favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2024
Next

Mährisch-Weisskirchen

19/01/2025 19:00

Mährisch-Weisskirchen (Hranice): trường (trung học) quân sự mà nhân vật dẫn chuyện của Hành khúc Radetzky từng theo học. Cái tên ấy chỉ xuất hiện vài lần thoáng qua trong cuốn tiểu thuyết của Joseph Roth. Giờ đây, chỉ còn rất ít người biết về nó, nhưng nó từng là một trong những thiết chế (tuy không nằm ở façade) chẳng phải là không quan trọng của đế chế Áo-Hung. Một dạng vườn ươm, chỗ cho các thiếu sinh quân, những người sẽ trở thành quân nhân phục vụ cho nhà Habsburg. Một đế chế như vậy cần nhất là kỷ luật và trật tự: kỷ luật và trật tự toát lên từ mọi chi tiết nhỏ nhặt trong Hành khúc Radetzky, kể cả trong những vi phạm kỷ luật và trật tự.

Đế chế Habsburg gây ấn tượng mạnh về kỷ cương. Đến cả Paul Claudel cũng bình luận về điều này, và trong bình luận ấy người ta không khỏi thấy có một chút ngưỡng mộ của nhà văn Pháp. Một đặc trưng lớn của Đế chế (hình ảnh đúng nghĩa cuối cùng của nền quân chủ ở châu Âu, sụp đổ khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ) là hiện diện ngập tràn, đầy tính cách bao bọc, của Hoàng đế Franz Joseph Đệ nhất (Joseph Roth đã miêu tả điều đó rất đậm nét trong Hành khúc Radetzky). Franz Werfel, một nhà văn rất lớn của thời ấy (nhưng giờ đây không còn được biết mấy nữa) từng nói đại ý Đế chế nằm chính ở con người Hoàng đế. Chính vì vậy, khi Hoàng đế Franz Joseph băng hà (cộng thêm chuyện thái tử bị ám sát ở Sarajevo, không lâu trước đó - nguyên nhân trực tiếp của chiến tranh), Đế chế không còn lẽ sống.

Khó có gì hữu hiệu trong việc nhìn vào một thời đại hơn so với quan sát cuộc sống và cách tổ chức của các thiết chế thực sự có tác động mạnh lên tinh thần con người. Rất nhiều lời chứng mà ta có về cuộc sống học sinh nội trú đầy hà khắc, dẫu là từ Stefan Zweig hay từ Márai Sándor, cho thấy, vào quãng chuyển từ thế kỷ 19 sang thế kỷ 20, thiếu niên châu Âu con nhà biết đến một dạng cuộc sống nửa nghiêm ngặt lối tôn giáo nửa nhà binh. Những miêu tả về phương diện này giải thích không ít cho các câu chuyện (lớn) sẽ xảy ra sau đó.

Sự u uất do bị tách khỏi gia đình, ném vào một môi trường nhìn chung hà khắc, bạo lực liên miên giữa những đứa trẻ còn chưa lớn hẳn: ta có thể hình dung được, một cách sơ giản, cuộc sống học sinh nội trú qua những nét chính yếu.

Joseph Roth và Robert Musil từng rất tò mò về nhau. Roth trẻ hơn Musil nhiều, kém khoảng mười lăm tuổi (và chết trước Musil). Robert Musil, sinh năm 1880, có mấy đàn anh ở Wien hơn mình năm, bảy tuổi: cả Hugo von Hofmannsthal, Karl Kraus và Arnold Schönberg đều sinh năm 1874. Musil sẽ tỏ ra hết sức mỉa mai những đàn anh ấy, nhất là Hofmannsthal, tức là có thái độ ngược lại với một nhân vật lớn cùng thời khác, Hermann Broch. Soma Morgenstern, một người bạn của Joseph Roth, đã hẹn để Roth gặp Musil tại Wien, và về sau kể lại câu chuyện này. Đấy là cuộc gặp của hai con người cùng hết sức quan tâm đến đoạn cuối của Đế chế Habsburg, tất nhiên là với các viễn kiến hoàn toàn khác nhau.

Robert Musil mới là người từng học ở Märish-Weisskirchen. Những nỗi hoảng hốt của cậu học sinh Törleß kể lại cuộc sống ở đó. Ở tuổi hai mươi, chưa thực sự trở thành nhà văn (Musil học toán và sau đó, để thoát khỏi con đường binh nghiệp, trở thành kỹ sư), có thời điểm Musil định cho một người bạn nhà văn (theo tự nhiên luận) chủ đề cuộc sống nội trú tại một ngôi trường như Märish-Weisskirchen. Nhưng rồi, vài năm sau, Musil đã tự tay viết nó - cũng cần phải nói, người bạn của Musil đã tỏ ra không mấy mặn mà nhận lấy món quà: câu chuyện khiến ta nhớ tới George Du Maurier từng định tặng cho Henry James chủ đề một cuốn tiểu thuyết về kỹ thuật dịch chuyển trong giấc mơ, nhưng James từ chối, và Du Maurier đã tự viết nó, và vậy là văn chương có thêm một kiệt tác, Peter Ibbetson.

Tại sao lại có cái tên "Törleß" (Törless)? "Tor" là cái cửa, còn "less" dường như là tiếng Anh. Cái tên đó rất có thể muốn nói "Không có cửa". Ta nhớ đến La Porte étroite của André Gide: cả một thế hệ, cả một thời đại hoảng loạn vì sự không có cánh cửa nào, nếu có thì cũng rất hẹp. Cuốn tiểu thuyết về Törleß được in khi Musil mới 26 tuổi. Tuy còn sống đến năm 1942, đây chính là thành công duy nhất trong cuộc đời Robert Musil. Đặc biệt, khi Die Verwirrungen des Zöglings Törless vừa in vào năm 1906 thì trên tờ Der Tag ra ở Berlin nhà phê bình Alfred Kerr đã viết bài bình luận nó, cho thấy một cái nhìn thấu đáo và tinh tường hiếm có. Giờ đây, người ta tự hỏi, cuốn sách có hay không một chiều tiên tri, khi cho thấy mentality báo trước Nazi ở các cậu bé tại sphere của văn hóa và ngôn ngữ Đức. Điều tương tự cũng được đặt ra nếu đọc những cuốn tiểu thuyết ngắn mà Joseph Roth viết vào thời điểm ngay sau Thế chiến thứ nhất. Tất nhiên, những điều như thế này quá đậm tính cách a posteriori nên chẳng mấy đáng tin.

Ở trường nội trú trong câu chuyện, cậu bé Törleß có một chấn động mạnh, khi đọc Kant. Bản thân Robert Musil - nhưng đó là khi đã chuyển sang con đường kỹ sư - gặp chấn động lúc tìm ra Nietzsche.

Nhưng chuyện không đơn giản như vậy: chính Robert Musil phủ nhận mình viết về Märish-Weisskirchen. Thậm chí, vài miêu tả (rất ít) khung cảnh của trường cũng rất khác so với thực tế. Musil đã cố tình biến Märish-Weisskirchen thành một cái gì đó khác hẳn. Các ngóc ngách bí hiểm (rất nhiều) ở bên trong ngôi trường càng cho thấy đây là sản phẩm của trí tưởng tượng ở Musil. Nói một cách khác, đã có những transposition quan trọng. Nhưng vậy thì mới là văn chương (mà không phải hồi ký).

Những nỗi hoảng hốt của cậu học sinh Törleß trở thành một trong những cuốn tiểu thuyết lớn nhất lấy chủ đề sự lớn lên của các cậu bé, nhìn vào cái giai đoạn đối với nhiều người giống như một vết thương vĩnh viễn không bao giờ lên sẹo. Nhất là, tông giọng của Robert Musil, cái âm sắc vô cùng đặc biệt ấy - nó sẽ lên tới đỉnh cao ở Người không phẩm chất - đã có thể được nhận ra thấp thoáng trong cuốn tiểu thuyết viết hồi còn trẻ này.

Nhưng, Märish-Weisskirchen, ngôi trường ấy, thực sự như thế nào?

Nó nằm trên một ngọn đồi trồng nhiều cây, nhìn xuống một thung lũng rộng có dòng sông chảy qua và có nhiều hào nước vây quanh.

Để biết về Märish-Weisskirchen, ta lại cần phải đọc, chẳng hạn, một cuốn sách tiểu sử về Rilke (Rilke cũng từng là học sinh của trường, rời khỏi đó vào năm 1891, với cái cớ là lý do sức khỏe). Trong cuốn sách ấy (của Ralph Freedman), ta có thể thấy miêu tả sau đây:

"Tòa nhà chính gồm ba tầng gác và nhiều cửa lớn. Một sảnh thanh lịch trang trí nhiều gia huy và biểu hiệu. Một sảnh nhỏ sau đó dẫn tới các giảng đường rất lớn. [...] Thư viện gồm sáu trăm quyển, trong số đó không chỉ có các cuốn sách cổ điển lớn như tác phẩm của Goethe và Schiller, mà cả những tác giả Đức và Áo không lừng danh bằng. [...] Các hành lang dài nối những phòng học vào nhà ăn, nhà hát và nhiều không gian chung khác."

Cao Việt Dũng

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công