favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2024
Next

Mallarmé: Giao hưởng văn chương

14/01/2025 20:45

Mấy năm ngay trước khi qua đời, Charles Baudelaire (thơ của Baudelaire thì đúng hơn) rốt cuộc cũng đã tìm được những người (rất ít) hiểu mình, và có cùng tầm vóc: Paul Verlaine và nhất là Stéphane Mallarmé. Hậu thế (huy hoàng nhất mà một nhà thơ có thể có) của Baudelaire đã được đảm bảo, cho dù cuộc đời nhà thơ cay đắng đến mức nào: Catulle Mendès kể một câu chuyện nổi tiếng - một đêm Mendès thấy Baudelaire lỡ độ đường nên mời về nhà, và suốt đêm Baudelaire đã than thở về số kiếp, nhất là về sự thể suốt đời mình không kiếm nổi đến một đồng franc mỗi ngày; cả một cuộc kế toán bi thương khuya khoắt. Nhà thơ bị nguyền rủa ("maudit": đây là từ của Verlaine) ấy sẽ giành được nhiều vinh quang nhất. Mallarmé, đến lượt mình, cũng có một cuộc đời nghèo khổ, và còn đẩy mức độ không được hiểu lên một mức có lẽ cao hơn nữa: thơ của Mallarmé quá khó (và cũng không chỉ thơ). Gần như mọi điều mà thơ của thế kỷ 20 tạo ra đều đã nằm sẵn trong vision của Mallarmé. Còn rất trẻ, mới ngoài hai mươi tuổi, Mallarmé viết những lời ca ngợi ba nhà thơ mà mình ngưỡng mộ, trong một bản giao hưởng.

 

 Giao hưởng văn chương

- Mallarmé

I

Nàng Muse hiện đại chủ về Bất lực, từ lâu mi cấm ta sờ vào kho báu thân thuộc các Nhịp, và kết cho ta (khổ hình yêu kiều) cái án chỉ còn được đọc lại - cho tới ngày nào mi bọc ta vào tấm lưới không thể cứu vãn của mi, nỗi buồn chán, lúc đó mọi sự sẽ kết thúc - các bậc thầy bất khả xâm nhập mà vẻ đẹp làm ta tuyệt vọng; kẻ thù của ta hỡi, và thế nhưng cũng lại là nàng phù thủy ban những thức uống xảo trá cùng các say sưa sầu muộn, ta đề tặng cho mi, như một sự nhạo báng hoặc - ta có biết được điều ấy chăng? - như một món thề nguyền tình yêu, vài dòng này của cuộc đời ta, đã được viết vào những giờ độ lượng nơi mi không truyền cho ta niềm căm hận sự sáng tạo và tình yêu khô cạn cái hư vô. Mi sẽ khám phá ở đây các hân hưởng của một tâm hồn thụ động thuần túy vẫn mới chỉ là phụ nữ, và có lẽ ngày mai sẽ thành thú vật.

Đây là một trong những buổi sáng ngoại lệ ấy, nơi tinh thần tôi, theo lối mầu nhiệm được rửa sạch khỏi các hoàng hôn nhợt màu của cuộc sống thường nhật, thức dậy tại Thiên đường, quá đẫm sự vô tận thành thử chẳng buồn tìm một hân hưởng nào, mà nhìn ra xung quanh với một sự ngây thơ dường chưa từng bao giờ biết đến lưu đày. Toàn bộ những gì vây quanh tôi đã muốn phủ trang phục lên sự thuần khiết của tôi; chính bầu trời cũng không nghịch lời tôi, và thiên thanh của nó, từ đã lâu không gợn chút mây, lại còn đánh mất đi sự mỉa mai nơi vẻ đẹp của nó, thứ trải rộng ra xa xanh đến giai kiều. Giờ cụ thể, mà tôi phải kéo dài trạng thái được nhận hồng ân với lại càng ít lơ là hơn vì ngày nào tôi cũng chìm vào một nỗi buồn chán tàn nhẫn hơn. Trong mục đích đó, tâm hồn bị nối lối quá mạnh vào Ngu xuẩn trần thế, nhằm trì giữ tôi nhờ một mơ mẩn cá nhân ở mức cao ngang một thứ bùa mà tôi sẵn lòng trả bằng tất tật các năm của đời tôi, tôi cầu cứu Nghệ thuật, và tôi đọc những câu thơ của Théophile Gautier dưới chân Vénus vĩnh cửu.

Rất sớm một hiển dung khó nhận biết diễn ra trong tôi, và cảm tri về sự nhẹ dần dà hòa tan thành một cảm tri về hoàn hảo. Toàn bộ con người tinh thần của tôi - kho báu thật sâu của các tương ứng, sự hòa nhau thiết thân của các màu, kỷ niệm về nhịp từ trước, và khoa học huyền bí về Lời - được vời về, và toàn bộ quẫy lên, dưới tác động của thứ thơ hiếm mà tôi triệu tới, với một tổng thể của một sự chuẩn xác tuyệt diệu đến mức từ các cuộc kết hợp của nó sinh ra sự sáng suốt duy nhất.

Giờ thì viết gì đây? Viết gì, bởi vì tôi đã không muốn sự say, thứ đối với tôi thật thô thiển và như một lời sỉ nhục nhằm vào sự sung sướng to lớn của tôi? (Người ta cần phải nhớ, rằng tôi không tận hưởng, mà tôi sống trong vẻ đẹp.) Hẳn thậm chí tôi sẽ còn không ca ngợi sự đọc đầy cứu rỗi của tôi, dẫu sự thật là một bài ca lớn lao chui ra từ lời thú nhận ấy, dẫu nếu không có nó hẳn tôi sẽ không có khả năng giữ được một giây phút nào hòa âm siêu nhiên nơi tôi nấn ná: và tên phụ việc trần thế khác nào đây, thông qua cú sốc của tương phản hoặc thông qua một kích thích xa lạ, lại chẳng dữ dội phá hủy đi một sự cân bằng không thể thốt ra lời nhờ đó tôi lạc vào sự thánh thần? Vậy là tôi chỉ còn có thể làm một điều là im miệng - không phải vì tôi thấy thích thú trong một phấn hứng cận kề với sự thụ động, mà vì ở đây giọng nói con người là một nhầm lẫn, như cái hồ, bên dưới thiên thanh bất động mà trăng trắng các buổi sáng mùa hè cũng không vấy lên được, chỉ làm mỗi một việc là phản chiếu, với một niềm ngưỡng mộ câm lặng mà hẳn chỉ một lời thì thầm khoái trá mới làm khuấy động bạo tay. Tuy nhiên - ở bờ cặp mắt bình thản của tôi ứ lên một giọt nước mắt mà những kim cương nguyên thủy không đạt tới nổi độ cao quý - đấy có phải là một sự khóc vì nhục cảm tuyệt diệu? Hoặc, có lẽ, toàn bộ những gì có ở phương diện thần thánh và ngoài trần thế ở tôi đã được gọi giống một mùi hương bởi sự đọc quá trác tuyệt kia? Dẫu nó sinh ra từ nguồn nào, tôi để cho giọt nước mắt này, trong suốt như giấc mơ tỉnh của tôi, kể rằng nhờ thơ ấy, vốn dĩ sinh ra từ chính nó và đã tồn tại trong thi phổ vĩnh cửu của Lý tưởng của mọi thời, trước sự trồi lên hiện đại của nó khỏi bộ óc của nghệ sĩ toàn hảo, một tâm hồn ngạo nghễ bằng cú đập cánh tầm thường của một niềm hào hứng con người có thể đạt đến ngọn cao nhất của thanh thản nơi vẻ đẹp cướp chúng ta đi.

II

Mùa đông, khi nỗi đờ đẫn khiến tôi mệt nhoài, tôi đắm mình đầy hân hoan vào những trang yêu quý của Ác Hoa. Quyển Baudelaire của tôi chỉ vừa mới mở ra, là tôi đã bị hút vào một phong cảnh đáng kinh ngạc, nó sống trước ánh mắt với cường độ của những phong cảnh mà thứ thuốc phiện sâu sắc tạo ra được. Trên cao kia, và nơi chân trời, một bầu trời bợt bạt vì buồn chán, với những đường toạc màu xanh mà Cầu nguyện bị phát vãng đã làm ra. Trên đường, thứ thực vật duy nhất, trần mình các thứ cây hiếm hoi mà vỏ đau đớn là sự giăng mắc chằng chịt các dây thần kinh bị lột trần: sự tăng trưởng hiển hiện của chúng được đi kèm không hồi kết, mặc cho sự bất động lạ thường của không khí, bởi một lời than van xé lòng giống lời than của các cây violon, nó, tới đầu mút các cành, run lên ở những cái lá nhiều nhạc. Đến nơi, tôi nom thấy các cái bồn ủ dột được bố trí như những bồn hoa của một khu vườn vĩnh cửu: trong thứ đá granit đen các gờ của chúng, đan kết các đá quý Ấn Độ, ngủ một thứ nước chết và có tính cách kim loại, với các vòi nước bằng đồng nặng nề nơi buồn bã rơi một tia kỳ quặc và đầy quyến rũ những thứ héo tàn. Chẳng hề có hoa, dưới đất, xung quanh - chỉ có, thảng hoặc, vài cái lông cánh của những linh hồn bị đọa. Bầu trời, mà rốt cuộc tia thứ hai rọi sáng, rồi các tia khác, chậm chạp đánh mất đi vẻ bợt bạt của nó, và đổ sự nhợt nhạt xanh của những ngày đẹp trời tháng Mười xuống, và rất sớm, nước, đá granit đen như mun cùng những đá quý cháy bừng lên như vào các buổi tối những ô cửa sổ các thành phố: đấy là mặt trời lặn. Ôi diệu kỳ, một thứ ửng đỏ dị thường, quanh đó tỏa rộng một mùi gây say của những mái tóc bị lay mạnh, tuôn đổ xuống từ bầu trời đã tối lại! Đấy có phải là một đợt lở các bông hoa hồng tồi tệ có tội lỗi thay cho mùi hương - Hay là son phấn? - Hay là máu? - Cảnh mặt trời lặn lạ thường! Hay dòng thác kia chỉ là một dòng sông nước mắt ánh tía lên do pháo hoa của tên hề Satan đang náo nhiệt ở đằng sau? Hãy nghe xem sao mà cái đó rơi xuống với một tiếng ồn dâm dật của các nụ hôn... Rốt cuộc, bóng tối như mực đã xâm chiếm toàn bộ nơi người ta chỉ nghe thấy bay vọt lên tội ác, sám hối và Cái chết. Thế là tôi che mặt đi, và những tiếng nức nở, được giật ra từ tâm hồn tôi ít bởi cơn ác mộng ấy hơn so với bởi một cảm tri chua cay về lưu đày, băng ngang nỗi im lìm đen. Vậy thì tổ quốc là gì đây?

Tôi đã khép quyển sách và mắt lại, và tôi tìm tổ quốc. Trước mặt tôi dựng lên hiện hình của nhà thơ thông thái chỉ nó cho tôi bằng một khúc ca hùng tráng thanh mảnh một cách thần bí như một bông bách hợp. Nhịp của khúc ca đó giống hình hoa hồng của một nhà thờ cổ: giữa sự trang trí của đá cũ, mỉm cười trong một màu xanh thần tiên dường là lời cầu nguyện chui ra từ những con mắt xanh của chúng thì đúng hơn là từ thanh thiên thô lậu của chúng ta, các thiên thần trắng giống lũ bánh thánh hát nỗi phấn khích của mình, đệm bằng những cây đàn hạc bắt chước các cặp cánh của chúng, chũm chọe bằng vàng tự nhiên, những tia thuần khiết uốn éo lại thành các kèn trumpet, cùng những cái trống nơi rền lên sự trinh trắng của các sấm trẻ: những nữ thánh mang cành cọ - và tôi chẳng thể nào nhìn cao hơn những đức hạnh thần học, vì sự thánh thì không thể nói thành lời; nhưng tôi nghe thấy bùng lên lời ấy theo một cách thức vĩnh cửu: Alleluia!

III

Nhưng chừng tinh thần tôi không được cấp cho một sự thăng trong các bầu trời tinh ròng, chừng tôi mệt vì cứ phải nhìn nỗi buồn chán trong thứ kim loại tàn nhẫn của một tấm gương và, tuy thế, vào những giờ nơi tâm hồn có nhịp muốn các câu thơ và khao khát lạc thú cổ xưa của khúc ca, thì nhà thơ của tôi, ấy là Théodore de Banville thần thánh, vốn dĩ không phải một con người, mà chính là giọng của cây đàn lya. Với ông, tôi cảm thấy thơ làm tôi say - cái mà tất tật các dân tộc từng gọi là thơ - và, mỉm cười, tôi uống thứ nước thần tại Olympe của trữ tình.

Và khi tôi khép sách lại, thì đó không còn là thanh thản hay thẫn thờ nữa, mà là điên cuồng vì yêu, và đầy tràn, và mắt ngập những giọt nước mắt lớn của dịu dàng, với một niềm kiêu ngạo lớn vì được là người. Toàn bộ những gì có ở phương diện hào hứng thần tửu nơi tôi và ở phương diện lòng tốt thuộc nhạc, cao quý và giống với các vị thần, đều hát, và tôi có niềm hứng khởi rạng rỡ của nàng Muse! Tôi yêu các bông hoa hồng, tôi yêu thứ vàng của mặt trời, tôi yêu những tiếng nức nở hài hòa của các phụ nữ tóc dài, và tôi những muốn trộn tất tật vào với nhau trong một nụ hôn thuộc thơ!

Đấy là vì con người ấy trình hiện, vào thời chúng ta, nhà thơ, nhà thơ vĩnh cửu và cổ điển, trung thành với nữ thần, và sống giữa vinh quang bị quên mất của các anh hùng và các vị thần. Lời của ông là, không điểm kết, một khúc hát của hào hứng, từ đó vươn lên âm nhạc, và tiếng hét của tâm hồn say với toàn bộ vinh quang. Những gió hắc ám nói trong nỗi sợ sệt của đêm, các vực thẳm đẹp đẽ của tự nhiên, ông không muốn nghe thấy chúng, cũng không phải nhìn thấy chúng: ông bước đi ở tư cách nhà vua băng ngang sự mê ly thuộc thiên đường của kỷ nguyên vàng, vinh danh vĩnh viễn sự cao quý của những tia nắng cùng màu đỏ các bông hồng, lũ thiên nga cùng bồ câu, và màu trắng ngời sáng của bông bách hợp non - mặt đất sung sướng! Đã phải như vậy, cái kẻ đầu tiên từng nhận từ các vị thần cây đàn lya và ngâm bài ode chói lọi trước ông tổ Orphée của chúng ta. Cũng như chính Apollon.

Do đó tôi đã lập ra trong giấc mơ của mình nghi lễ cho một khải hoàn mà tôi thích gợi lên vào những giờ của rực rỡ và của thần tiên, và tôi gọi nó là bữa tiệc của nhà thơ: người được chọn là con người mang cái tên tiền định kia, hài hòa như một bài thơ và quyến rũ như một décor. Trong một cuộc phong thần, ông ngự trên một cái ngai bằng ngà, phủ lên mình thứ màu tía mà chỉ mình ông được phép mang, và vầng trán được đội vương miện những cái lá khổng lồ của cây nguyệt quế ở Turbie. Ronsard hát các bài ode, còn Vénus, vận thanh thiên chui ra từ mái tóc của nàng, rót cho ông tiên tửu - trong khi dưới chân ông vang rền những nức nở của một dân chúng đầy lòng biết ơn. Cây đàn lya vĩ đại phấn khởi lên nơi hai bàn tay uy nghiêm của ông.

Cao Việt Dũng dịch

cùng hội cùng thuyền

Baudelaire & Poe

Baudelaire & De Quincey

Baudelaire & Flaubert

còn gì nữa nhỉ?

 

à, nhớ ra rồi, đây

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công