôi đây phải mang tang.

         Thời gian sau, tâm trạng ấy đã qua. Khốn cực chỉ còn là ký ức. Tiếng ai ca quặn một cơn rung trầm. Hồi tưởng tựa như là thứ được ghi nhớ; dẫu cho đã quỵ vì sầu muộn. Có những ý nghĩ chìm và lấp lánh từ dưới sâu: những hạt trai lệ dưới biển đời, vẫn dâng, và cuộn nắng, bất kể có giấu điều gì. Những tai ương chung, như chất lỏng, hòa với nhau. Nhưng nỗi đau khác thì không như thế. Có kẻ khóc than thì trút ai ca vào trong gió; nhưng những nốt vang nhất thì nảy từ những nơi rỗng lòng. Nước mắt họ chảy xiết: nhưng mạch ngầm chỉ có những giếng khơi.

         Sau cùng tôi quay sang Media, nói rằng tôi phải chóng đi khỏi Odo và lang thang khắp Mardi vì còn chưa tìm thấy Yillah.

         Nhưng từ đây trở đi, trong lời văn sẽ còn nhắc rất ít đến nàng thiếu nữ, cho đến khi nào — may ra — người ta biết được số phận của nàng.

 

CHƯƠNG LXV

TAJI LÀM QUEN VỚI BA NGƯỜI

        

         Đến thời điểm này, tôi đã ngăn Samoa khỏi lang thang đến các đảo lân cận, dẫu chàng rất muốn đi, để chấp nhận những lời mời gửi tới không ngớt. Thế nhưng lúc này tôi thông báo cho chàng, và cả đồng bạn của chàng, về chuyến đi tôi đã định trước; muốn có họ đi cùng.

         Khi được thông báo về ý định khởi hành của tôi, phần tôi không kém bất ngờ khi Media cũng đề nghị được đi với mình: một kế hoạch được vui vẻ đón nhận. Có vẻ, vì một lý do nào đó, ông đã chưa mở rộng chuyến đi của mình đến các đảo xa hơn. Thành thử cuộc hải hành sắp tới này lại đặc biệt hợp ý ông. Mà ông cũng chẳng phải trày da tróc vẩy gì thì mới đảm bảo được cho chuyến đi được thuận lợi; hơn nữa, ông còn đoan chắc với tôi rằng mục đích của nó nhất định phải đeo miện vinh quang. “Bản thân ta thấy hứng thú với cuộc theo đuổi này,” ông nói; “và hãy tin ta, chúng ta sẽ tìm thấy Yillah.”

         Còn chuyến đi đến đầm phá, chiếc Dê Biển ngoan đã được đưa ra nhưng Media không hài lòng; bảo rằng chúa đảo Odo không hợp với chuyện đi lại bằng cỗ thuyền của khách. Cho nên họ đã chọn ba chiếc xuồng từ hạm đội hoàng gia của riêng ông.

         Một cho chúng tôi và một bộ ba người đồng hành mà ông đã chủ định giới thiệu cho tôi biết; số còn lại dành làm hầu cận.

         Nhờ sở thích và tính hay để ý của Media, những người lạ đã nhắc ở trên đã cho thấy là những người khiến tôi rất hài lòng.

         Người đầu tiên là Mohi, hay Râu Bím, được gọi như vậy vì cách ông diện cái phụ kiện ấy, dài và xám cực kỳ. Ông là một nhà kể chuyện và truyền thuyết đáng kính, một người thuộc số những Nhà Lưu giữ Sổ bộ Lịch sử các Vua Mardi.

         Người thứ nhì là Babbalanja, một người thuộc phương diện thần bí, khoác một chiếc áo choàng dày lớp. Ông thông thạo pho tri thức Mardi; được truyền lại từ các nhà cầm quyền cổ đại và quá thời: Những Suy tư của Bardianna Xưa: Bộ Dân luật của Alla-Malolla.

         Người thứ ba và là người cuối cùng, là Yoomy, hay Chim Chích. Một thi sĩ trẻ, tóc dài, mắt xanh; làm gì cũng tùy hứng; đôi khi, đãng trí, nhợt nhạt; nhưng áo quần của chàng luôn gọn gàng bảnh bao; đội những chiếc khăn xếp đẹp đẽ nhất, một chú Chim Thiên Đường hãnh diện về bộ lông của mình và đeo những đai lưng sặc sỡ nhất. Yoomy được phú cho những âm điệu đa tình nhất, và những điệu rondo, và những điệp khúc, nghe rất mê hoặc. Nhưng có lúc coi khinh sáo sậy, như một chiếc kèn clarion chàng phát ra những bài vũ khí và chiến đấu mạnh mẽ; hoặc, trong những giai điệu ảm đạm, vang lên những bi ca dành cho những nhà thơ và anh hùng đã mất.

         Ta đã biết bấy nhiêu điều về Yoomy với tư cách là một thi sĩ. Còn trong những phương diện khác thì thật khó mà tả dduwowjc chàng. Chàng là một người quá đồng bóng, quá bị những tâm trạng đối nghịch nhau tác động; quá kiêu kỳ, quá khiêm tốn, quá buồn, quá vui; quá dựng nên hàng ngàn mâu thuẫn, đến nỗi chúng tôi còn phải để cho chàng tự miêu tả chính mình khi câu chuyện tiến triển. Và ở đây ta mong chàng sẽ thành công, bởi vì ở Mardi chẳng ai lý giải được chàng.

         Giờ đây bộ ba, đã được chỉ định làm người đồng hành với chúng tôi trong cuộc hải trình, cũng đã tỏ ra nóng lòng để được du ngoạn Quần Đảo một phen. Đặc biệt là Babbalanja thường bày tỏ niềm mong mỏi tha thiết nhất hầu được ghé thăm từng hải đảo một, đi tìm một đối tượng nào đó, mà ông chỉ kín đáo gợi ý mà thôi. Ông lầm bầm một mối bận tâm sâu sắc về sự mất mát của tôi, với niềm cảm thông chân thành nhất; và nhiều lần nắm chặt tay tôi, thấp giọng nói, “Cuộc tìm kiếm của ngài cũng là của tôi, Taji cao quý. Ngài tìm ở đâu, tôi đi theo đó.”

         Vậy là, cả Yoomy cũng ngỏ ý với tôi; nhưng với nhiều cảm xúc hơn. Và tương tự, còn có ông Râu Bím nhắc lại.

         Nhưng về nỗi buồn của tôi, tôi nhận thấy rằng cả Mohi và Babbalanja, nhất là ông triết gia, có vẻ không đượm hy vọng lắm, về việc Yillah mất tích, cho bằng chàng Yoomy trẻ trung, và vị chúa tể hăng hái của chàng, Vua Media.

         Vì cuộc hải trình của chúng tôi sẽ tốn không ít thời gian, Vua Media có nhiệm vụ phải bổ nhiệm một tù trưởng nhiếp chính đáng tin cậy nào đó để đại diện cầm quyền khi ông vắng mặt. Tù trưởng nhiếp chính được chọn là Almanni, một chiến binh có đôi mắt nghiêm khắc, cương quyết, một người trong hoàng tộc của vua.

         Sau cùng khi mọi sự sẵn sàng, và dự tính sẽ khởi hành vào sáng hôm sau, Media, trên bờ biển, lúc chiều hôm, khi ánh sáng và mặt nước xế dần, đã vẽ đại khái một bản đồ của khu vực đầm phá này, để lượng tính bù trừ cho những trở ngại trên đường nhờ được nhìn bao quát nó từ Odo.

         Và kế hoạch chuyến hải trình của chúng tôi được vạch ra: những hòn đảo nào sẽ ghé thăm trước tiên, và những hòn đảo nào sẽ dừng lại trên đường trở về.

 

CHƯƠNG LXVI

THUẬN GIÓ, HỌ DONG BUỒM LÚC BÌNH MINH

 

         Đúng như đã bàn, khi mặt trời ló dạng, Media xuất hiện trên hòn đảo nhỏ của tôi.

         Một buổi sáng rực rỡ làm sao! Những áng mây mới sinh loang loáng sắc vàng, vệt tím chen ngang; mặt trời rạng rỡ hân hoan; bầu không khí dễ chịu, được làm mát suốt đêm bởi những vòi phun bao quanh, tuôn chảy không ngừng khắp rạn san hô; và bên trong đầm phá, chiếc bồn viền san hô, nơi những dòng nước ấy đổ vào, lắng xuống ở đây thành một màu xanh tĩnh lặng.

         Thế mà mấy chiếc xuồng mới quái vật làm sao! Không biết chúng có ngốn ngấu một lữ khách vô tội nào chăng? Những mũi đen to tướng của chúng hếch lên, và hất ra sau như vòi voi; một khoảng ngoằn ngoèo, đen đậm phía sau, như hải xà đi đoàn.

         Mũi của chiếc xuồng đầu tiên được kết lại thành một hàm cá mập lớn, rộng, được trang trí với mười hàng răng người như ngọc trai, lèn theo cách lạ mắt vào thân gỗ khắc. Mép mạn được trang hoàng với những hàng vỏ ốc dày đặc đốm báo và vằn hổ; lác đác, để thêm phần phong phú, là những vỏ sò dẹt và tròn, vạch hình xoắn ốc; những con mãng xà sặc sỡ hóa đá từng cuộn. Tất cả được gắn chặt vào rãnh viền một thứ hợp chất nhựa tỏa hương gia vị, khiến cho những chiếc xuồng tỏa hương thơm ngát, chẳng khác nào những rương báu hương liệu Ấn Độ từ quần đảo Maldives.

         Chiếc xuồng đầu tiên càng thêm giống một con voi nhờ một kiểu mái che Howdah ở đuôi xuồng, bằng vải tappa dày, nhuộm màu hung, ở mỗi góc có đính tua bằng những chùm xơ dừa dài, phẩm đỏ. Những quả tua ấy đong đưa tới lui, như những đuôi cáo trên một tấm áo choàng Tuscarora.

         Nhưng cái gì đây, ngay đầu xuồng, ngay bên dưới hàm cá mập? Một bức tượng tiểu yêu cười toe toét; một chiếc vòng xỏ ở mũi; những vỏ ốc mắt chim trĩ leng keng ở tai cùng một cái liếc mắt dê xồm, như của thần Silenus ngất ngưởng trên lưng lừa. Nó đang nghỉ ngơi; thoải mái hút tẩu; bát tẩu của nó, là một bản khổ mười hai của bản mặt kẻ hút thuốc. Tượng ấy quay về đuôi xuồng, không ngớt chế nhạo chúng tôi.

         Về những chiếc xuồng này, xét cũng hợp lý khi nói rằng dẫu suốt thời gian chúng tôi lưu tại Odo, từng có nhiều thuyền tam bản và sà lúp đến đây, chúng tôi chưa từng thấy chiếc nào như của Media. Nhưng khi hỏi cỗ thuyền biển của ông bởi đâu mà có thì chúng tôi được khuyên dạy rằng phải sùng kính chúng như các cổ vật và gia bảo; những chiếc có long cốt móng thú, mũi thuyền đầu rồng của một thế hệ đã qua; mà ngày nay, thường bị thay thế bằng những chiếc xuồng giống thiên nga, vốn rất quan trọng trong kỹ thuật đóng thuyền ở Mardi. Ngay khi biết được điều này, thứ từng có vẻ như gớm ghiếc trong mắt tôi nay chỉ còn kỳ dị mà thôi. Chẳng phải là tôi không hoan hỉ với niềm tự hào về dòng dõi tuyệt vời của vị gia chủ chúng tôi.

         Góc trên cùng ở các lá buồm có trưng huy hiệu gia tộc của Media; ba chiếc nanh heo rừng dựng thẳng, giữa một cánh đồng huy hiệu bạc. Một biểu tượng dữ dằn: Ông đang xé xác ai đấy?

         Mọi thứ sẵn sàng: chúng tôi lướt đi: dân chúng vẫy chào từ biệt: và tiểu đội của chúng tôi được bố trí theo thứ tự sau.

         Đi đầu là chiếc Voi hoàng gia, chở Media, tôi, Jarl, và Samoa; Mohi Diễn Tích Gia, Babbalanja, và Yoomy, và sáu tay chèo hoạt bát; các mái chèo bản rộng của họ có khắc những chiếc nanh heo rừng hoàng gia, ở ngực họ cũng xăm cùng kiểu làm chế phục.

         Và thế là như Media đã hứa, chúng tôi nghi vệ dong buồm. Thêm vào đó, ngồi một bên ở trên hàm cá mập mở to đằng mũi thuyền là một cậu nhóc còi cọc, một đứa trong số các gia đồng của Media, một vỏ ốc xà cừ đỏ, để thổi tù và, được đeo bên hông. Trong số các nhiệm vụ khác nhau, nhiệm vụ của nhóc Vee-Vee là báo hiệu chủ nhân của mình sắp đến, khi gần đến các đảo trên đường đi của chúng tôi. Hai thanh ngắn, nhô khỏi một bên mũi thuyền, mang lại cho cậu nhóc phương tiện để leo lên chỗ đáp của mình.

         Khi chúng tôi ra đến đầm phá rộng, buồm căng gió, mái chèo khua nhịp, một dải bọt trắng dựng đứng nơi mũi thuyền;  Yoomy, đang đứng nơi bụi nước phốc, hắt qua đầu chàng, thì giang tay và la to — “Bình minh đã qua, và Mardi trải ra trọn trước mắt chúng ta: mọi đảo của nó, và mọi hồ nước của nó; mọi kho trữ điềm lành và điềm dữ của nó. Giông tố có thể đến, thuyền chúng ta có thể chìm. Nhưng cứ thổi trước chúng ta, hỡi mọi cơn gió; mang cho chúng ta những luồng gió sôi nổi, hồi kèn hay; tập hợp quanh chúng ta hết thảy trí khôn, và mong cho cuộc hải trình này sẽ thuận buồm xuôi gió, vì ta chưa tìm thấy Yillah.”

 

Khương Anh dịch

 

[1] Nguyên văn foot in stirrup, stirrup là một đoạn dây (chăng dọc) có mắt để xỏ dây kê chân foot-rope (chăng ngang), giúp cho thao tác các dây buồm trên xà buồm dễ dàng hơn.

[2] Chất não hương của cá voi được dùng làm sáp nến.

[3] Tàu này được đặt tên theo Arcturus, là ngôi sao sáng trong chòm Boötes, luôn quay quanh Pole Star.

[4] Boong lái là boong của những người thuộc vị trí cấp cao trên tàu.

[5] Ý nói Anatomy of Melancholia của Robert Burton; với gốc từ Hy Lạp melano- nghĩa là đen và khole nghĩa là mật: một chứng bệnh mượn hình ảnh mật tiết ra chất màu xanh đen

[6] Nguyên văn Right whale một loài cá voi dễ săn bắt.

[7] Các phiên canh thường dài bốn tiếng đồng hồ, ngoại trừ các phiên “canh sói” là phiên dài hai tiếng.

[8] Tên hiệu của Aristotle.

[9] Nguyên văn cosmopolitan.

[10] Boong mũi là nơi các thủy thủ sinh hoạt.

[11] Chrysostom.

[12] Luke 10, 29 – 37

[13] Nguyên văn South Sea-man, là loại tàu săn cá voi hoặc tàu buôn thường đi quanh các vùng biển phía Nam Đại Tây Dương.

[14] Trong thế kỷ XIX, các tàu áp dụng hệ thống canh gác mỗi ngày gồm năm phiên dài bốn tiếng đồng hồ và hai phiên cuối ngày dài hai tiếng đồng hồ; với Canh Đầu, hoặc Canh Đêm (20:00 – 0:00), Canh Giữa (0:00 – 4:00), Canh Sáng (4:00 – 8:00), Canh Trưa (8:00 – 12:00), Canh Chiều (12:00 – 16:00), Sói Một (16:00 – 18:00), Sói Hai (18:00 – 20:00); sau mỗi phiên canh sẽ có tám tiếng chuông thông báo kết phiên.

[15] Tiếng Latin, nghĩa là hết tốc lực.

[16] Trong chương V và chương VI, ta đã biết con thuyền trong tầm ngắm của Taji là ở đằng mũi thuyền, bên mạn phải; vậy trong chương này, ban đầu mạn phải của tàu là mạn xuôi gió (thổi hướng lên trên), đến khi vào phiên canh đêm thì gió đã đổi hướng, cho nên lúc này mạn phải là mạn dưới gió (thổi hướng xuống biển).

[17] Bá tước Philip Dormer Stanhope của Chesterfield (1694 – 1773) với tác phẩm Letters to His Son.

[18] Timon of Athens của Shakespeare

[19] Đã hết nhóp nhép.

[20] Thị kiến bản đồ các vương quốc trong Sách tiên tri Daniel.

[21] Abner Paki (c. 1808 – 1855) một tù trưởng người Hawaii, triều Vua Kamehameha III.

[22] Mượn hình ảnh trong phong tục dùng bữa của quý tộc thời Trung Cổ, khi muối là một mặt hàng quý giá lúc bất giờ: những người có địa vị cao và được kính trọng sẽ được ngồi gần chủ nhà hơn (above the salt) và những người địa vị thấp hơn sẽ ngồi ở đầu bên kia của bàn ăn (below the salt); ở đây ta có thể thấy thuyền trưởng và cặp người lai xem họ ngang hàng với nhau.

[23] Quan Haman bị vua xử treo cổ trong sách Esther 7, 8 – 10

[24] Xà mũi tàu là một cái xà để giăng các buồm tam giác, nhô hẳn ra bên ngoài thân tàu.

[25] Chiếc thuyền Dê Biển

[26] Nguyên văn three-deckers những tàu chiến có súng ở cả ba boong.

[27] Trên tàu chiến, Quaker thường là những họng súng giả được làm bằng gỗ.

[28] Sir Edwin Henry Landseer (1802 – 1873) danh họa nổi tiếng với những bức tranh về các loài động vật.

[29] một kiểu vòm nhọn

[30] Nguyên văn rovings alow and aloft, rovings là một thuật ngữ hàng hải, mang nghĩa một hành động đi dây ròng rọc, và alow and aloft có nghĩa là căng tất cả các lá buồm trên tàu.

[31] Thùng chứa với dung tích 500 lít.

[32] Ý nói các thế lực ma quỷ trong Ephesians 2, 2

[33] Nguyên văn dead reckoning, là một phương pháp ước lượng vị trí của tàu dựa trên vị trí ban đầu, tốc độ, thời gian và hướng di chuyển; kèm theo tính toán sai số của các điều kiện ngoại cảnh như dòng hải lưu, gió, và sóng v.v… tuy nhiên phương pháp này cần đối chiếu với quan sát thiên văn để có được kết quả chính xác hơn.

[34] Cần lái là một cán bằng gỗ, hoặc bằng sắt dùng để điều chỉnh hướng tàu, ở một số tàu lớn sẽ có gắn thêm bánh nan hoa cũng được gọi là vô lăng lái; cần lái ở nằm ở boong lái, trong khi dây buồm mũi nằm ở boong bên kia của tàu.

[35] David và Goliath trong 1 Samuel 17.

[36] Mượn hình ảnh Tư tế Aaron trong sách Exodus

[37] Jean-François Champollion (1790 – 1832) nhà ngữ văn học và Đông Phương học người Pháp

[38] Tư tế Aaron và các con trai trong sách Numbers 3, 1 – 4

[39] Nguyên văn constellation

[40] Phương ngữ Polynesia, haramai nghĩa là “đến đây”

[41] Nguyên văn canoe-house, một nơi vừa dùng để họp mặt vừa dùng để cất xuồng.

[42] Ezekiel 38 – 39

[43] Một quan cai trị thuộc Đế chế Ottoman ở Bắc Phi.

[44] Trong Poetry of Flowers and Flowers of Poetry của Frances Sargent Osgood, hoa Diên Vĩ là một loài hoa tượng trưng cho truyền tin, dựa theo tích về sứ giả của nữ thần Juno; hoa Anh Thảo Chiều mang nghĩa mê hoặc, đặt tên theo nữ phù thuỷ Circe; hoa Mười Giờ biểu tượng của niềm vui trọn vẹn; và hoa Ô Đầu mang ý nghĩa bay cùng ta, dựa theo cỗ xe của nữ thần Venus.

[45] Hoa Phỉ mang ý nghĩa bùa chú.

[46] Tiếng Latin: mong cho linh hồn đã qua đời được nghỉ ngơi bình an

[47] Tiếng Latin: hãy nhớ, phận người phải chết

Tags: Melville
Thêm vào giỏ hàng thành công