Job
Job. Tiểu thuyết về một người thuần hậu chắc chắn là cuốn tiểu thuyết gây nhiều cảm động và đau đớn nhất của Joseph Roth. Không nhiều tính cách anh hùng ca như Hành khúc Radetzky, cũng không thiên về miêu tả không khí và tâm trạng như Hotel Savoy, tiểu thuyết Job là khoảnh khắc Roth nhìn sâu vào số phận của người Do Thái, nơi sự bất hạnh được miêu tả kỹ càng nhưng không vương chút ủy mị nào, và cũng đầy chất thơ.
Đoạn trích dưới đây cho thấy bước ngoặt của gia đình Mendel Singer, những người Do Thái nghèo khổ sống ở Đông Âu. Một người con trai của họ đã sang Mỹ và tỏ ý muốn đưa họ sang đó cùng. Mendel và vợ không định làm theo ý người con, nhưng những gì Mendel phát hiện về Mirjam, đứa con gái (một thiếu nữ "giống con linh dương non") sẽ làm thay đổi mọi điều.
Một số nhân vật của Roth cũng xuất hiện trong nhiều cuốn sách, chẳng hạn như Kapturak có cả ở Hành khúc Radetzky lẫn Job.
Mendel đi ra đứng ở chỗ cửa sổ. Ông nhìn thấy bóng đen đang bò đi của buổi tối càng lúc càng leo lên cao hơn trên tường. Ông ngẩng đầu lên và ngắm chỏm mái nhà đối diện, nó được phủ một làn ánh sáng vàng. Ông đứng một lúc lâu như vậy, với ở sau lưng căn phòng, vợ ông, Mirjam con gái ông và Menuchim, đứa con trai bị bệnh của ông. Ông cảm thấy hiện diện của tất tật và đoán được từng cử động của họ. Ông biết rằng Deborah đang đặt đầu lên bàn để khóc, Mirjam thì quay mặt về phía bếp lò và chốc chốc hai vai lại run lên cho dù nó không khóc. Ông biết rằng vợ ông chỉ chờ tới khoảnh khắc ông cầm lấy quyển sách cầu nguyện để đi đến nhà cầu nguyện và đọc lời cầu nguyện buổi tối tại đó, còn Mirjam thì sẽ vớ lấy cái khăn san màu vàng để lao sang nhà hàng xóm. Lúc đó hẳn Deborah sẽ vùi tờ mười đô la, mà bà vẫn cầm ở tay, xuống bên dưới một thanh lát sàn. Ông biết thanh lát ấy, Mendel Singer. Ngay khi ông đặt chân lên đó, nó đã hé lộ bí mật của mình bằng một tiếng cọt kẹt, và âm thanh ấy nhắc ông nhớ đến tiếng gầm gừ của lũ chó mà Sameschkin buộc trước chuồng ngựa của ông ta. Ông biết thanh lát ấy, Mendel Singer. Và để khỏi bị buộc phải nghĩ tới lũ chó đen của Sameschkin, chúng gợi lên ở ông một nỗi e sợ lạ thường, mà ông coi là các hiện thân sống động của tội lỗi, ông tránh bước phải thanh lát đó, trừ vào các khoảnh khắc nơi ông không nhớ và nơi, đang say sưa giảng bài, ông đi đi lại lại trong phòng. Khi trông thấy dải mạ vàng của nắng trở nên càng lúc càng mảnh và trượt từ chỏm nhà xuống mái, và từ đó xuống ống khói trắng, ông nghĩ mình cảm thấy, lần đầu tiên trong đời, bước đi im lìm và xảo quyệt của các ngày, mưu mẹo đầy lừa phỉnh của sự luân phiên vĩnh cửu ngày và đêm, mùa hè và mùa đông, và sự trôi chảy của cuộc đời, lúc nào cũng ngang bằng, dẫu cho tất tật những nỗi hoảng sợ được đợi và tất tật những nỗi hoảng sợ bắt chợt ta. Cái đó chỉ có ở trên các bờ đầy ngập sự đa dạng, và Mendel chẳng làm gì khác ngoài đi dọc những bờ ấy. Một người từ Mỹ tới hiện ra, cười, mang đến một bức thư, những đồng đô la và những bức ảnh chụp Schemarjah, và lại biến mất vào các vùng xa xôi phủ voan che. Những đứa con trai của ông biến mất: Jonas thì đang phục vụ Sa hoàng ở Pskov và không còn là Jonas nữa. Schemarjah tắm trên những bờ của đại dương và không còn tên là Schemarjah nữa. Mirjam nhìn người đàn ông Mỹ đi xa khỏi và muốn tới lượt mình cũng đến Mỹ. Chỉ Menuchim vẫn là cái mà nó vốn dĩ kể từ ngày sinh ra đời: một phế nhân. Và chính Mendel Singer vẫn là cái mà ông từng luôn luôn vốn dĩ: một ông thầy giáo.
Ngõ hẹp đã tối hoàn toàn và cùng lúc sôi động lên. Người vợ to béo của ông thợ kính Chaim và người bà chín mươi tuổi của anh thợ sắt Jossel Kopp, chết đã từ lâu, mang ghế của họ ra khỏi nhà kê trước cửa để ngồi và tận dụng sự mát mẻ của cái giờ chiều tối. Đen và vội, những người Do Thái mau chóng đi đến nhà cầu nguyện, vừa đi vừa thì thào những lời chào mau lẹ. Mendel Singer bèn ngoái đầu nhìn vào trong phòng, ông muốn tới lượt mình lên đường. Ông đi qua bên cạnh Deborah, mà cái đầu vẫn đặt lên bàn cứng. Khuôn mặt của bà, mà Mendel không thể chịu đựng được nữa đã từ nhiều năm nay, giờ đây vùi xuống, như thể được khảm vào thứ gỗ cứng, và bóng tối khởi sự lấp đầy phòng cũng phủ lên sự cứng rắn và sự rụt rè của Mendel. Bàn tay ông lướt qua, thật chóng vánh, cái lưng rộng của vợ, thứ da thịt ngày xưa đối với ông từng thân thuộc kia, giờ đây thật xa lạ. Bà đứng dậy và nói với ông: "Ông đi cầu nguyện!" Và vì đang nghĩ đến một chuyện khác, bà nhắc lại, giọng xa vắng, câu nói đó, biến tấu nó đi: "Vậy là ông đi cầu nguyện đấy!"
Mirjam, đã quàng cái khăn san màu vàng, rời khỏi nhà cùng lúc với bố cô và đi sang nhà hàng xóm.
Đó là tuần đầu tiên của tháng Av. Những người Do Thái tụ tập lại sau lời cầu nguyện buổi tối để chào trăng mới, và vì đêm rất dễ chịu, nó là một niềm khuây khỏa sau sự nóng nực của ban ngày, họ lại càng sẵn lòng nghe theo lời trái tim nhiều lòng tin của mình hơn so với thường lệ, cũng như nghe lời điều răn thần thánh ra lệnh cho họ phải chào sự tái sinh của trăng ở ngoài trời, tại một nơi quang quẻ phía trên đó bầu trời trải rộng cái vòm của nó rộng rãi hơn và thoáng đãng hơn so với phía bên trên các ngõ hẹp của thành phố nhỏ. Và họ khẩn trương lên, câm lặng và đen kịt, các nhóm nhỏ mất trật tự, để đi tới đứng đằng sau những ngôi nhà, họ nhìn thấy khu rừng xa xa, nó cũng đen và im hệt như họ, nhưng vĩnh cửu trong sự thường trực cắm rễ sâu của mình, họ nom thấy những tấm màn của đêm chăng ra phía bên trên các cánh đồng rộng lớn và, rốt cuộc, họ trở nên bất động. Họ ngẩng đầu lên nhìn trời và tìm đường cong nhuốm bạc của vì tinh tú mới, hôm nay nó được sinh ra trở lại thêm một lần nữa, như vào ngày nó được tạo ra. Họ tập hợp lại thành một nhóm đặc kín, mở những quyển sách cầu nguyện của mình ra, các trang ánh lên một lóe trắng, những chữ nhiều góc cạnh được họa ra, màu đen, trước những cặp mắt của họ trong sự sáng sủa phớt xanh của đêm, và họ khởi sự thì thầm lời chào của họ với vầng trăng và đung đưa thân người trên từ trước ra sau, thành thử họ như thể bị lay động bởi một cơn bão vô hình. Họ đung đưa mỗi lúc một nhanh hơn, họ cầu nguyện bằng giọng càng lúc càng lớn hơn, và với một sự nồng nhiệt như chiến binh họ tung lên trời xa những lời của họ, từ nơi khác đến. Mặt đất trên đó họ đang ở đối với họ thật xa lạ, khu rừng đang chăm chăm nhìn họ thì thù địch với họ, tiếng sủa của lũ chó mà họ đã đánh thức thính giác đầy nghi ngại chất đầy niềm căm hận, và chỉ mặt trăng, hôm nay nó sinh ra tại thế giới này giống trên mặt đất của cha ông họ, đối với họ là thân thuộc, cũng như Đức Chúa, Người canh thức khắp nơi, ở tổ quốc của họ và tại chốn lưu đày.
Họ kết thúc lời cầu phước bằng một tiếng "amen" vang dậy, giơ tay về phía nhau và chúc nhau một tháng sung sướng, sự thịnh vượng cho công việc làm ăn của họ và sức khỏe cho những người ốm. Họ tản mát đi, người nào đi về nhà người nấy, biến mất vào các ngõ đằng sau những cánh cửa nhỏ nơi các ngôi nhà nhỏ lung lay của họ. Tại đó chỉ còn lại một người Do Thái duy nhất, Mendel Singer.
Các bạn đồng hành của ông hẳn mới chỉ đi khỏi vài phút trước đó, nhưng ông thấy dường mình đã ở đây được cả tiếng đồng hồ rồi. Ông hít lấy sự bình yên nguyên vẹn của tự do, đi vài bước, cảm thấy mệt, muốn nằm duỗi ra xuống đất và thấy sợ mảnh đất chưa biết và tất tật lũ giòi bọ nguy hiểm mà rất có vẻ nó chứa chấp. Đứa con trai mà ông đã đánh mất, Jonas, quay trở lại trong tâm trí ông. Kể từ nay Jonas ngủ tại một doanh trại, trên đệm rơm, trong một cái chuồng gia súc, có lẽ là bên cạnh lũ ngựa. Thằng con trai Schemarjah của ông thì sống bên kia biển. Đứa nào xa hơn, Jonas hay Schemarjah? Ở nhà Deborah đã chôn đô la, còn Mirjam lúc này đang kể cho những người hàng xóm câu chuyện về chuyến viếng thăm của người đàn ông Mỹ.
Vầng trăng khuyết trẻ trung đã tỏa một luồng sáng mạnh điểm bạc, nó trườn xuyên qua đêm, đi theo sau, đầy trung thành, là ngôi sao sáng nhất trên trời. Đôi khi lũ chó hú lên và làm Mendel sợ. Những tiếng sủa của chúng xé toạc sự yên bình của mặt đất và làm tăng nỗi lo lắng của Mendel. Dẫu đang chỉ ở cách các ngôi nhà của thành phố nhỏ có năm phút, ông thấy dường mình cách xa vô tận khỏi thế giới nơi những người Do Thái sống, cô độc không bút nào tả xiết, bị vây quanh bởi các hiểm nguy đầy đe dọa và thế nhưng không tài nào lên đường quay về được. Ông ngoảnh đầu nhìn về phía Bắc: ở đó, khu rừng đã sống động lên nhờ hơi thở u tối của nó. Bên phải, các đầm lầy trải rộng trên nhiều verste, điểm xuyết những cây liễu ánh bạc. Bên trái, các cánh đồng bị phủ lên những tấm voan ô-pa-lin. Đôi khi Mendel nghĩ mình nghe thấy một âm thanh con người phát xuất từ một hướng không thể xác định nổi. Ông nghe thấy những người ông quen đang nói, và ông thấy dường quả thật mình hiểu họ. Rồi ông nhớ ra rằng ông từng nghe thấy những lời đó rồi, cách đã lâu. Ông hiểu rằng ông đang không làm gì khác ngoài lại nghe thấy chúng, rằng hết sức đơn giản đó chỉ là vọng âm của chúng, thứ đã đợi thật lâu trong ký ức ông.
Đột nhiên một tiếng xào xạc vang lên ở bên trái, trên cánh đồng lúa mì, dẫu chẳng luồng gió nào khởi lên. Tiếng xào xạc càng lúc càng tiến lại gần hơn. Giờ đây Mendel có thể trông thấy những bông lúa mì, cao ngang người, lay động, hẳn có một người đang luồn lách trong đó, thậm chí một con thú khổng lồ, một con quái vật. Chạy đi hẳn là việc nên làm, nhưng Mendel cứ ở lại mà chờ và chuẩn bị để chết. Một người nông dân hay một tên lính giờ đây sắp bước ra từ đống lúa mì, buộc cho Mendel tội ăn cắp và hạ gục ông luôn - có lẽ là bằng một hòn đá. Đó cũng có thể là một kẻ ma cà bông, một tên sát nhân, một tên tội phạm không muốn cả bị nghe thấy lẫn bị nhìn thấy. "Chúa trên trời!" Mendel thì thào. Chính lúc đó ông nghe thấy các giọng nói. Đấy là hai người đang bước đi xuyên qua đồng lúa mì, và sự thể đó không phải là một kẻ đơn độc khiến người Do Thái trấn tĩnh lại, dẫu cùng lúc ông cũng tự nhủ rằng xét cho cùng đó hoàn toàn cũng có thể là hai tên sát nhân. Không, đó không phải là những kẻ sát nhân, mà là một đôi trai gái yêu nhau. Một thiếu nữ đang nói, một người đàn ông đang cười. Các cặp yêu nhau cũng có thể nguy hiểm, có nhiều ví dụ về những người đàn ông trở nên điên giận khi bọn họ bắt chợt một chứng nhân cho tình yêu của mình. Hai người kia sắp đi ra khỏi cánh đồng. Mendel Singer cố vượt qua nỗi kinh tởm trộn lẫn với niềm e sợ của mình đối với lũ giòi bọ chui trong đất và khẽ nằm dán mình xuống đất, ánh mắt hướng về các bông lúa. Chính khi ấy lũ lúa mì tách ra, người đàn ông đi ra trước, một người vận quân phục, một người lính đội cái mũ cát két màu xanh sẫm, đi bốt và gắn đinh thúc ngựa, thứ kim loại sáng ánh lên và khẽ kêu lanh canh. Đằng sau anh ta là sự bừng sáng của một cái khăn san màu vàng, một cái khăn san màu vàng, một cái khăn san màu vàng. Một giọng nói vang lên, giọng của cô thiếu nữ. Anh lính ngoái đầu lại, lấy tay quàng lên vai cô, cái khăn đã hé mở, anh lính bước đi sau lưng cô gái, anh ta đã đặt hai tay lên ngực cô, cô gái bước đi, nép mình sát vào anh lính.
Mendel nhắm mắt lại để cho nỗi bất hạnh đi qua trong bóng tối. Nếu không sợ để lộ hiện diện của mình, thì hẳn ông sẵn lòng bịt hai tai lại để khỏi bị buộc phải nghe. Nhưng theo cách này ông buộc phải nghe thấy: những từ đáng hãi, tiếng lanh canh sắc bạc của mấy cái đinh thúc ngựa, những tiếng cười khẽ cao vống, bị bịt lại và vô nghĩa lý, và tiếng cười giọng trầm của người đàn ông. Chính là với niềm hoài nhớ mà giờ đây ông đợi tiếng sủa của lũ chó. Giá như mà chúng có thể hú lên thật dữ, chúng chỉ cần hú lên càng to càng tốt! Bọn sát nhân phải từ cánh đồng ngũ cốc đi ra để hạ gục ông. Những giọng nói đi xa dần. Sự im lặng ngự trị. Toàn bộ đã biến mất. Đã chẳng có gì xảy ra.
Mendel Singer vội vã nhỏm dậy, đưa mắt nhìn khắp xung quanh, dùng hai tay nâng vạt cái măng tô dài của mình lên và khởi sự chạy về phía thành phố nhỏ. Các chớp cửa sổ đã đóng, nhưng nhiều phụ nữ vẫn còn ngồi ở ngưỡng cửa nhà họ mà ba hoa xích tốc và chuyện vãn. Ông chậm bước lại nhằm không thu hút sự chú ý, ông chỉ còn rảo chân đi nhanh, vẫn giữ lấy vạt cái măng tô dài. Trước nhà mình ông dừng lại. Ông nhòm vào cửa sổ. Deborah mở nó ra.
- Mirjam đâu? Mendel hỏi.
- Nó vẫn đang đi dạo, Deborah đáp, không thể nào giữ yên được nó! Ngày đêm nó cứ đi dạo suốt. Nó chỉ ở nhà chắc không được đến nửa tiếng. Chúa đã trừng phạt tôi bằng cách bắt tôi chịu đựng những đứa con như thế, người ta từng thấy trên đời...
- Im đi, Mendel ngắt lời bà. Chừng nào Mirjam về, bảo nó là tôi hỏi nó đã ở đâu. Tối nay tôi sẽ không về nhà, mà phải sáng mai, thật sớm. Hôm nay là ngày giỗ ông Zallel của tôi, tôi sẽ đi cầu nguyện. Và ông đi khỏi, không đợi câu trả lời từ vợ.
Hẳn ba tiếng đã trôi qua kể từ khi ông rời khỏi nhà cầu nguyện. Và giờ đây, lúc lại bước qua ngưỡng cửa của nó, ông có cảm giác mình quay trở lại đây sau nhiều tuần vắng mặt, và ông dịu dàng lướt bàn tay đầy ve vuốt trên nắp đậy cái kệ cầu nguyện cũ kỹ của mình và ăn mừng việc gặp lại nó. Ông mở nó ra và rút từ đó quyển sách cũ màu đen rất nặng của ông, đối với nó hai bàn tay ông là một chỗ trú ngụ quen thuộc và hẳn ông sẽ không ngần ngừ mà nhận ngay ra nó giữa cả nghìn quyển sách giống hệt. Bề mặt nhẵn của cái bìa da điểm xuyết những đốm xtêarin nằm ở trên, các vết tích đã cứng lại của vô số ngọn nến từ lâu đã cháy hết, và các góc dưới của những trang, xốp, màu vàng nhạt, bóng nhờn, cong tớn vì đã bị vần vò bởi những ngón tay nhấm nước bọt lật giở chúng, đối với ông thật thân thuộc. Ông có khả năng mở quyển sách trong nháy mắt tới trang có lời cầu nguyện mà ông cần vào một thời điểm cụ thể. Nó đã được khắc vào ký ức ông với các nét nhỏ nhất của vẻ bên ngoài mà nó bày ra trong quyển sách cầu nguyện ấy, với số dòng của nó, cách thức và cỡ chữ in, và màu chính xác của giấy.
Nhà cầu nguyện đã chìm vào bóng tối lờ mờ, ánh sáng vàng nhạt của các ngọn nến đặt áp vào bức tường phía Đông, cạnh cái tủ đựng các cuộn kinh Torah, không đẩy lùi bóng tối đi, mà đúng hơn dường trốn mình vào bên trong nó. Người ta nhìn thấy bầu trời cùng vài ngôi sao xuyên qua các cửa sổ và người ta nhận ra được tất tật những đồ vật trong căn phòng, các kệ cầu nguyện, cái bàn, các băng ghế, những mẩu giấu nhỏ vo lại vứt dưới đất, các giá nến đặt sát tường, vài tấm khăn lót có diềm mạ vàng. Mendel Singer thắp hai ngọn nến, gắn chúng thật chắc lên thứ gỗ trần trụi của kệ, nhắm mắt lại và bắt đầu cầu nguyện. Hai mắt nhắm, ông vẫn biết chính xác ở chỗ nào một trang kết thúc và máy móc lật sang trang kế tiếp. Dần dà cơ thể ông buông mình vào sự đung đưa đều đặn mà ông đã quá quen từ lâu, cơ thể trong tổng thể của nó tham gia lời cầu nguyện, hai bàn chân cò cưa trên sàn nhà, hai bàn tay nắm lại và hai nắm đấm nện xuống cái kệ, ngực, quyển sách và không khí như hai cái búa. Trên băng ghế đặt trước bếp lò một người Do Thái không nhà đang ngủ. Những cử động vang rền của hơi thở anh ta đệm và nâng đỡ tiếng rì rầm của Mendel, trông ông giống một khúc ca cháy bỏng tại một sa mạc toàn cát vàng, một khúc ca đã mất hút đi vào sự mênh mông và thân thuộc với cái chết. Giọng của chính ông và tiếng thở của người đang ngủ khiến Mandel dịu lại, đuổi đi khỏi trái tim ông tất tật các ý nghĩ, ông chẳng còn là gì khác ngoài một người đang cầu nguyện, các từ băng ngang ông và đi về phía bầu trời, ông là một chỗ chứa trống rỗng, một cái phễu. Chính bằng cách ấy mà ông vừa cầu nguyện vừa đi đến gặp buổi sáng.
Luồng hơi thở của ban ngày tới lướt qua những cửa sổ. Các ánh sáng giờ đây dường ốm o và kiệt lực, đằng sau các ngôi nhà nhỏ thấp người ta đã nom thấy mặt trời đang lên, nó lấp đầy hai cửa sổ phía Đông của nhà cầu nguyện bằng những ngọn lửa đỏ. Mendel dập bấc mấy ngọn nến, khép quyển sách của mình lại, mở mắt và chuẩn bị đi khỏi đó. Ông đi ra không khí tự do. Có một hương thơm của mùa hè, của đầm lầy đang khô đi và của thực vật đã được đánh thức. Các chớp cửa sổ hẵng còn đóng. Người ta đang ngủ.
Mendel gõ ba tiếng vào cửa nhà ông. Trong ông đầy sức mạnh và năng lượng, như thể ông đã ngủ rất lâu và không mộng mị gì. Ông biết chính xác những gì mình sẽ phải làm. Deborah mở cửa.
- Pha trà cho tôi, Mendel nói, và sau đó tôi có một chuyện cần nói với bà. Mirjam có nhà không?
- Dĩ nhiên rồi, Deborah đáp, ông muốn nó ở đâu chứ? Ông nghĩ là nó ở bên Mỹ rồi chắc?
Ấm xamôva cất tiếng hát, Deborah thổi vào một cái cốc đựng trà và cọ nó để nó thật sáng bóng. Rồi Mendel và Deborah uống theo cùng nhịp, vừa uống vừa thổi cho trà nguội bằng cái miệng tru lại. Đột nhiên Mendel đặt cốc của mình xuống và nói:
- Chúng ta sẽ đi sang Mỹ. Menuchim sẽ phải ở lại đây. Chúng ta cần phải mang theo Mirjam. Một sự bất hạnh đang bay lơ lửng trên đầu chúng ta, nó sẽ bổ nhào vào chúng ta nếu chúng ta ở lại đây. Ông im lặng một hồi lâu, rồi hạ giọng nói: Nó đang đi lại với một tên Cô dắc.
Cái cốc rơi khỏi hai tay của Deborah, kêu loảng xoảng. Mirjam, đang ngủ trong góc phòng, tỉnh dậy, và Menuchim náo động lên trong giấc ngủ nặng nề của nó. Rồi đến sự im lặng. Hàng triệu con chiền chiện cất lên tiếng láy rền của chúng phía bên trên ngôi nhà, dưới bầu trời.
Cao Việt Dũng dịch