favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2024
Next

"Tôi tên là Serenus Zeitblom"

03/02/2025 14:49

Doktor Faustus là cuốn tiểu thuyết lớn cuối cùng của Thomas Mann, được viết vào cuối thập niên 40 của thế kỷ 20. Từ Buddenbrooks: Verfall einer Familie, ngót nửa thế kỷ đã trôi qua, với càng về sau càng nhiều cay đắng hơn đối với Mann; kể cả sự kết thúc của chiến tranh và thất bại của Nazi (điều này hàm ý kỳ lưu đày của Mann đã có thể kết thúc) cũng không làm được cho mọi sự tươi sáng hơn.

Thomas Mann của Buddenbrooks là một con người trẻ tuổi: sự trưởng thành quá sớm sủa của một người dám chĩa cái nhìn (với biết bao nhiêu mỉa mai) vào cả một vạt lớn của xã hội bourgeois nước Đức gây rất nhiều kinh ngạc. Dẫu cho giữa BuddenbrooksDoktor Faustus đã có rất nhiều điều lớn lao - để chỉ kể những gì đáng nói hơn cả: Der Zauberberg, Lotte in WeimarJoseph und seine Brüder; ở nhiều phương diện, Mann đã lặp lại được tầm vóc của Goethe - thì cho đến cuối cùng, cuốn tiểu thuyết thời trẻ, Buddenbrooks, vẫn là tác phẩm thực sự thành công duy nhất và bền vững nhất.

Nhưng một yếu tố đã ngầm ẩn sẵn ở Buddenbrooks như thể nhất thiết đòi Thomas Mann phải phát triển: yếu tố ấy cần trải qua quá trình unfolding, cho nên tuy đã viết Tonio Kröger (cái họ "Kröger" chui ra từ thế giới mà Buddenbrooks đã dựng ra) và nhất là Der Tod in Venedig, thì nhất thiết vẫn cần Doktor Faustus, nơi Mann cho thấy cái nhìn của mình vào một hình tượng then chốt: hình tượng nghệ sĩ. Doktor Faustus là một trong những cuốn tiểu thuyết lớn nhất lịch sử về nhân vật nhạc sĩ (điều này như thể để bù lại cho sự thể toàn bộ gia đình Buddenbrook, nhất là Thomas Buddenbrook, nhân vật chính, không có năng lực nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc - vả lại, chính con trai của Thomas Mann, Klaus Mann, mới thực sự là người có tài năng nghệ thuật).

"Tôi tên là Serenus Zeitblom" là mấy từ mở đầu chương thứ II của Doktor Faustus, câu chuyện hấp dẫn nhưng đáng sợ về Adrian Leverkühn.

 

II

Tôi tên là Serenus Zeitblom, tiến sĩ triết học. Tôi tự buộc tội mình vì sự chậm trễ lạ thường mãi mới chịu nói ra căn cước của tôi, nhưng dòng văn chương nơi những tâm sự của tôi còn chưa cho phép tôi làm vậy cho đến thời điểm này. Tôi sáu mươi tuổi, sinh vào năm hồng ân 1883, anh cả trong số bốn người con, tại Kaisersaschern, trên sông Saale, tỉnh Merseburg, thành phố nơi Leverkühn cũng sống những năm đi học. Tôi sẽ lùi sự miêu tả anh kỹ hơn lại cho lúc đề cập câu chuyện các năm ấy. Thêm nữa vì cuộc đời tôi đã rất thường lồng vào với cuộc đời của Bậc Thầy, sẽ là tốt nếu thuật hai cuộc đời trong những tương quan lần lượt của chúng nhằm khỏi phạm tội phóng trước - điều mà người ta luôn luôn có xu hướng những khi nào lòng quá đầy.

Chúng ta hãy đơn giản mà nói rằng tôi đã chào đời trên cái gò đầy chừng mực của một giới bourgeois có chút thông thái. Bố tôi, Wolgemut Zeitblom, là nhà bào chế - nhà bào chế quan trọng nhất của tỉnh lỵ. Ở Kaisersaschern quả có một hiệu buôn bán khác cùng loại, nhưng công chúng không bao giờ ủng hộ nó ngang mức với hiệu bào chế “Các Tín sứ Trời cao” và nó lúc nào cũng phải cố hết sức thì mới duy trì được. Gia đình chúng tôi thuộc vào số các thành viên của cộng đồng Công giáo nhỏ tại một thành phố nơi phần lớn người ta, hết sức tự nhiên, theo dòng Luther. Đặc biệt mẹ tôi, người con gái tín tâm của Nhà thờ, hết sức cẩn thận hoàn thành những nghĩa vụ tôn giáo của mình. Bố tôi, chắc hẳn do thiếu thời gian, tỏ ra ít chuyên cần hơn ở mặt này, tuy nhiên không tách khỏi các đồng đạo của mình mà sự đoàn kết tập thể cũng có một tầm vóc về chính trị. Một điểm đáng chú ý, bên cạnh cha xứ của chúng tôi, cố vấn tăng lữ Zwilling, thì Ts Carlebach, rabbi của chỗ ấy, cũng hay đến phòng khách nhà chúng tôi, nằm bên trên phòng thí nghiệm và hiệu bán thuốc, điều này hẳn chẳng mấy khả dĩ ở các chốn Tin lành. Trong số hai người, vị đại diện của Nhà thờ La Mã có vẻ ngoài trội hơn, nhưng, theo cảm giác riêng của tôi, chắc hẳn dựa trên những nhận xét của bố tôi, chuyên gia Talmud nhỏ bé với bộ râu dài và đội một cái mũ ca lốt vượt rất xa, cả về hiểu biết lẫn sự uyên bác, đồng nghiệp của ông trong sự thờ phụng khác.

Có lẽ nhờ kinh nghiệm hồi trẻ ấy, có lẽ cũng nhờ cả vào sự hiểu đầy lão luyện mà các vòng giao du Israel thể hiện đối với tác phẩm sáng tạo của Leverkühn mà tôi đã không bao giờ có thể hoàn toàn tán thành Führer cùng các bộ hạ của ông ta trong vấn đề Do Thái cũng như cách xử trí của ông ta, sự bất tương hợp vốn chẳng hề xa lạ với việc tôi rút lui khỏi sự nghiệp dạy học. Nói cho đúng, những ví dụ khác từ dòng giống đó còn từng hiện ra trên con đường của tôi - chỉ cần tôi nghĩ tới nhà bác học ngồi yên một chỗ, Breisacher ở München, là đủ - về tính cách khó chịu và gây rối loạn của họ tôi sẽ chiếu vào một ánh sáng nhất định, khi nào đến lúc.

Hết sức tự nhiên, nguồn gốc Công giáo của tôi đã khuôn định và ảnh hưởng lên con người sâu kín của tôi, dẫu vậy sắc thái tôn giáo ấy đã không bao giờ đối lập với hình dung nhiều tính cách nhân văn của tôi về vũ trụ, với tình yêu văn chương và các khoa học của tôi, như xưa kia người ta hay nói. Giữa hai yếu tố đó của nhân cách tôi lúc nào cũng ngự trị một sự nhất trí hoàn toàn, chắc hẳn hết sức tự nhiên khi người ta đã lớn lên, như tôi, ở một thành phố cổ nơi các kỷ niệm cùng công trình đưa ta về một thời kỳ trước sự phân giáo rất nhiều, thời kỳ của nhất thể Ki-tô giáo.

Trên bản đồ, Kaisersaschern nằm ở chính giữa Cải cách, nơi trái tim vùng của Luther, vây quanh là những cái tên Eisleben, Wittenberg, Quedlinburg và cả Grimma, Wolfenbuttel và Eisenach; vị trí này có thể rọi sáng cuộc sống bên trong của Leverkühn, vốn theo dòng Luther, và định hướng đầu tiên của anh về phía nghiên cứu thần học. Tôi hết sức sẵn sàng so sánh Cải cách với một cây cầu không chỉ bắc từ các giai đoạn kinh viện tới thế giới suy nghĩ tự do của chúng ta, mà cũng quay ngược về Trung cổ; và có lẽ còn xa hơn truyền thống Công giáo, nó thì được lưu giữ khỏi ly giáo và đẫm một tình yêu văn hóa thanh thản. Về phần mình, tôi cảm thấy hết sức thoải mái nơi tầng cầu mạ vàng tại đó Nữ Thánh Đồng Trinh từng được gọi là Jovis alma parens.

Nhằm thêm vài điểm cốt yếu vào bức tranh vita của tôi, tôi sẽ nói rằng bố mẹ tôi đồng ý cho tôi theo các cua ở trường gymnase của chúng tôi, chính là trường nơi, dưới tôi hai lớp, Adrian bắt đầu học. Được thành lập vào nửa sau thế kỷ 15, mới gần đây ngôi trường vẫn mang tên Trường các Anh em của Cuộc sống Chung. Nó đã phải từ bỏ cái tên do một nỗi bối rối nhất định trước vang âm khá hài của nó đối với một cái tai của thời mới và, mượn một từ của nhà thờ bên cạnh, đã được đặt lại tên thành Gymnase Bonifatius. Lúc rời khỏi trường, hồi đầu thế kỷ, tôi cả quyết hiến mình cho việc học các thứ tiếng cổ điển, nó từng khiến tôi có được vài thành công học đường. Rồi tôi tới những trường đại học, Giessen, Jena, Leipzig và, từ 1904 đến 1906, Halle, khoảng thời kỳ (và hoàn toàn không phải do một trùng hợp ngẫu nhĩ) Leverkühn nhập môn thần học tại đó.

Ở đây, tôi không thể tự ngăn mình, theo thói quen của tôi, ngưỡng mộ thoáng qua tương quan thiết thân và gần như bí hiểm giữa mối quan tâm của chúng tôi đối với ngữ văn cổ và cảm giác sống động và trìu mến về phía vẻ đẹp và lý trí con người. Tương quan đó đã được biểu lộ bằng sự thể người ta gọi là “cổ văn học” môn các ngôn ngữ cổ. Nơi mọi tâm trí, sự đặt liền kề nhau của niềm say mê ngữ nghĩa học và các cổ văn học lên được tới đỉnh cao ở khái niệm giáo dục; và sự nghiệp nhà bác ngữ học gần như không thể sai lệch dẫn đến sự nghiệp nhà khuôn định cho tuổi trẻ. Con người được đào tạo cho hiểu biết các khoa học tự nhiên có thể là một giáo sư, anh sẽ không bao giờ là một nhà giáo dục theo nghĩa và ở mức nơi môn đệ của bonœ litterae ở vào. Cũng vậy đối với thứ ngôn ngữ khác kia, có lẽ cường độ cao hơn nhưng không cấu âm lối tuyệt diệu, ngôn ngữ các âm thanh, trong chừng mực người ta có thể chỉ định âm nhạc như vậy. Đối với tôi nó dường không được gồm vào tầng cầu của sư phạm nhân văn, tuy nó đã có nhiều công dụng ở giáo dục của Hy Lạp và, đặc biệt, ở cuộc sống công cộng của polis. Mặc cho toàn bộ sự nghiêm ngặt logic và luân lý mà đôi khi nó vờ khoác lên, đối với tôi nó dường hợp hơn với một thế giới tinh thần mà tôi sẽ không đảm bảo cho tính cách không thể chê trách, được nhìn nhận dưới góc độ của lý trí và phẩm giá người. Tuy nhiên tôi gắn chặt vào với nó bằng trái tim và chính đó, dẫu người ta than thở cho nó hay hân hưởng lấy nó, là một trong các mâu thuẫn cố hữu của bản tính con người.

Đó là một đoạn ngoại đề. Và thế nhưng không, bởi một vấn đề bước vào chủ đề của tôi, và thậm chí bước vào đó quá nhiều: giữa vũ trụ cao quý và có tính cách sư phạm của tinh thần và thế giới tinh thần khác kia, mà người ta chẳng thể tiến lại gần được mà không gặp phải nguy cơ, có đường biên giới rõ nét và được xác định hay không? Địa hạt nào của con người, dẫu nó có là thuần khiết nhất, nhiều phẩm cách nhất và có ý định tốt đẹp nhất, hoàn toàn thoát được khỏi ảnh hưởng của các quyền năng bên dưới, hoặc, người ta phải nói thêm, có thể tuyệt đối coi thường tiếp xúc gây sinh sôi mãnh liệt của chúng? Ý nghĩ này không bị sai chỗ ngay cả từ phía một con người xét về yếu tính xa lạ với cái quỷ quái. Nó ám ảnh tôi từ vài tiếng đồng hồ trong chuyến đi của tôi tới Ý và Hy Lạp, chuyến đi để học kéo dài khoảng một năm rưỡi, mà bố mẹ tốt lành của tôi đã tặng cho tôi sau khi tôi giành được bằng Nhà nước. Nó ám ảnh tôi kể từ khi đứng ở Acropolis tôi chiêm ngưỡng Đường Thiêng nơi đi ngang những người ăn mừng các bí ẩn, trán buộc băng đô màu nghệ, cái tên Iacchos trên môi; cả về sau nữa, tại những chốn khai trí, ở vùng của Eubule, bên bờ cái khe Pluto mà tảng đá chế ngự phía trên, tôi cảm thấy được sự đầy của cảm giác sống được diễn tả trong sự nồng nhiệt của thứ Hy Lạp luận thuộc Olympe trước những thần linh của vực thẳm. Và về sau này rất thường xuyên, tôi đã giải thích cho các học trò năm đầu của tôi, từ ghế giảng sư, rằng nói cho đúng văn hóa là sự nhập vào nhau đầy thành kính và có tính cách đặt luật lệ, hẳn tôi sẽ nói là xoa dịu rất nhiều, của yếu tố bất thường và đêm tối trong thờ phụng các vị thần.

Trở về sau chuyến đi, chàng thanh niêm hăm lăm tuổi, tôi khi đó, tìm được một chỗ tại gymnase ở thành phố quê hương, chính cái nơi tôi đã kiếm được hành trang khoa học của mình. Trong vòng vài năm tôi dạy tại đó, bằng những cách thức khiêm nhường, cua tiếng Latin, Hy Lạp và cả lịch sử nữa, trước khi tôi gia nhập, vào năm thứ mười hai của thế kỷ này, hàng ngũ giảng dạy Bavaria. Tính từ ngày hôm ấy trở đi, tôi đã hoàn thành tại Freising, nơi tôi trú ngụ kể từ đó, các chức năng của giáo sự tại gymnase, thêm vào với những chức năng của Dozent ở Trường cao đẳng thần học, và trong vòng hơn hai thập kỷ, tôi đã thực thi tại đó một hoạt động thỏa đáng.

Từ sớm, không lâu sau khi được bổ nhiệm tới Kaisersaschern, tôi lấy vợ. Nhu cầu trật tự và mong muốn uốn mình theo chuẩn mực người hướng lối cho quyết định của tôi. Helene, nhũ danh Oelhafen, người vợ tuyệt vời của tôi, ngày hôm nay vẫn trông coi cho các sức lực suy giảm của tôi, là con gái một đồng nghiệp lớn tuổi hơn của tôi tại Đại học Zwickau, ở vương quốc Saxe. Với nguy cơ sẽ khiến độc giả mỉm cười, tôi sẽ thú nhận rằng tên của đứa trẻ tươi tắn, Helene, những âm tiết hài hòa yêu quý đó, đã chẳng phải là không gây ảnh hưởng lên lựa chọn của tôi. Một cái tên như vậy tương đương với một sự tôn phong. Hẳn người ta sẽ chẳng thể nào tự vệ nổi trước ma thuật thuần khiết của nó, dẫu vẻ bề ngoài của cái người phụ nữ mang nó có đáp ứng được các đòi hỏi rất cao của nó trong một chừng mực khiêm tốn và nhiều tính cách bourgeois hay chăng, thêm nữa lại phù du, vì chỉ tùy thuộc vào những quyến rũ tươi trẻ sớm bay đi mất. Chúng tôi cũng đặt cái tên đó cho con gái của chúng tôi, từ lâu đã lấy một con người trung hậu, ủy nhiệm nhân tại chi nhánh của Ngân hàng Tài chính Công cộng Bavaria ở Ratisbonne. Ngoài đứa con gái ấy, người vợ yêu quý còn tặng thêm cho tôi hai con trai và tôi cũng từng biết tới các niềm vui cùng những mối lo của việc làm cha chiểu theo luật tự nhiên của những người đàn ông, tuy chỉ là trong các giới hạn tầm thường. Không đứa nào trong số các con tôi, tôi xin thừa nhận điều này, từng có bao giờ biểu lộ những thiên bẩm đáng kinh ngạc. Hồi còn nhỏ, hẳn chúng không thể nào địch được về vẻ đẹp với cậu bé Nepomuk Schneidewein - cháu của Adrian, về sau sẽ là cục cưng của anh - hẳn tôi sẽ là người cuối cùng phản đối điều đó. Ngày nay hai con trai tôi đang phục vụ cho Führer của chúng, một đứa tại một chức vụ dân sự, thằng kia thì trong quân đội, và vì cách chọn vị trí của tôi đối với chính quyền quốc gia đương nhiệm đã tạo ra một sự trống nhất định quanh tôi, sợi dây nối mấy thanh niên kia vào với tổ ấm của bố mẹ chúng cũng đã bị nới lỏng.

 

III

Nhà Leverkühn là một hệ thợ thủ công và người làm chăn nuôi ở mức cao một phần thịnh vượng trong vùng Schmalkalden, một phần tại bang Saxe, dọc theo sông Saale. Gia đình nội thuộc của Adrian từ nhiều thế hệ chiếm lấy trang trại ở Buchel phụ thuộc xã Oberweiler, gần Weissenfels, cách Kaisersaschern bốn mươi lăm phút đi tàu hỏa. Từ ga này, vả lại lữ khách chỉ có thể đến được Buchel nếu có một cỗ xe được gửi tới đón. Buchel là một khu đất đáng kể mang lại quyền có một cỗ xe cùng thứ hạng chủ đất lớn với hẳn năm mươi arpent ruộng và đồng cỏ, một phuy te gồm nhiều tinh chất đa dạng được khai thác chung, một ngôi nhà ở tiện nghi hoàn toàn bằng gỗ và vách, nhưng móng thì xây bằng đá. Tính cả các vựa cùng chuồng, nó tạo một sân trong để mở. Sẽ không bao giờ tôi quên cây bồ đề cũ kỹ uy nghi mọc lên ở chính giữa, vây quanh là một dải rậm lục, mà tháng Sáu phủ lên những thứ hoa tỏa hương tuyệt diệu. Có lẽ nó gây chút phiền nhiễu cho sự đi lại của các xe kéo vào sân và tôi đã nghe nói rằng người con trai, thừa kế nhân, lúc còn trẻ, luôn luôn chiến đấu chống lại ông bố nhằm được chặt đi cái cây đẹp vì các lý do thực tiễn, cho đến cái ngày, tới lượt mình trở thành ông chủ, người đó cấm con trai mình cùng một điều.

Biết bao nhiêu lần cây bồ đề hẳn đã tỏa bóng mát che cho giấc ngủ trưa và những trò chơi của cậu bé Adrian, con thứ của cặp vợ chồng Jonathan và Elsbeth Leverkühn! Anh sinh vào năm 1885, đúng mùa hoa, trên tầng hai ngôi nhà ở Buchel. Anh trai anh, Georg, giờ đây chắc hẳn đang điều hành tại đó, hơn anh năm tuổi. Một người em gái, Ursula, tiếp theo anh với cũng quãng cách. Bố mẹ tôi thuộc vào vòng bạn bè và người quen biết của vợ chồng Leverkühn ở Kaisersaschern. Những mối quan hệ thân tình tập hợp hai gia đình chúng tôi lại với nhau đã từ rất lâu. Thường thì, vào Chủ nhật, các thị dân chúng tôi đầy lòng biết ơn nhấm nháp những thứ sản phẩm đáng mến của nông thôn mà bà Leverkühn đãi chúng tôi: bánh mì xám nâu sần hạt, bơ, các thanh mật ong óng vàng, dâu tây quết kem ngon lành, sữa đông trong những cái hũ màu xanh, điểm xuyết các mẩu bánh làm từ lúa mạch và đường. Hồi Adrian, hay Adri như người ta hay gọi anh, còn rất nhỏ, ông bà anh vẫn còn chiếm chái nhà cho người già, nhưng sự quản lý khu đất hoàn toàn nằm trong tay thế hệ trẻ và người ông, vả lại được lắng nghe đầy kính trọng, chỉ còn dự phần vào các cuộc trò chuyện trong bữa tối, bằng một cái miệng móm ban phát sự khôn ngoan hữu lý của mình.

Tôi đã không mấy lưu giữ được hình ảnh của những bậc tổ tiên qua đời gần như cùng lúc đó. Hình ảnh con của họ, Jonathan và Elsbeth, vì thế lại càng hiện diện hơn trong mắt tôi, cái hình ảnh nhiều thay đổi, trong những năm tuổi nhỏ, học trò, rồi sinh viên của tôi, nó đã trượt đi với sự không thể nhận biết rất thân thuộc với thời gian, từ tuổi trẻ sang các pha của héo tàn.

Jonathan Leverkühn là một người đàn ông có khí chất Giéc-manh tốt nhất, một típ như người ta không mấy còn gặp được nữa tại các thành phố của chúng ta và chắc chắn chẳng hề có trong số những ai ngày nay đại diện đối với thế giới, thường là với một sự cuồng loạn gây nhiều ngán ngẩm, nhóm con người đặc thù chúng tôi. Một ngoại hình được đúc theo dấu vết của quá khứ, như hẳn có thể nói là được lưu giữ ở nông thôn và truyền lại từ thời Đức trước giai đoạn Chiến tranh Ba mươi năm; đấy là ý nghĩ của tôi khi trong lúc lớn lên tôi nhìn ông bằng một ánh mắt đã có chút được rèn luyện về nhìn. Trên một cái trán gồ, tạo thành hai nửa rất rõ, với những đường ven hai bên thái dương nổi to, mái tóc lộn xộn phủ xuống, màu vàng tro. Dài và dày đằng sau, nó treo ở trên gáy theo một cách cắt đã lỗi mốt. Nó trùm lên hai cái tai nhỏ đẹp và hòa với bộ râu vàng, xoăn xâm chiếm cặp má, cái cằm và vùng hõm dưới môi dưới phồng lên và có một hàng ria ngắn rủ. Nụ cười đặc biệt cuốn hút ăn nhập với ánh mắt có chút cũ sờn, cả nó cũng hơi cười, mà một sự rụt rè nhẹ trao cho sự sâu sắc. Chỏm mũi mảnh uốn cong đầy tinh tế, một cái bóng đào xuống bên dưới cặp lưỡng quyền có chút gầy guộc. Theo thói quen Jonathan để phơi ra cái cổ căng thẳng của mình và ghê tởm những thứ trang phục thành phố thông dụng, chẳng hề hòa hợp với con người ông, nhất là với bàn tay ông, nhỏ, khỏe, khô và sạm, có chút điểm các vệt màu hung nhạt, nó co rúm lại trên tay cầm cây can của ông những khi ông đi đến buổi họp chung của làng.

Có lẽ một bác sĩ sẽ có thể thấy được nơi sự mệt mỏi phủ voan che nhất định của ánh mắt, nơi sự nhạy cảm nhất định của hai thái dương, một khuynh hướng chứng đau nửa đầu. Quả thật Jonathan chịu căn bệnh ấy, nhưng chỉ theo lối chừng mực, thường thì không quá một lần mỗi tháng và gần như không ngắt ngang hoạt động nghề nghiệp của ông. Ông thích hút tẩu, một cái tẩu sứ khá dài, có nắp. Hương thơm thuốc lá của ông, dễ chịu hơn nhiều so với mùi xì gà và thuốc lá bập bềnh trong không khí, thẫm đẫm bầu không khí những căn phòng bên dưới. Trước khi ngủ, ông sẵn lòng uống một vại bia Merseburg ngon. Các buổi tối mùa đông, chừng ở bên ngoài tài sản của ông, di sản của ông, nằm nghỉ dưới tuyết, người ta thấy ông đọc sách, ông thích hơn cả một quyển Thánh Kinh dày cộp được nhận truyền thừa khâu da lợn bọc ngoài, rập và có những sợi dây da để buộc chặt lại. Được in vào khoảng năm 1700 theo sự cho phép của công quốc, tại Brunswick, quyển Thánh Kinh ấy chứa, ngoài những lời nói đầu “đầy trí tuệ” cùng các chú giải bên lề của Ts Martin Luther, đủ loại tóm tắt, locos parallelos, và những câu thơ lịch sử và luân lý của một Ông David von Schweinitz bình luận từng chương một. Theo một truyền thuyết hay nói đúng hơn là một truyền thống độc đoán, quyển sách đó từng thuộc về công chúa Brunswick-Wolfenbuttel, người đã lấy con trai của Piotr Đại đế. Sau đó, công chúa đã giả vờ chết và đám tang nàng được cử hành trong lúc nàng chạy trốn tới Martinique, nơi nàng lấy một người Pháp làm chồng. Biết bao nhiêu lần, về sau hơn nữa, Adrian, vốn dĩ rất nhạy bén với cái hài, đùa vui với tôi về câu chuyện ấy, mà bố của anh, ngẩng đầu lên, kể với một ánh mắt êm dịu và sâu sắc; sau rồi, có vẻ như là hờ hững với xuất thân hơn gớm lợm của văn bản thiêng, ông chìm đắm vào các bình luận đặt thành thơ của Ông von Schwneinitz hoặc vào Những lời Khôn ngoan của Salomon cho các Bạo chúa...

Ngoài sở thích đọc sách tôn giáo, ông cũng có một sở thích nữa mà vào các thời khác hẳn người ta sẽ gọi là “sở thích cái kỳ bí”. Tức là, ông lao vào, trên một thang bậc và với các phương tiện thu nhỏ, nghiên cứu những môn khoa học tự nhiên, sinh học, thậm chí hóa học và vật lý, những cái đó được bố tôi đôi khi giúp đỡ bằng cách cung cấp cho ông các chất lấy từ phòng thí nghiệm của mình. Tôi đã chọn cách nói cổ lỗ và chẳng hề thoát được mọi phê phán: “làm những điều kỳ bí”, nhằm đặc trưng hóa những nỗ lực của ông, vì có một yếu tố bí hiểm nhất định được biểu lộ ở đó, xưa kia hẳn nó dễ dàng bị coi là khả nghi, như một xu hướng về phía các trò phù thủy. Thêm nữa, tôi xin nói thêm rằng tôi từng lúc nào cũng hiểu rõ mối nghi ngại ấy của một giai đoạn lịch sử và tâm linh đối với niềm say mê vi phạm các bí mật của tự nhiên đầy mới mẻ. Những kẻ nhút nhát hẳn đoán thấy ở đó một mối giao hảo đầy bừa bãi với cái bị cấm, đấy là còn chưa tính đến chuyện có một mâu thuẫn khi nhìn nhận các tạo vật đó của Chúa, tự nhiên và cuộc đời, như một địa hạt xấu xa. Tự nhiên quá đầy tràn các lừa dối rất sát với ma thuật, những thất thường khó hiểu, những ám chỉ có chút bị phủ voan che dẫn đến các mập mờ lạ thường, để mà một lòng mộ đạo có kỷ luật không thấy trong nghiên cứu của ông một sự phạm thánh hỗn hào.

Buổi tối, khi bố của Adrian mở những quyển sách minh họa màu của mình về sâu bọ ngoại lai cùng hệ động vật các biển, đôi khi chúng tôi, các con trai ông, tôi, và cả bà Leverkühn, liếc nhìn vào đó, qua lưng cái ghế dựa bằng da có tay cầm rộng của ông. Dùng ngón tay trỏ, ông chỉ cho chúng tôi những rực rỡ và kỳ quặc được tái tạo ở trong đó: bọn bướm và bướm morpho vùng nhiệt đới, mang tất tật các sắc thái trên pa lét màu, lũ bướm đêm lóng lánh ngũ sắc đung đưa trong không trung, được tạo hình và khuôn theo một gu và một kỹ thuật không thể sai chệch. Lũ côn trùng có vẻ đẹp huyền hoặc, đầy quá lời ấy có một cuộc đời phù du và một số trong mắt dân bản địa là các linh hồn ác mang bệnh sốt rét. Sắc tuyệt vời hơn cả của chúng, một thứ thiên thanh như trong mơ rất đáng ngưỡng mộ, theo Jonathan, không hề thực, mà được tạo ra bởi những gân mảnh và các điểm đặc biệt khác trên bề mặt các vảy nơi cánh của chúng. Một cấu trúc nhỏ xíu khúc xạ đầy nghệ thuật những tia sáng và ném trả lại phần lớn trong đó, thành thử chỉ màu xanh thuần khiết nhất mới đến được võng mạc chúng ta.

Giờ đây tôi vẫn còn nghe thấy bà Leverkühn kêu lên

- Kìa, kìa! Thế có nghĩa đó là một trò lừa?

- Em gọi màu xanh của bầu trời là một trò lừa à? chồng bà đáp lại, ngoái đầu nhìn bà. Em không thể xác định được rõ hơn cách thức của màu nhờ đó nó được cấu tạo nên đâu.

Trong khi viết đây, tôi vẫn nhìn thấy lại tôi, đứng đó đằng sau cái ghế của ông bố với bà Elsbeth, Georg, Adrian, và đi theo ngón tay của ông băng ngang những hình ảnh ấy. Ở đó có lũ nhân sư có cánh trên người tuyệt không có cái vảy nào, dường được làm bằng một thứ thủy tinh tế nhị có một mạng lưới tĩnh mạch mảnh xuyên qua. Một trong các con bướm đó, có sự trần trụi trong ngần, bạn của bóng tối lờ mờ buổi hoàng hôn các khóm cành, tên là hetœra esmeralda. Một vệt sẫm, tím hoặc hồng, điểm lên các cánh của nó, và chỉ nhìn rõ được nếu đang bay, mang lại cho nó dáng vẻ của một cánh hoa trong gió. Cũng có con bướm hình lá. Mặt trên những cái cánh của nó bừng rạng nhờ sự nhất trí hoàn hảo của các màu. Mặt dưới bắt chước cái lá với một sự chính xác rất chuẩn, và không chỉ hình dạng cùng hệ thống đường gân của nó, mà cả các điểm thiếu hoàn hảo nhỏ, các giọt nước, các cây nấm cùng những chi tiết khác tương tự, được tái tạo hết sức tỉ mỉ. Con côn trùng đầy mưu mẹo ấy, chừng nó đậu lên tán lá, tự hòa trộn vào với chỗ đó theo lối hoàn toàn tới nỗi hẳn kẻ thù háu đói nhất cũng chẳng thể thấy nó được.

Chẳng phải là không thành công, Jonathan thử truyền cho chúng tôi cảm xúc của ông trước sự bắt chước có tính cách bảo vệ và rất mực tinh xảo kia, nó tự đồng hóa mình vào cho đến cả các khiếm khuyết biệt lập.

- Làm thế nào mà con côn trùng làm làm được như thế? ông sẵn lòng hỏi. Làm thế nào mà tự nhiên làm được như vậy qua con vật? Bởi hẳn người ta không thể gán trò mẹo này cho kết quả của một quan sát và một tính toán từ phía nó được. Phải, phải, tự nhiên biết rõ cái lá, trong sự hoàn hảo của nó cũng như trong các khiếm khuyết nhỏ thường nhật của nó và những thoái hình của nó; do lòng từ tâm đầy ma mãnh, nó tái lập vẻ ngoài của những cái đó tại một địa hạt khác, nơi mặt dưới những cái cánh một trong các tạo vật của nó, nhằm khiến những tạo vật khác bị lầm lạc. Nhưng tại sao lại chính là con này được hưởng một trò khéo thiện xảo như thế? Và nếu đối với con bướm chắc chắn là rất hữu ích khi giống từng nét một với một cái lá lúc nó đậu xuống đó, đâu là lợi thế, xét từ quan điểm của đám thợ săn đang đói của nó, lũ thằn lằn, chim và nhện, mà nó được định để dùng làm thức ăn và thế nhưng chúng lại chẳng thể, chừng nào con kia muốn, phát hiện được nó, mặc cho thị giác có sắc sảo tới đâu? Tôi xin hỏi đấy, để mọi người đừng hỏi tôi điều đó.

Như vậy là con côn trùng cánh phấn kia biết cách tự làm cho mình vô hình để tự vệ, nhưng chỉ cần lật giở các trang, người ta sẽ biết đến những con khác cùng giống với nó, chúng đạt tới được một kết quả giống hệt nhờ vào một sự hiển hiện gây ấn tượng mạnh, thậm chí rất khăng khăng. Với kích cỡ đặc biệt phát triển, được xếp định và điểm sắc với một sự huy hoàng ngoạn mục, chúng diễu, ông bố Leverkühn nói, trong bộ quần áo đầy khiêu khích của chúng, với một sự thoải mái chói mắt mà thế nhưng người ta không thể thấy là hỗn xược, bởi nói đúng hơn nó có một cái gì đó sầu muộn. Chúng cứ đường mình mà đi chẳng bao giờ chịu trốn và không con thú nào, khỉ, chim hay thằn lằn, dõi mắt nhìn theo. Tại sao? Vì chúng đáng kinh tởm. Vẻ đẹp đứng tim của chúng và cả sự chậm trong đường bay của chúng khiến người ta hiểu điều này. Các chất dịch của chúng tỏa ra một mùi và vị thối tới nỗi trong trường hợp nhầm lẫn kẻ nào hy vọng được xơi ngon miệng một trong số chúng ngay tức khắc ném bỏ cái mẩu kia đi, cho thấy tất tật các dấu hiệu của cơn buồn nôn. Tính cách không thể ăn được của chúng được biết rõ trong toàn bộ tự nhiên và chúng tự biết là mình được bảo lưu - được bảo lưu một cách đáng buồn. Ít nhất là chúng tôi, đằng sau cái ghế của Jonathan, chúng tôi tự hỏi chẳng biết sự an toàn của chúng có thể được coi là sung sướng hay chăng, hay đúng hơn cái đó tương đương với một dạng thấp kém mất danh dự. Và kết quả là gì? Đấy là các chủng bướm khác do tính toán khoác lên mình cùng bộ chế phục tưng bừng và nhiều cảnh báo kia và bay qua, chúng cũng không thể sờ vào, bằng một sự bay chậm, sầu muộn và chắc chắn, tuy chúng hoàn toàn thích hợp cho sự đánh chén.

Bị lây bởi cơn buồn cười đang làm rung người Adrian và làm cậu chảy cả nước mắt, tôi cười ha hả. Ông bố Leverkühn ném cho chúng tôi một tiếng: “Suỵt!”. Ông muốn chúng tôi chiêm ngưỡng những cái đó với một sự nồng nhiệt rụt rè, sự nồng nhiệt đầy bí hiểm kia với đó ông xem chữ viết không thể giải mã trên vỏ một số loài nhuyễn thể, với sự giúp đỡ của cái kính lúp vuông và to của ông, mà chúng tôi cũng được sờ vào. Chắc chắn, cả việc ngắm nhìn những tạo vật ấy nữa, sên và sò sống dưới biển, cũng đầy ý nghĩa, ít nhất là khi người ta nghiên cứu chúng dưới sự chỉ dẫn của Jonathan. Người ta ngây người ra trước ý nghĩ theo đó tất tật các đường ngoằn ngoèo được khắc với một sự chắc chắn phi thường và một gu về hình thức cũng dạn dĩ ngang với tế nhị, những cái vỏ kia với các lỗ màu hồng và sự rực rỡ ngũ sắc của chúng, trông như sứ, các vách của chúng, là tác phẩm từ chất gelatin trong đó chúng sống - ít nhất nếu người ta ước định rằng tự nhiên được tạo thành mà không có can thiệp của một đấng sáng tạo, thế nhưng hẳn sẽ rất hay nếu tưởng tượng ra thành người nghệ sĩ đầy phăng te di, thành người thợ gốm nhiều tham vọng. Do đó người ta bị cám dỗ nơi địa hạt này hơn so với ở bất kỳ địa hạt nào khác được đưa vào một vị á thần, một thợ cả, một đấng quyền năng... Tôi xin nhắc lại, trên mọi điều ta bị sửng sốt vì ý nghĩ theo đó những chỗ trú ngụ quý giá kia lại là tác phẩm của các sinh thể mềm oặt mà chúng bảo vệ.

- Cũng như là thật dễ đảm bảo với các con điều đó khi các con lần sờ khuỷu tay, xương sườn, Jonathan nói với chúng tôi, trong lúc lớn lên các con đã phát triển bên trong cơ thể của các con một bộ khung vững chắc, một bộ xương. Nó nâng đỡ da thịt của các con, cơ bắp của các con và các con mang nó theo mình hay nói đúng hơn nó mang các con. Ở đây, chuyện ngược lại. Những tạo vật kia đã đặt sự vững chắc của chúng ra bên ngoài, không như một bộ áo giáp, mà như một nơi trú ngụ, và chắc hẳn cần phải nghĩ vẻ đẹp của chúng có được là nhờ nó nằm bên ngoài chứ không phải bên trong.

Chúng tôi, mấy đứa con trai, Adrian và tôi, chúng tôi nhìn nhau, miệng khẽ cười đầy ngây độn khi nghe thấy những lời nhận xét của ông bố như lời vừa xong, về sự phù phiếm của cái hiển hiện.

Đôi khi, thứ cảm năng về mặt tiền ấy tỏ ra tráo trở. Một số ốc sên có một sự thiếu cân đối rất đẹp, bị nhúng vào một thứ màu hồng nhạt nhiều đường vân hoặc vào một thứ mật ong màu nâu với nhiều điểm trắng, lại khả nghi do cú cắn chứa nọc độc của chúng. Vả lại, nếu nghe lời ông chủ Buchel, thì người ta chẳng thể phản đối ở hạng mục thú vật rất lạ thường này một tính cách đáng nghi, mập mờ. Một sự đa trị dị thường về quan điểm từng luôn luôn được hiển lộ trong cách dùng hết sức đa dạng mà người ta từng có vể các mẫu xa xỉ đó. Vào thời Trung cổ, chúng bắt buộc phải có mặt trong bản kiểm kê các bếp của nữ phù thủy cùng những hầm của nhà giả kim thuật và được dùng làm chỗ chứa rất hợp cho các thứ thuốc độc cùng bùa yêu; và cùng lúc, chúng tìm được việc cho mình trong sự thờ phụng thần linh, làm bình hương và hòm thánh tích. Biết bao nhiêu là yếu tố hợp vào với nhau ở đây - thuốc độc và vẻ đẹp, thuốc độc và ma thuật, nhưng cũng cả ma thuật và phụng vụ nữa! Nếu chúng tôi không nói ra những suy nghĩ ấy, thì ít nhất các bình luận của Jonathan Leverkühn cũng gợi ý chúng cho chúng tôi, theo lối mù mờ.

Về phần những ký hiệu thuộc kinh thánh không bao giờ để cho ông được nghỉ ngơi kia, người ta trông thấy chúng trên vỏ một loài nhuyễn thể tại New-Caledonia. Có kích cỡ trung bình và điểm sắc đỏ-nâu nhạt, chúng nổi bật lên trên một cái nền trắng nhờ. Những ký tự như thể được viết bằng bút chạy về phía rìa theo một sự trang trí tuyến tính thuần túy và trên phần lớn hơn cả nơi bề mặt phồng lên sự rối rắm tỉ mỉ của chúng mang lại cho chúng, rất rõ, vẻ ngoài của các biểu tượng có thể nhận biết. Trong chừng mực những gì tôi còn nhớ được, chúng bày ra một tương đồng lớn với những chữ viết phương Đông nguyên thủy, có lẽ là tiếng Aramaic cổ. Quả thật, từ thư viện thành phố của Kaisersaschern, khá phong phú, bố tôi mang đến cho bạn ông những quyển sách khảo cổ dâng tặng khả năng cho các tìm kiếm, các so sánh. Tất nhiên, những nghiên cứu đó chẳng dẫn tới bất kỳ kết quả nào hoặc, ít nhất, kết quả rối bời và vô nghĩa lý tới nỗi nó chẳng mang lại gì. Chẳng phải là không sầu muộn, Jonathan đồng ý với điều này lúc ông chỉ cho chúng tôi những ký hiệu đánh đố kia.

- Không thể nào, ông nói với chúng tôi, nhìn ra nổi nghĩa của chúng. Hỡi ôi! các bạn tôi, chuyện là như vậy đấy. Chúng trốn đi mất khỏi sự hiểu của chúng ta và bất hạnh làm sao chắc hẳn sẽ luôn luôn thế. Nhưng khi tôi nói: “chúng trốn mất”, thì cái đó chỉ đơn giản là ngược lại của: “chúng tự để lộ ra” và sẽ không bao giờ có ai làm được cho tôi tin rằng tự nhiên đã ghi khắc những con số này mà chúng ta thiếu mất chìa khóa lên vỏ của một trong các tạo vật của nó chỉ với mục đích trang trí cho nó. Sự trang trí và biểu nghĩa từng luôn luôn đi thành một cặp, những chữ viết cổ vừa được dùng làm trang trí lại vừa làm phương tiện biểu đạt. Nếu sự biểu đạt đối với chúng ta vẫn cứ mãi kín bưng, thì mâu thuẫn này không vì thế mà bớt chứa đựng một niềm hân hưởng.

Có phải ông nghĩ rằng nếu đó đúng là một ẩn ngữ, thì tức là tự nhiên có được một thứ ngôn ngữ riêng, có tổ chức? Bởi cần phải chọn ngôn ngữ nào trong số những gì mà con người đã tạo ra để diễn đạt đây? Ngay từ hồi đó, vẫn còn nhỏ, tôi đã hiểu rất rõ rằng tự nhiên ngoài con người thì mù chữ về yếu tính, trong mắt tôi chính điều này trao cho nó tính cách đáng lo lắng ở nó.

Đúng, ông bố Leverkühn là một người ưa kỳ bí và một nhà tư tưởng. Tôi đã nói điều này, xu hướng thích dò tìm của ông (trong chừng mực người ta có thể nói tới sự dò tìm về các mơ mẩn nhiều tính cách chiêm ngưỡng đơn giản) luôn luôn được hướng vào một phía xác định, thần bí hoặc nửa thần bí theo lối trực giác, về đó, dường như vậy, suy nghĩ của con người trong cuộc truy đuổi các bí ẩn tự nhiên gần như bị lôi kéo một cách định mệnh.

Việc công trình đầy táo bạo, thử thách tự nhiên, thúc đẩy nó đến các hiện tượng, “cám dỗ” nó bằng cách lột trần những thủ pháp của nó nhờ vào các thí nghiệm, việc toàn bộ những cái đó ở ngay gần kề thuật phù thủy, đã bước vào vương quốc của nó và tự tạo dựng một tác phẩm của “Kẻ Cám dỗ”, ấy là lòng tin đinh ninh của những thời kỳ đã biến mất; lòng tin đáng kính, theo tôi. Tôi những muốn biết người ta sẽ dùng ánh mắt nào, vào thời này, để nhìn con người ở Wittenberg, kẻ, Jonathan bảo cho chúng tôi, từng thực hiện, một trăm lẻ vài năm về trước, thí nghiệm về âm nhạc thuộc thị giác. Đôi khi chúng tôi có đặc quyền được dự vào những thử nghiệm thuộc loại đó. Trong số các dụng cụ vật lý hiếm hoi mà bố của Adrian sở hữu, có một miếng thủy tinh tròn gắn ở chính giữa vào một cái trục, trên đó cái phi thường diễn ra. Tấm kính được rắc cát mịn lên. Với một cây vĩ đàn cello cũ, ông bố Leverkühn cứa nhẹ vào rìa của nó từ trên xuống dưới. Chiểu theo những dao động mà ông tạo vào đó, thứ cát náo động trượt và lập trật tự thành những hình tượng và arabesque chuẩn xác và đa dạng đến dị thường. Thứ âm học thuộc thị giác này, nơi sự sáng sủa và điều bí ẩn, sự đúng luật và cái kỳ diệu hội vào nhau theo một cách thức hấp dẫn, chúng tôi thích vô cùng tận, bọn trẻ con chúng tôi, và cũng là nhằm tỏ ra thân ái với nhà thí nghiệm, chúng tôi thường cầu xin ông biểu diễn cho mình xem.

Ông có một khoái thú ngang bằng đối với đám hoa băng. Những ngày mùa đông, chừng các băng nhũ pha lê phủ đầy các cửa sổ nhỏ kiểu nông dân của Buchel, ông có thể bỏ nhiều tiếng đồng hồ chiêm ngưỡng cấu trúc của chúng, lúc thì bằng mắt trần, khi lại dùng kính lúp. Tôi thấy rất bị cám dỗ nói rằng toàn bộ hẳn sẽ hoàn hảo và người ta có thể chuyển sang chương trình nghị sự nếu các kết quả lúc nào cũng nằm gọn trong sự nghiêm ngặt đối xứng và có tính cách toán học chặt chẽ của những hình tượng. Nhưng các băng nhũ kia tái tạo thảm thực vật với một sự láo lếu ảo thuật gia nhất định: chúng giả vờ thật tuyệt, theo lối đầy quyến rũ, những cái lá dương xỉ, cỏ, đài hoa cùng tâm tràng hoa, chúng lao thân, thông qua các cách thức riêng của mình, băng giá, vào một dạng tài tử hữu cơ. Jonathan không chọn phe nào và cái lắc đầu có chút nghi ngại, nhưng đầy ngưỡng mộ, của ông cứ không ngừng. Những huyễn ảnh đó, ông tự hỏi, có đang bày ra các hình thức thực vật nhờ vào một hiện tượng tiền tượng hình hay bắt chước hay chăng? Không phải cái nào trong hai điều đó, chắc hẳn ông tự trả lời. Đó là những hình thành song song. Tự nhiên đầy mơ mộng và sáng tạo có cùng giấc mộng, ở đây ở kia, và nếu người ta có thể nói tới sự bắt chước, thì chắc chắn đó chỉ có thể là một sự bắt chước qua lại. Có phải nhìn thấy các nguyên mẫu nơi những đứa con của đồng cỏ chân thực, với cái cớ là chúng sở hữu một thực tại hữu cơ, và các bông hoa băng chỉ là những vẻ ngoài đơn giản? Tuy nhiên chúng không chảy ra từ một sự phức tạp kém hơn của các trùng hợp vật chất, so với cây cối.

Nếu tôi hiểu đúng ông chủ nhà của chúng tôi, vấn đề khiến ông bận trí là tính nhất thể của cuộc sống có hồn và cuộc sống hay được gọi là vô tri vô giác, ý nghĩ theo đó chúng ta phạm tội lỗi với cuộc sống vô tri những lúc chúng ta kẻ một đường phân cách quá nét giữa hai bên; trên thực tế, cái đường đó có thể vượt qua và nhìn chung chẳng hề có bất kỳ khả năng sơ đẳng nào tuyệt đối được dành cho các sinh thể và nhà sinh học không thể cũng nghiên cứu cả mô hình vô tri vô giác.

Quả thật theo cách thức gây rối trí nào mà những đường biên giới chồng lấn lên nhau, “giọt nước háu ăn” dạy cho chúng tôi điều đó, ông bố Leverkühn nhiều lần biểu diễn trò đút thức ăn trước mắt chúng tôi. Một giọt của bất kỳ cái gì mà người ta muốn, parafin, dầu ête, tôi không còn nhớ rõ lắm cấu tạo của nó nữa, clorofom chăng? một giọt, tôi xin nói, không phải là một con thú, thậm chí là ở trạng thái nguyên thủy, cũng không phải cả một a-míp. Người ta không chấp nhận việc nó thèm khát đồ ăn, rằng nó lưu giữ những gì mà nó thích và từ chối những gì không hợp với mình. Thế nhưng đấy lại chính là điều mà cái giọt của chúng tôi làm. Nó được treo lên, biệt lập trong một cốc nước nơi Jonathan đã đặt nó, chắc hẳn nhờ một cái kim mảnh. Sau đó ông dùng panh nhỏ gắp một tuýp thủy tinh nhỏ xíu, nói cho đúng là một sợi thủy tinh, trước đó đã nhúng vào gôm và đưa nó lại gần cái giọt. Can thiệp của ông chỉ gói gọn như vậy. Cái giọt làm nốt phần còn lại. Nó phóng vào bề mặt của cái kia một ụ nhỏ, một cái gì đó như một ngọn đồi đáp xuống, xuyên qua đó nó đón nhận vào mình cái gậy nhỏ, theo chiều dài. Chính nó duỗi dài ra theo chiều thẳng đứng, lấy hình thức của một quả lê nhằm đựng lấy hoàn toàn con mồi của mình và để cái đó không bị thò ra ngoài; rồi, tôi xin lấy danh dự mà đảm bảo, vừa tròn đi trở thành quả trứng trở lại, nó vừa khởi sự ngốn ngấu chỗ gôm bôi lên trên tuýp thủy tinh và nhập nó vào mình. Rốt cuộc quay trở lại hình cầu, nó đẩy về phía rìa của nó vật thể xa lạ kia, đã bị liếm và rửa sạch, và vứt bỏ vào nước vây quanh.

Hẳn tôi sẽ không thể khẳng định là mình thấy thích thú trước cảnh tượng ấy nhưng tôi xin thú nhận rằng nó thu hút tôi rất mạnh và chắc hẳn cả Adrian nữa, dẫu cậu rất bị cám dỗ phá lên cười trước những trưng bày thuộc loại đó và chỉ cố kìm do tôn trọng sự nghiêm trang của bố cậu. Xét hết nhẽ, người ta có thể thấy là rất hài cái giọt háu ăn; nhưng tôi cảm thấy một điều hoàn toàn khác ở trước một số sản phẩm tự nhiên khó lòng tin nổi và gây ảo giác mà ông bố đã nuôi được sau một sự vun trồng hết sức dị thường, mà ông cũng cho phép chúng tôi chiêm ngưỡng. Sẽ chẳng bao giờ tôi quên được chúng. Con tàu bằng pha lê chứa chúng được đổ đầy ba phần tư bằng một thứ chất lỏng hơi đọng bùn, xi li cát po tát chế thêm nước, và trên cái nền đầy cát náo động lên một phong cảnh nhỏ của cỏ màu sắc đa dạng, một thứ thực vật mơ hồ gồm các mầm xanh, lục và nâu, gợi nhớ tới tảo, nấm, pô líp, rêu, rồi đống vỏ sò, nhánh lúa mì, những cành cây nhỏ và cho tới tận các chi của con người - cảnh tưởng đáng lưu ý nhất mà tôi từng thấy trước mắt mình. Đáng lưu ý, ít vì dáng vẻ chắc chắn là rất dị thường và gây nhiều rối trí của nó thì ít hơn do bản tính sầu muộn một cách sâu sắc của nó. Quả thật, lúc ông bố Leverkühn hỏi chúng tôi nghĩ gì về cái đó, chúng tôi bèn rụt rè đáp rằng đấy có thể là những cái cây, nghe vậy ông phán: “Không, không hề đâu, chúng chỉ làm ra vẻ thôi; nhưng công lao của chúng không vì vậy mà nhỏ bớt đi. Thì chính sự thể chúng giả vờ nó và dồn hết sức để nỗ lực làm điều đó xứng với toàn bộ sự coi trọng của chúng ta.”

Ông hé lộ cho chúng tôi rằng những cái cây ấy có nguồn gốc tuyệt đối vô cơ, được hiện thực hóa nhờ các chất phát xuất từ hiệu bào chế “Các Tín sứ Trời cao”. Trước khi đổ vào đó thứ dung dịch lỏng, Jonathan đã gieo trên cát, dưới đáy chậu, nhiều mẩu pha lê - cromat po tát và xun phát đồng nếu tôi không nhầm; và từ cái mầm ấy đã nảy lên, dưới tác động của một tiến trình vật lý mà người ta gọi là “áp suất thẩm thấu”, một thứ thực vật đáng thương mà người nuôi nó đòi chúng tôi tình cảm thông với không ít nằn nì. Ông chỉ cho chúng tôi thấy những bắt chước sự sống đáng buồn kia khát ánh sáng, “thuộc mặt trời” như các môn khoa học tự nhiên nói. Ông bày cho chúng tôi xem bể cá dưới nắng, cẩn thận để ba trong số các vách của chúng lại trong bóng râm. Thế là, ôi phi thường làm sao, sau một khoảnh khắc ngắn, toàn bộ mớ họ hàng mập mờ, lũ nấm, cành của các pô líp dựng thẳng đứng, tảo và cây nhỏ, giống bào thai những chi của con người quay vòng vòng ở phía ánh sáng lọt vào; và trong một đà bật đầy hoài nhớ về phía sự nóng và niềm vui chúng bíu chặt lấy kính, dính vào đó.

- Tuy nhiên, chúng chết, Jonathan nói và ông trào nước mắt trong khi Adrian cố sức dằn tiếng cười rung người của mình.

Về phần mình, tôi để cho những người khác việc quyết định xem ở đó có gì để cười hay để khóc. Tôi sẽ chỉ nói độc một điều: những huyễn tưởng như vừa xong chỉ thuần túy là một trò chơi của tự nhiên và đặc biệt của tự nhiên bị con người cám dỗ theo lối chủ đích. Tại vương quốc đáng kính của các humaniora, người ta thoát được khỏi những thứ ma thuật rối bời kia.

 

IV

Vì chương trước đã bị phồng to lên ngoại cỡ, sẽ là tốt nếu tôi viết một chương khác nhằm vinh danh, bằng vài từ, bà chủ nhà ở Buchel, người mẹ yêu quý của Adrian. Có lẽ sự biết ơn mà người nào cũng cảm thấy cho tuổi trẻ của chính mình và cả các món ăn ngon lành mà bà đã phục vụ chúng tôi làm biến đổi đi hình ảnh ấy. Dẫu sao thì chưa từng bao giờ trong đời có người phụ nữ nào đối với tôi hấp dẫn hơn Elsbeth Leverkühn; và về con người đơn giản của bà, hoàn toàn không vương chút ngạo mạn nào về phía trí năng tính, tôi nói với một lòng kính trọng sinh ra từ lòng tin đinh ninh rằng thiên tài của người con trai có được là nhờ rất nhiều vào sự đều mạch sống của bà mẹ.

 

một phong cảnh

Goethe và thời Goethe

Wilhelm Meisters

Jena cuối thế kỷ mười tám

Hoffmann, Kleist và La Motte-Fouqué

Doktor Faustus

Mười bài cửa sổ

Kleist ở Thun

Hành khúc Radetzky

Những nỗi hoảng hốt của cậu học sinh Torless

Mährisch-Weisskirchen

Lỡ dở

Job

Wien & Berlin

Người kể

 Lịch sử (ngắn) văn chương Đức

Correspondence: Paul Celan và Ingeborg Bachmann

Cháu trai Wittgenstein

Goethe trết

Ba lối tới hồ

Wittgenstein, Bernhard và Bachmann

 

để đối chiếu

Johann Wolfgang von Goethe (1749–1832)
E. T. A. Hoffmann (1776–1822)

Friedrich de la Motte Fouqué (1777–1843)

Heinrich von Kleist (1777–1811)


Karl Kraus (1874–1936)
Thomas Mann (1875–1955)
Rainer Maria Rilke (1875–1926)
Robert Walser (1878
–1956)
Robert Musil (1880–1942)
Georg Lukács (1885–1971)
Walter Benjamin (1892–1940)
Joseph Roth (1894–1939)


Paul Celan (1920–1970)
Ingeborg Bachmann (1926–1973)
Thomas Bernhard (1931–1989)
 

một đối chiếu nữa

Hawthorne (1804–1864)
Edgar Allan Poe (1809–1849)

Thoreau (1817–1862)

Melville (1819–1891)

John Ruskin (1819-1900)
William James (1842–1910)

Henry James (1843–1916)

Robert Louis Stevenson (1850–1894)
Thorstein Veblen (1857–1929)

Joseph Conrad (1857–1924)
Edith Wharton (1862–1937)

Arnold Bennett (1867–1931)
Ford Madox Ford (1873–1939)
Gertrude Stein (1874–1946)

Ezra Pound (1885–1972)

Katherine Mansfield (1888–1923)
Jean Rhys (1890–1979)
C. S. Lewis (1898–1963)
 

Philip Roth (1933–2018)
Marilynne Robinson (1943)

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công