favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
formaTION
Next
Khi đã dựng được các trục, bắt đầu có các hồi ứng nới rộng phong cảnh.
cuộc sống của giới bourgeois
Kể từ 11 quyển ấy, tôi có cảm giác mọi sự đã rõ ràng, hiểu theo nghĩa chân trời đã bắt đầu hiện ra: đã có chân trời; và như vậy thì không phải là có giới hạn, mà chính là ngược lại, nhưng đồng thời, nhìn được.
Joseph Roth thường được nhớ đến với các bi kịch lớn.
cả vũ trụ, theo kỳ
"thành phố nơi người ta đã chào đời"
một tinh thần chúng ta đang rất cần, ở chính thời điểm này
Có bao nhiêu hình thức của nhà?
66 - 3
Mùa hạ khép lại cùng mênh mông của nó. Sau những rộn ràng rực rỡ là lặng im lá rụng (sớm thôi) dẫn vào sự bó chặt, rét mướt của mùa đông.
tìm ra một chất liệu đẹp và làm cho cái đẹp ấy được nhận ra như chính nó
Hors-commerce
Maupassant là một trong những nhà văn lớn của văn chương chúng ta từng biết cách miêu tả ở độ sâu một tha hóa xã hội, được lột ra một cách hào phóng.
Tuyển tập C
cầu nguyện và nghi lễ
là một trong những triết gia quan trọng nhất của thế kỷ 20
Đoản luận [Propos] của Alain
LESAGE & NGUYỄN-VĂN-VĨNH
một chân dung sống động về Baudelaire
của đất và của biển
Sách thuộc FORMA kỳ Hạ 2022
George Eliot, Anh Hoa dịch
Tử Yên Nguyễn Thu Thủy
Mansfield, với cuộc đời ngắn ngủi, không tạo ra một khối lượng đồ sộ các văn bản, và chủ yếu viết truyện ngắn, nhưng đó là một trong những ngôi sao băng có ý nghĩa rất lớn trong lịch sử văn chương, và sự xuất hiện của văn chương Mansfield trong bất kỳ ngôn ngữ nào cũng tạo ra các chuyển động tinh tế và lâu dài.
Một hình dung về toàn bộ chương trình Henry James đã thực hiện được trong hơn một năm (bao gồm quyển sách của kỳ Hạ 2024)
Tài liệu trong workshop "Nhìn lại lịch sử phê bình"
Herman Melville và Henry James là hai mặt tạo ra ý thức Mỹ của thế kỷ 19, với bên này là tự nhiên, còn bên kia là văn hóa.
để hình dung một phả hệ tinh thần
nhưng tại sao lại không thể không điên?
hiểu về lịch sử tiến hóa của ngôn ngữ chúng ta, qua các bản dịch cách đây tròn thế kỷ
Thế giới của Andersen

Sa mạc

Sa mạc
325.000 đ

Khi đã dựng được các trục, bắt đầu có các hồi ứng nới rộng phong cảnh.

Sau Bốn tình yêu, C. S. Lewis sẽ trở lại với Nan đề Nỗi đau, cuốn sách viết trước đó hai thập kỷ. Lời dẫn dưới đây do người dịch viết.

Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, châu Âu chìm vào một cơn khủng hoảng tinh thần chưa từng thấy. Những gì Nietzsche từng tiên tri đã thành thực: “Chúa đã chết, chúng ta đã giết Ngài.” Lời ấy ẩn chứa một cơn địa chấn sẽ còn rền qua hai cuộc đại chiến. Khi nền tảng tôn giáo lung lay, khi các giá trị luân lý bị hoài nghi, khi con người không còn thấy một ý nghĩa tối hậu cho sự sống và sự chết - hư vô trở thành bóng tối bao trùm phần lớn tư tưởng châu Âu.

Trên nền ấy, C. S. Lewis - con người từng vô thần, từng ngụp lặn trong chính nỗi hoài nghi của thời đại (rất chớm ở tuổi mười lăm) - đã quay lại với Đức tin Ki-tô và bắt đầu lên tiếng không chỉ để bảo vệ lẽ thật, mà còn để giành lại cứu cánh cho con người giữa một thế giới không chỗ bám víu. Nan đề Nỗi đau (1940) là một trong những tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự hồi quy ấy. Thuộc bộ sách Christian Challenge - các ấn phẩm nhắm đến việc giới thiệu đức tin Ki-tô với những độc giả bên ngoài Giáo hội, cuốn sách ra đời khi nhân loại vừa trải qua chấn thương sâu sắc của Thế chiến thứ Nhất và đang đối diện với những điềm báo không thể nhầm lẫn của một cuộc chiến còn khủng khiếp hơn. Ngay trên mé vực ấy, câu hỏi cổ thiên lại vang lên đau đớn hơn bao giờ: Nếu Thiên Chúa là toàn năng và tốt lành, tại sao loài người vẫn phải chịu đau khổ? Trong chương dưới đây - có thể xem là trung tâm của toàn bộ cuốn sách, Lewis trực diện đối mặt câu hỏi đó.

Ông bác bỏ lối nhìn nhận giản đơn rằng đau chỉ là sự ngẫu nhĩ trong một thế giới đổ vỡ, hệ quả cơ học của các quy luật vật lý. Đau, theo Lewis, là phương thức Thiên Chúa dùng để lay tỉnh con người khỏi ngủ mê trong tội lỗi. “Thiên Chúa thì thầm với ta trong lạc thú, lên tiếng trong lương tâm, nhưng thét lên giữa nỗi đau của ta: ấy là loa phóng thanh của Người đặng gióng gọi một thế gian điếc đặc.” Ở những người được xem là tốt, đứng đắn, khiêm nhu mà vẫn phải chịu khổ, Lewis cũng cho ta biết thế nào là mối nguy của việc tự xem mình đã vẹn toàn.

Lewis không lý tưởng hóa nỗi đau, cũng không xem đó là điều tự thân tốt lành. Ông lập luận rằng bởi loài người vốn sa ngã, điều thực sự đáng sợ không phải là đau khổ mà là một linh hồn đã sa ngã mà vẫn không cảm nhận được hậu quả của sự sa ngã ấy - không biết mình đang đi sai đường. Nỗi đau, trong viễn kiến ấy, chính là ngọn lửa lẽ thật cháy nóng nhất, soi rọi vào linh hồn phản nghịch để cảnh tỉnh và đưa nó trở về trước khi nó đi đến chỗ hư mất.

Lewis cho ta thấy rằng con người thực ra đứng ở một vị thế rất khác cái nhìn thế tục: không phải là nạn nhân bị động của một trật tự vũ trụ vô hữu ý mà là một hữu thể có phẩm giá luân lý, được gọi hướng về Thiên Chúa - nhưng gần như chỉ có thể được dẫn về qua con đường của đau khổ.

Đau khổ, xét cho cùng, không phải là bằng chứng Thiên Chúa không tồn tại, mà là bằng chứng cho thấy Ngài vẫn đang tìm chúng ta, còn ta vẫn chưa thấy Ngài.

https://vitanova.vn/c-s-lewis-nan-de-noi-dau/

Cùng nhịp, bộc bạch của Chesterton: Tại sao tôi là người Công giáo? Chính nhờ đọc Chesterton mà C.S.Lewis, người vô thần, tìm được lòng tin:

https://vitanova.vn/chesterton-tai-sao-toi-la-nguoi-cong.../

Quyển sách của Chesterton cũng gây chấn động lớn cho một nhà văn Công giáo nữa: Graham Greene. Greene từng viết về điều đó: https://vitanova.vn/graham-greene-g-k-chesterton/

Và Greene đọc một nhân vật cùng phả hệ ấy, François Mauriac, trước hết nhắc ngay đến cái chết của Henry James: https://vitanova.vn/graham-greene-francois-mauriac/

Tags: formaTION
favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công