Sa mạc

Khi đã dựng được các trục, bắt đầu có các hồi ứng nới rộng phong cảnh.
Sau Bốn tình yêu, C. S. Lewis sẽ trở lại với Nan đề Nỗi đau, cuốn sách viết trước đó hai thập kỷ. Lời dẫn dưới đây do người dịch viết.
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, châu Âu chìm vào một cơn khủng hoảng tinh thần chưa từng thấy. Những gì Nietzsche từng tiên tri đã thành thực: “Chúa đã chết, chúng ta đã giết Ngài.” Lời ấy ẩn chứa một cơn địa chấn sẽ còn rền qua hai cuộc đại chiến. Khi nền tảng tôn giáo lung lay, khi các giá trị luân lý bị hoài nghi, khi con người không còn thấy một ý nghĩa tối hậu cho sự sống và sự chết - hư vô trở thành bóng tối bao trùm phần lớn tư tưởng châu Âu.
Trên nền ấy, C. S. Lewis - con người từng vô thần, từng ngụp lặn trong chính nỗi hoài nghi của thời đại (rất chớm ở tuổi mười lăm) - đã quay lại với Đức tin Ki-tô và bắt đầu lên tiếng không chỉ để bảo vệ lẽ thật, mà còn để giành lại cứu cánh cho con người giữa một thế giới không chỗ bám víu. Nan đề Nỗi đau (1940) là một trong những tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự hồi quy ấy. Thuộc bộ sách Christian Challenge - các ấn phẩm nhắm đến việc giới thiệu đức tin Ki-tô với những độc giả bên ngoài Giáo hội, cuốn sách ra đời khi nhân loại vừa trải qua chấn thương sâu sắc của Thế chiến thứ Nhất và đang đối diện với những điềm báo không thể nhầm lẫn của một cuộc chiến còn khủng khiếp hơn. Ngay trên mé vực ấy, câu hỏi cổ thiên lại vang lên đau đớn hơn bao giờ: Nếu Thiên Chúa là toàn năng và tốt lành, tại sao loài người vẫn phải chịu đau khổ? Trong chương dưới đây - có thể xem là trung tâm của toàn bộ cuốn sách, Lewis trực diện đối mặt câu hỏi đó.
Ông bác bỏ lối nhìn nhận giản đơn rằng đau chỉ là sự ngẫu nhĩ trong một thế giới đổ vỡ, hệ quả cơ học của các quy luật vật lý. Đau, theo Lewis, là phương thức Thiên Chúa dùng để lay tỉnh con người khỏi ngủ mê trong tội lỗi. “Thiên Chúa thì thầm với ta trong lạc thú, lên tiếng trong lương tâm, nhưng thét lên giữa nỗi đau của ta: ấy là loa phóng thanh của Người đặng gióng gọi một thế gian điếc đặc.” Ở những người được xem là tốt, đứng đắn, khiêm nhu mà vẫn phải chịu khổ, Lewis cũng cho ta biết thế nào là mối nguy của việc tự xem mình đã vẹn toàn.
Lewis không lý tưởng hóa nỗi đau, cũng không xem đó là điều tự thân tốt lành. Ông lập luận rằng bởi loài người vốn sa ngã, điều thực sự đáng sợ không phải là đau khổ mà là một linh hồn đã sa ngã mà vẫn không cảm nhận được hậu quả của sự sa ngã ấy - không biết mình đang đi sai đường. Nỗi đau, trong viễn kiến ấy, chính là ngọn lửa lẽ thật cháy nóng nhất, soi rọi vào linh hồn phản nghịch để cảnh tỉnh và đưa nó trở về trước khi nó đi đến chỗ hư mất.
Lewis cho ta thấy rằng con người thực ra đứng ở một vị thế rất khác cái nhìn thế tục: không phải là nạn nhân bị động của một trật tự vũ trụ vô hữu ý mà là một hữu thể có phẩm giá luân lý, được gọi hướng về Thiên Chúa - nhưng gần như chỉ có thể được dẫn về qua con đường của đau khổ.
Đau khổ, xét cho cùng, không phải là bằng chứng Thiên Chúa không tồn tại, mà là bằng chứng cho thấy Ngài vẫn đang tìm chúng ta, còn ta vẫn chưa thấy Ngài.
https://vitanova.vn/c-s-lewis-nan-de-noi-dau/
Cùng nhịp, bộc bạch của Chesterton: Tại sao tôi là người Công giáo? Chính nhờ đọc Chesterton mà C.S.Lewis, người vô thần, tìm được lòng tin:
https://vitanova.vn/chesterton-tai-sao-toi-la-nguoi-cong.../
Quyển sách của Chesterton cũng gây chấn động lớn cho một nhà văn Công giáo nữa: Graham Greene. Greene từng viết về điều đó: https://vitanova.vn/graham-greene-g-k-chesterton/
Và Greene đọc một nhân vật cùng phả hệ ấy, François Mauriac, trước hết nhắc ngay đến cái chết của Henry James: https://vitanova.vn/graham-greene-francois-mauriac/