James, Conrad, và Stevenson
Khi đã dựng lại được các nét chính của phong cảnh thì bắt đầu có thể có một cái nhìn.
James, Conrad, Stevenson, cùng cả Ford và Melville: nhưng đó là một cuộc chiến đấu bền bỉ của tinh thần con người, ở địa hạt của hình thức văn chương. Cuộc chiến ấy vô hình, vô thanh, và phần lớn không được hiểu, nhưng không có nó thì không có thế giới nào, dù mọi thứ có vẻ rộn rã đến đâu.
Tiểu luận dài thứ năm của Công Hiện. Giờ đã có thể lần lại câu chuyện ấy, qua các tag và đường link.
James, Conrad, và Stevenson
- Công Hiện
Tình bạn thân thiết của hai tiểu thuyết gia Robert Louis Stevenson và Henry James bắt đầu khi Stevenson vừa đến dưỡng bệnh ở Bournemouth, tại Skerryvore (căn nhà Stevenson đặt tên theo ngọn hải đăng vĩ đại mà ông chú Alan chỉ huy việc xây dựng, gia đình Stevenson hầu hết là các kỹ sư hải đăng nổi tiếng của Scotland), còn Henry James đang trải qua giai đoạn bi đát, cả trong cuộc sống riêng tư cũng như sự nghiệp. Ngay trước đó, năm 1884, James có chuyến qua Pháp gặp lại một số đồng nghiệp, trong đó có nhóm Daudet, Goncourt và Zola, những người ông vẫn luôn theo dõi và nghiên cứu tỉ mỉ; James nhận xét rằng các tiểu thuyết gia Anh ít chăm chút cho phong cách của mình hơn người Pháp, ít quan sát hơn và sự quan sát lại kém tinh tế hơn. Về những nhà tự nhiên luận người Pháp này, những phóng viên trung thành của cuộc sống, ông nhìn nhận sự nghiêm túc và trung thực của họ – niềm hạnh phúc duy nhất của việc sáng tác, Zola nói với ông, là ở giai đoạn lập kế hoạch, – và so với họ thì các đồng nghiệp anh tỏ ra nhạt nhẽo vô song. Tiểu luận Nghệ thuật hư cấu của James không lâu sau đó xuất hiện trên Longman’s Magazine. Stevenson đọc và đáp lại bằng Một lời trách nhún nhường, và nhận xét tiểu thuyết phải cạnh tranh được với cuộc sống của James nhận được lời đáp trả rằng cuộc sống thì không thể cạnh tranh bằng bất kỳ hình thức nghệ thuật nào. Ta không được thấy những phản bác lẫn nhau ấy tiếp diễn bởi James, ngay sau đó, thừa nhận qua thư riêng với Stevenson rằng ông còn chưa trình bày được đầy đủ ý của mình. Quả thật cần phải hiểu sự cạnh tranh James nêu lên ấy không có nghĩa là bắt chước, mà là một tồn tại song song với hình thức sống động tương ứng; những gì ông đã làm với các tiểu thuyết của mình, cho đến lúc ấy, chẳng hạn sự kiên nhẫn theo đuổi chủ đề thanh niên Mỹ đến lục địa, với cú bộc phát rực rỡ của Daisy Miller và đạt đến phép thử cuối cùng ở mức tuyệt đối khách quan với Isabel Archer, đủ để thấy rằng việc lặp lại đơn thuần cuộc sống chưa bao giờ là điều James nhắm tới. Và, thật kỳ lạ rằng với bao tranh luận và các lý lẽ phản biện, cái đích của những sự thử đi thử lại ấy, nhằm tìm ra cái tất yếu bằng con đường tuyệt đối khách quan, cũng chính là những gì khó nhất mà Stevenson đòi hỏi nơi một cuốn tiểu thuyết.
Nhìn vào cuộc tranh luận của các nhà văn ấy (tiểu luận của Henry James được viết trước hết là lời đáp trả một tiểu luận khác của Walter Besant), khó mà không nhận thấy, khi lý lẽ được trình bày bằng một tiểu luận, và một lý lẽ khác phản biện lại, cũng bằng một tiểu luận với sức thuyết phục tương đương, đó là cả một điều kỳ diệu. Đó là khi một sự biểu đạt thích đáng được truyền đi; một hình thức tìm thấy hồi ứng đầy đủ và chỉ có thể được hồi ứng bởi một hình thức ngang bằng với nó. Điều nghịch lý là khi tiến bộ của thời đại cung cấp nhiều phương tiện biểu đạt hơn thì điều đó chỉ tạo ra thêm phương tiện để làm nghèo đi các biểu đạt còn chưa thành hình. Một ý giờ đây được cho là đầy đủ khi mới chỉ chập chững, thường xuyên nó chấp nhận dừng lại ở mức đồng ý hay không đồng ý, nhận xét rằng thỏa đáng hay không thỏa đáng, rồi chẳng còn gì nữa; rất nhiều những vòng tay lớn của sự đồng tình được nối thêm vào quyết giữ cho nó đứng vững (cũng phải nói rằng sự khuếch đại dễ dàng ấy không bao giờ thôi được khuyến khích, bởi một khối đông thật rậm rạp thì hết sức có lợi cho những nghiên cứu nhằm phát triển các mặt hàng tiêu dùng), duy chỉ có lý lẽ thích đáng, phát triển bởi suy tư cẩn thận, bị bỏ quên.
Về phần Stevenson, đây không phải lần đầu ông hướng sự chỉ trích vào xu hướng mô tả hiện thực sát sao đến mức thừa thãi mòn mỏi của tiểu thuyết. Trước khi nhún nhường trách James thì Stevenson đã trách, gay gắt hơn nhiều, chính các nhà tự nhiên luận người Pháp mà James ngưỡng mộ; trong tiểu luận Note on Realism (đăng trên Magazine of Art năm 1883, được tổng hợp trong tập Essays in the Art of Writing) viết một năm trước đó, Stevenson vẫn thể hiện một ý nhất quán, dù trình bày theo một hướng khác. Ông phàn nàn rằng, tiểu thuyết thế kỷ 19, sau khi được khai mạc bởi Walter Scott lãng mạn, rồi đến Balzac bán lãng mạn, vốn đi con đường biểu đạt sự chiêm nghiệm sâu sắc về con người, nhưng đến đoạn cuối thế kỷ lại rơi vào kỹ thuật và trang trí đơn thuần, những khuôn đúc mang hình hài cái thực; và giai đoạn này đã kéo dài quá lâu thành thử không ít các tiểu thuyết gia lớn đã bắt đầu đi tìm một biểu đạt trần trụi ít công tua rườm rà hơn, gạt bỏ chúng để nắm bắt sự thật về các trạng thái của bản tính con người cũng như các tình thế của cuộc sống con người – sự thật của nghệ thuật tiểu thuyết – thứ không bao giờ bị thời gian chi phối. Trong khi đó, nhóm các tiểu thuyết gia Pháp ấy, Stevenson chỉ ra, đã quay lưng với nghệ thuật lớn, họ quá đề cao thực tại, quá chú trọng vào lao động thủ công; Stevenson nhận xét rằng Zola đã dành hết tâm sức cho những thành công về kỹ thuật, tạo ra một hương vị phổ biến và thu hút đám đông; xu hướng cực kỳ chi tiết này khi được tuân theo đồng loạt như một nguyên tắc sẽ khiến văn chương tha hóa thành một trò lừa bịp, và Stevenson gọi đó là sự tự tử kỳ quặc của các tiểu thuyết gia hiện thực. Vấn đề của các nhà tự nhiên luận ấy, ông khẳng định, chỉ liên quan đến kỹ thuật của viết, và khi phương pháp đã định hình thì đáng lẽ không được hài lòng và phải tìm cách vượt qua nó mà sáng tạo những hình thức mới, vì nếu cứ tiếp tục thỏa mãn, chắc chắn nó sẽ thoái hóa và trở nên kiệt quệ. Nhưng họ lại bằng lòng với những mẫu đã thiết lập, các chi tiết đã thành thông lệ, những thủ thuật cung cấp những giải pháp có sẵn nhưng rõ ràng không phù hợp cho những vấn đề phát sinh liên tục của thời đại.
Hai mươi năm sau, năm 1914, Stevenson đã qua đời từ lâu còn Henry James vẫn bền bỉ trên con đường của mình, khi bình luận các tiểu thuyết gia đương thời trong tiểu luận Tiểu thuyết mới. Với tinh thần vẫn y nguyên ấy, James chỉ trích các nhà văn Anh lớp trước, rằng họ đã không chịu tìm kiếm một ánh sáng mới rọi vào tình thế con người, họ chỉ chân thành tin tưởng cái chìa khóa vạn năng là tình cảm ủy mị, thứ một khi đã đúc xong thì chẳng còn tra vừa vào bất kỳ cánh cửa mới nào của thời đại. Cái đuôi dài của văn chương lãng mạn, từng tuyệt đẹp như một cơn bột phát cấp tính, đã trở nên hết sức vụng về thừa thãi; tinh thần lãng mạn khi ấy đã đến độ tự ngắm chính nó nhiều hơn là nhìn ra ngoài, thứ vốn từng đem lại cho nó sức mạnh phi thường. Với tư thế của văn chương mà Henry James đặt ra, phải tìm những hình thức mới cho vật chất mới, Arnold Bennett được nhắc đến như một đại diện tiêu biểu bởi độ dày dặn: khi đạt đến một độ bão hòa trong tâm trí, tiểu thuyết gia nhìn thấy những gì là tất yếu, trung tâm còn chưa biết của sự kiếm tìm, như khi người ta xem xét và rút ra điều cốt yếu nơi tỷ lệ các thành phần của một thống kê tỉ mỉ. Những đại diện của hướng đi ấy dũng cảm gánh lấy trách nhiệm mà thế hệ văn chương trước đó, theo Henry James, đã tránh né, khi họ để lại nhiều thứ đòi được khám phá hơn là những gì đã được nói ra. Và Joseph Conrad, tách biệt hẳn so với các tiểu gia khác, trở thành một đại diện đặc biệt cho hình thức mà James quan tâm. Sự nghiệp văn chương của Conrad lúc ấy đã thật dày dặn, và May vừa xuất hiện (1913), trước tiểu luận của Henry James một năm, chính là một kết tinh lớn: đó không chỉ là khi cách thức trình bày câu chuyện, tuy không hoàn toàn mới nhưng được đẩy lên với một cường độ đặc biệt cao trong các truyện ngắn hay tiểu thuyết khác, đạt đến độ chín muồi với một nỗ lực phi thường của nhào nặn và sắp đặt, đó còn là cái nhìn trọn vẹn hướng về tình thế con người khi đặt vào tương quan giữa đất và nước – quả thực không chỉ một tập truyện mà nhiều tập khác của Conrad cũng đều có thể mang cái tên ấy. Ở May, mối liên kết giữa hai yếu tố mà mất đi một là chuyện không thể xảy ra này được ghi nhận rõ nhất: ấy là khi con người của đất, vững chắc muôn đời nhưng lại trở thành cái bệ cho các ảo tưởng sản sinh vô cớ bởi dục vọng, giờ đây phải gắn chặt lấy con người của nước, nơi tình thế đảo ngược, kể cả lúc đứng yên người ta cũng phải đối mặt với vô vàn nguy cơ, nhưng những mơ mòng lại bị rút kiệt bởi các lực tuyệt đối mạnh bạo, và bởi vậy vững chắc, của tự nhiên.
Những gì Conrad hướng tới trong nghệ thuật của mình, người ta lại bắt gặp nơi chính Henry James: tìm cách soi sáng một sự thật, tìm cách nói lên cái tất yếu bằng con đường của tiểu thuyết, thứ vốn dĩ luôn bị xem nhẹ, với những tưởng tượng đầy chủ quan và chỉ có thẩm mỹ cá nhân để xử lý những can thiệp của cái ngẫu nhiên, khi đặt cạnh triết học. Nếu như James khám phá sự tan rã bất khả vãn hồi của thế giới qua cuộc gặp của những thanh niên Mỹ ngây thơ với sự phức tạp của châu Âu, thì Conrad trình bày cùng viễn kiến ấy qua những chuyến đi của tàu buôn Anh đến vùng thuộc địa. Văn chương của họ xuất phát với trực giác về điểm gở treo lơ lửng, nhà văn như người bệnh mãn tính không thể ngoảnh mặt đi khỏi những thiếu hụt nào đó, không chấp nhận thỏa hiệp, và những khoảng trống hay sự méo mó trông thấy là những manh mối có thực duy nhất. Việc vượt qua các khoảng cách lớn bằng tàu biển ít nhiều gợi lên ý nghĩ về sự trôi chảy, thuận buồm xuôi gió, đi lại giữa các châu lục… nhưng văn chương của họ chống lại sự trôi tuột. Ở khía cạnh này, Conrad bày ra cả một hình thức phức tạp với nhiều tầng và nhiều cột mốc để neo câu chuyện của mình lại; bộ khung trên đó câu chuyện được trải ra luôn cố gắng gạn cho được cái khách quan, không cho phép nó tuột đi khỏi những gì khó giải quyết, nhưng cũng từ chối sa đà vào các chi tiết dễ dãi đầy cám dỗ mà câu chuyện ở chỗ này chỗ kia luôn sinh ra. Về phần James, văn chương của ông lại thường xuyên vấp phải sự dè chừng nơi những người đương thời cũng như lớp nhà văn sau, những khi nào họ cảm thấy buộc phải nhìn vào ông; rất thường xuyên văn chương ấy được mô tả như một mớ trừu tượng và phức tạp quá đáng được tô vẽ chỉ để nói những điều đơn giản. Đương nhiên nó mù mờ, nhưng không trang trí hay vòng tránh, bởi vì góc nhìn ông chọn hoàn toàn khác, cụ thể là ở một độ bao quát lớn hơn những gì mà độc giả nhìn thấy ban đầu, và người ta kịp bỏ cuộc trước cả khi đoán được ông muốn hướng tới đâu. Nếu có thể mượn sự quan sát của các hải nhân trong tiểu thuyết của Conrad thì có thể nói rằng Henry James đi vào vấn đề trước hết với góc độ của người đi biển, tiếp cận một hòn đảo thoạt tiên hiện ra chỉ như một dải đen sẫm (quan sát từ tổng thể rồi đến chi tiết, một lợi thế lớn của việc tiếp cận bằng tàu thủy mà các phương tiện khác khó lòng vượt qua, đương nhiên phải loại bỏ khinh khí cầu vì quá thiếu nghiêm túc). Nhưng ông dừng lại khi đã đạt đến một khoảng cách đủ rõ, và tiến gần thêm thì sẽ quá cụ thể, quá mức trang trí. Các câu của ông, trước khoảng cách được ấn định ấy, tự thiết lập cơ sở để có thể đứng vững, và việc ấy thường làm nản con mắt kẻ theo dõi khi ông từ chối việc đột ngột lại gần đối tượng nếu chưa làm hiện lên được một tổng thể ông muốn đặt nó vào (khó mà đặt câu của James bên cạnh câu của Proust, bởi nhà văn Pháp thường xuyên áp lên chúng một sức căng với các bộ phận và một đích đến đã xác lập). Suốt đời James thực hiện thật bền bỉ việc trả lại vị trí đúng cho các giá trị, đặt được chúng trong một tổng thể mà ông hẳn không thỏa mãn nếu bỏ sót; với cái nhìn đòi hỏi khoảng cách như vậy, việc viết đi viết lại các tiểu thuyết của James có lẽ là do ông thường không hài lòng với tổng thể khi xem xét lại, thậm chí đôi khi ông cố lùi ra xa và loại bỏ các chi tiết, việc này hoàn toàn trái ngược với Conrad (mà Ford Madox Ford đã chỉ ra những bằng chứng thật rõ), người hướng đến sự cụ thể với những gì được bày ra trong các điểm tham chiếu của câu chuyện.
Nhưng ở đây cần trở lại với Stevenson; một trong các yếu tố Stevenson nhắc đi nhắc lại nhiều lần, ngoài việc không được để cho tiểu thuyết đi chệch con đường nghệ thuật của nó mà mang vẻ mô phỏng đơn thuần không chọn lọc cái thực là cần làm hài lòng. Đó có phải là hai thứ mâu thuẫn không? Những gì Stevenson viết, vô số các tiểu luận và tiểu thuyết, cùng với một lượng tương đương các bức thư, mọi thứ luôn có vẻ rất trau chuốt. Sức căng, trải dài qua các câu và các đoạn, hoặc toàn bộ, luôn được duy trì và hiếm khi một ý quan trọng nào đó trội hẳn lên khỏi mạch trôi chảy ấy. Sự trôi chảy, với âm thanh tự hình thành trong vòm miệng khi mắt đọc và trong lỗ tai tưởng tượng, là vẻ hài hòa tự nhiên ông hướng đến, và nó được thực hiện với một nỗ lực lớn và liên tục được kiểm soát bởi các điều kiện bó buộc tự người viết đặt ra với thẩm mỹ của mình, mà anh ta vốn tin là thứ cao nhất có thẩm quyền kiểm soát, nghĩa là vô cùng khắt khe.
Trước sự nghiêm cẩn mà các tiểu thuyết gia ấy, với thẩm mỹ của riêng từng người, áp đặt cho việc viết, độc giả hẳn nhận ra một nghịch lý lớn vào thời điểm cuối thế kỷ 19, đó là bằng mọi cách, trong các tác phẩm của họ, tiếng nói của nhà văn phải hướng tới sự triệt tiêu hoàn toàn, không còn đóng vai trò hùng biện và phân tích bên cạnh các nhân vật và cấm ngặt xuất hiện trong mọi tình huống. Người ta đã thấy Ford Madox Ford mỉa mai Thackeray thế nào khi viết về Conrad, và bản thân Conrad thì lại để cho Marlow kể chuyện (nhưng ở đây mục đích là để chính lời kể ấy được xem xét khách quan bên cạnh các lời kể khác, trong diễn biến chung của câu chuyện, và với Marlow thì lời tường thuật được gạn ra nhiều nhất, chẳng hạn như so với Powell, một người kể khác trong May, người mô tả trực tiếp những chuyện trên tàu); Henry James mỗi lần xuất hiện trong tiểu thuyết của mình thì không khác mấy một người góp chuyện. Dấu vết sự tự do căng phồng của tiểu thuyết vào đầu thế kỷ nay đã bị dẹp sạch. Chẳng thể tưởng tượng một trường đoạn đầy hùng biện như trong tiểu thuyết của Balzac còn có thể xuất hiện ở đoạn cuối thế kỷ này. Việc giấu đi xưởng chế tạo, căn bếp đầy dầu mỡ, trước kia từng không phải là chuyện nhất thiết của văn chương, giờ đây bằng cách nào đó trở thành một thẩm mỹ được nhìn nhận. Đồng thời, có thể nhận thấy rằng các tiểu thuyết gia ấy cũng lại là các tiểu luận gia bậc thầy; có lẽ việc chỉ ra cho độc giả những dây nhợ ròng rọc của một cỗ máy lớn, lột ra mặt sau của bức tranh, như cách nói của Stevenson, cũng như nỗ lực nhìn nhận các giá trị của James dù gây vô vàn chán nản luôn là điều cần thiết.
___________
Một mối dây khác ngầm ẩn liên kết họ lại với nhau: đối với văn chương Anh họ đều là các nhà văn ngoại quốc. Henry James, lần đầu tiên trông thấy Stevenson tại Skerryvore, cho rằng con người này thật kỳ quặc, với dáng điệu như một tay Bohemia và có phần ưa làm dáng; tình cảm nồng nhiệt của chủ nhà sau đó chỉ càng làm James tăng thêm ấn tượng về một người ở cách xa thời đại của mình. Với tư cách một người Scotland, Stevenson đã được nếm trải sự xa lạ ngay trên chính quê hương. Trong tiểu luận The Foreigner at Home (tập Memories and Portraits), ông chỉ ra sự phân chia về ngôn ngữ và phong tục ở Anh lớn đến thế nào; chẳng cần vượt eo biển người ta mới đi ra nước ngoài, Stevenson viết, và dù tiếng Anh đã đi khắp thế giới, người ta lại thấy sự khác biệt về giọng nói của các địa phương rõ rệt nhất ngay tại quê nhà - thậm chí còn hơn cả nước Mỹ đa sắc tộc. Trong phương ngữ của mình, con người ở đây vẫn giữ lại những thành ngữ tục tĩu nhất của tổ tiên, cùng với đó là vô số các tập tục và định kiến riêng của địa phương, thậm chí cả tôn giáo và luật pháp cũng thay đổi liên tục theo khoảng cách. Ở đó người ta ưa tách biệt, tràn đầy lòng kiêu ngạo và sự thiếu hiểu biết về hàng xóm là tính cách điển hình; một người láng giềng với giọng nói khác âm điệu thì chỉ khiến người ta thích như thích một con khỉ, và chẳng đáng bỏ ra chút kiên nhẫn nào để hạ mình nghiên cứu. Cũng trong tập tiểu luận ấy, Stevenson viết về ông bố Thomas, một kỹ sư hải đăng không bao giờ rời bỏ hòn đảo của mình, cũng là nơi Stevenson tiểu thuyết gia đã lớn lên; mối quan hệ giữa bố và con trai nhà Stevenson vốn không ổn thỏa, nhưng điều đó không ngăn cản tiểu thuyết gia đưa ra những nhật định sáng suốt, một trong số đó là danh tiếng kỳ quặc của người nhà Stevenson: các kỹ sư hải đăng ấy, những người luôn phải vật lộn với bão như kẻ thù lớn, và biển thì luôn tỏ ra quá mạnh với nghệ thuật con người, dường được công nhận ở nước ngoài hơn là tại chính quê hương; và trong khi ngọn hải đăng của ông bố khiến Edinburgh bấy giờ trở thành trung tâm quốc tế cho ngành khoa học này, thì ở Anh, chẳng hạn London, ông chỉ là một tồn tại thoáng qua. Dòng họ Stevenson vấp phải sự thờ ơ lớn đến thế tại Anh, ông viết, chính là bởi họ chẳng mấy bận tâm đến thứ gọi là bằng sáng chế, các tác phẩm của họ nằm ẩn danh trong hàng trăm phòng trưng bày, hàng trăm báo cáo nơi các thứ giấy tờ kia làm đảo lộn tất cả.
Stevenson giờ đây thường được biết đến với những tiểu thuyết hấp dẫn viết vào quãng dưỡng bệnh ở Skerryvore. Năm 1887 khi người cha đã qua đời, ông lại tiếp tục lên đường tìm một khí hậu khác phù hợp với sức khỏe suy kiệt của mình, vòng qua Mỹ, lang thang qua các đảo nam Thái Bình Dương (đánh dấu cho quãng này là tập In the South Seas, xuất bản sau khi qua đời) và cuối cùng định cư tại quần đảo Samoa. Quãng cuối đời của ông cũng là quãng cuối của sự tự do trên đảo ấy, nơi mà con người còn quá ngây thơ trước văn minh của Mỹ và châu Âu; năm năm sau khi Stevenson qua đời, Samoa thuộc về sự bảo hộ của Đức và Mỹ. Với James, người bạn quá cố ấy luôn sống động, giống như những người mà khi họ đi rồi, bóng những cử chỉ vẫn hằn lên trong không trung, và thật kỳ quặc, James nhận xét, một kẻ lang thang hết thuốc chữa lại có thể hợp nhất với một kẻ viết nguệch ngoạc hết thuốc chữa, và một kẻ tàn tật hết thuốc chữa. James chỉ ra, trong tiểu luận về riêng Stevenson (tập Notes on Novelists,) rằng các tiểu thuyết của ông, mà quan trọng hơn cả trong số đó là những gì xuất hiện ở quãng sau này, tất tật cũng chỉ chưa đến một nửa những gì hấp dẫn nhất của Stevenson, tức là các tiểu luận, và trên hết là vô số những bức thư gửi gia đình và bạn bè, đặc biệt là những bức thư của Stevenson sau khi định cư ở Samoa, được người bạn Sidney Colvin (mà Stevenson bảo rằng không viết nổi đến một bức thư đàng hoàng) biên tập cẩn thận không lâu sau khi tác giả qua đời ở đảo. Ở đó, với chất liệu vô cùng dồi dào và sự chệch hướng đã hoàn toàn bị miễn trừ, bởi tác giả của nó chẳng còn tình thế con người nào khác phải tìm tòi sắp đặt ngoài chính số phận của mình, và cơ thể tàn úa, Stevenson tự thú nhận, chẳng còn phù hợp với bất kỳ công việc nào trên đời nữa. Ông lao vào mọi thứ với sự tuyệt vọng điềm tĩnh, Stevenson kể trong một bức thư, giống như đã luôn ra khơi với niềm tin rằng mình sẽ bị chết đuối, và ông thích ý nghĩ đó hơn mọi thú vui khác. James nhìn nhận chủ nhân của tập thư ấy với vai trò đặc biệt hơn nhiều: không còn là tác giả, mà đã trở thành một nhân vật tiểu thuyết. Nhưng số phận rốt cuộc cũng chẳng nhường nhịn Stevenson khi cái chết ập đến đột ngột trong một ngày yên bình, trong khi nhân vật ấy từng có lần thổ lộ qua thư, với ý thức lớn về danh dự giống như một nhân vật của Joseph Conrad nói muốn chết khi đang chèo thuyền chứ không chịu ngồi không dưỡng già trên đất liền, rằng thành công lớn là đảm bảo được một cái chết thật dữ tợn, chết đuối, bị bắn, ném khỏi lưng ngựa… thì còn hơn là trải qua sự tan rã chậm chạp.
Công Hiện
CôNghiện
Thomas de Quincey: Văn chương của biết và văn chương của năng
Stevenson: Các yếu tố kỹ thuật của phong cách
Thomas De Quincey gặp thần tượng
Trò chuyện với Isaac Bashevis Singer về Bruno Schulz
Stevenson: Biện bạch cho người ngồi không
Công Hiện: Văn chương Bruno Schulz
Gentleman cắn: niềm vui và nỗi đau
Baudelaire đọc Thomas de Quincey