Benjamenta (tiếp)
Sau một đoạn đã đăng, tiếp tục một số đoạn trong Jacob von Guten của Robert Walser.
Tại đây, đúng là thiếu tự nhiên. Nhưng gì cơ, chỗ chúng tôi ở là một thành phố lớn, chỉ mỗi vậy thôi. Ở nhà tôi trước kia khắp nơi đều có các phối cảnh rộng lớn cùng những ngả thoát đi. Tôi thấy dường mình từng lúc nào cũng nghe thấy tiếng chim lích chích dọc các phố. Những dòng suối lúc nào cũng rì rầm. Núi phủ đầy rừng hạ ánh mắt uy nghi của nó lên thành phố. Buổi tối, người ta hay đi thuyền gondola dạo chơi trên cái hồ ngay gần. Các tảng đá cùng các cánh rừng, các ngọn đồi cùng các cánh đồng luôn luôn chỉ nằm cách vài bước chân. Lúc nào cũng có những giọng nói và các mùi. Và các phố của thành phố thì giống những lối đi trong vườn, vì sao mà chúng có vẻ sạch sẽ và êm ái dưới bước chân. Những ngôi nhà trắng xinh đẹp vểnh cái mũi tinh nghịch của chúng lên xuyên qua các khu vườn rậm lục. Đằng sau hàng rào sắt công viên, người ta nom thấy những quý bà nổi tiếng bước đi, Bà Haag chẳng hạn. Toàn bộ những cái đó thật ra rất ngu xuẩn, nhưng đấy là vì tự nhiên, núi, hồ, sông, thác nước sôi sục, tất tật các loại bài hát cùng tiếng ồn đối với chúng tôi đều thật quen thuộc. Nếu bước đi, người ta như thể đang dạo chơi giữa trời, bởi khắp nơi người ta đều trông thấy trời xanh. Nếu dừng chân, ngay tức khắc người ta có thể nằm xuống và tha hồ mơ, bởi mặt đất phủ đầy cỏ hoặc rêu. Và những cây lãnh sam, với mùi nhựa rất đậm tuyệt diệu của chúng. Sẽ có lúc nào tôi được nhìn thấy lại một cây lãnh sam núi hay chăng? Vả lại hẳn đó sẽ không phải là một nỗi bất hạnh quá lớn. Việc không có một cái gì đó: cả điều này cũng có mùi và có nhựa. Ngôi nhà của bố tôi, ông Đại Cố vấn, thì không có vườn, nhưng toàn bộ những thứ từng vây quanh chúng tôi chỉ là vườn cồ quẹt, sạch bong, tuyệt vời. Tôi rất hy vọng mình không bị lên cơn nhớ nhà. Trò ngu. Ở đây cũng rất đẹp.
Dẫu vẫn chưa có gì đáng để kể ở cằm, thỉnh thoảng tôi ghé chỗ thợ cắt tóc, chỉ để đi một vòng thành phố, việc kia cho phép tôi làm thế, và bảo người ta cạo râu cho mình. Tôi là người Thụy Điển à? người cắt tóc hỏi tôi. Hay Mỹ? Cũng không. Nga à? Vậy thì gì? Tôi rất thích trả lời những câu hỏi nhuốm màu quốc gia chủ nghĩa đó bằng một sự im lặng không thể lay chuyển, và để cho phải rơi vào nỗi nghi ngờ những kẻ tra hỏi tôi về các tình cảm ái quốc của tôi. Hoặc giả tôi nói dối, bảo mình là người Đan Mạch. Một số sự thẳng thắn chỉ khiến ta bị tổn thương và gây cho ta phiền nhiễu. Đôi khi mặt trời giã xuống như một thằng điên nơi những phố sôi động kia. Hoặc giả mọi thứ bị giấu đi, bị che mạng bởi mưa, điều mà tôi cũng rất, rất thích. Người ta thật dễ mến, cho dù đôi khi tôi hỗn xược kinh lên được. Thường xuyên, vào giờ ăn trưa, tôi cứ ngồi đó chẳng làm gì trên một băng ghế. Lũ cây trên bãi đi dạo xỉn mờ lại. Đám lá treo đó như chì, không có chút tự nhiên nào. Đôi khi cứ như thể mọi thứ ở đây đều làm bằng tôn và sắt nhẹ. Rồi có một trận mưa rào mới và mọi thứ đều bị ướt. Người ta giương ô, những cái xe ngựa thuê lăn bánh trên mặt đường trải nhựa, người ta vội vã lên, các thiếu nữ vén cao váy. Những cẳng chân phụ nữ kia, với bít tất thật căng, người ta chẳng bao giờ nhìn thấy chúng, và đột nhiên người ta nom thấy chúng. Các đôi giày cưới lấy, trông thật xinh, hình dạng những bàn chân tốt thịt xinh đẹp. Rồi mặt trời xuất hiện trở lại. Có chút gió và người ta nghĩ đến nhà. Đúng, tôi nghĩ đến mẹ tôi. Bà sẽ khóc. Tại sao tôi đã không bao giờ viết thư cho bà? Tôi không thể hình dung được điều này, tôi không hiểu chút nào, thế nhưng tôi không thể quyết được việc viết thư. Thì đây: tôi không muốn cung cấp thông tin. Tôi thấy thế thì quá ngu. Tệ thật, lẽ ra tôi không được có bố mẹ yêu mình. Theo một cách thức chung, tôi không muốn cả được yêu lẫn được muốn. Họ sẽ phải quen với chuyện không còn con trai nữa.
Giúp một ai đó mà ta không quen biết và chẳng hề liên quan gì tới ta, đấy là việc thật quyến rũ, điều này khiến ta thoáng thấy các thiên đường mơ hồ theo lối thần thánh. Và rồi, xét sâu xa tất tật các con người, hay ít nhất thì gần như tất tật, đều có liên quan đến ta. Những người giờ đây đang đi qua trước mặt tôi, họ liên quan đến tôi theo cách nào đó, điều này là chắc chắn. Thêm nữa, rốt cuộc đấy là việc của mỗi người. Vậy thì tôi đang đi như thế, mặt trời chiếu chói chang, và đột nhiên tôi nhìn thấy một con chó nhỏ rên rỉ dưới chân tôi. Tôi liền hiểu ngay rằng con thú xa xỉ nhỏ đang bị mắc chân vào rọ mõm của nó. Nó không chạy được nữa. Tôi bèn cúi xuống, và thế là nỗi bất hạnh lớn, rất lớn, được sửa chữa. Đúng lúc ấy bà chủ của nó tiến lại gần. Bà nom thấy chuyện đang xảy ra và cảm ơn tôi. Tôi bỏ mũ để chào bà và đi tiếp. Còn bà, sau lưng tôi, giờ bà đang nghĩ là vẫn còn đám trẻ thật dễ mến ở trên đời. Tốt quá, vậy là tôi đã giúp đám người trẻ tuổi nói chung. Và vì thêm nữa cái bà rất xấu kia đã mỉm cười. "Cám ơn, thưa anh." A, bà đã biến tôi thành một quý ngài. Đúng, người ta là một quý ngài khi biết cách cư xử. Và người ta cảm ơn một ai đó vì coi trọng kẻ ấy. Bất kỳ ai mỉm cười đều xinh đẹp. Tất tật các phụ nữ đều xứng với những điều dễ thương. Phụ nữ nào cũng có một cái gì đó thật tuyệt. Tôi từng nhìn thấy những cô thợ giặt đi lại như các hoàng hậu. Toàn bộ những cái đó thật buồn cười, ôi, quá mức buồn cười. Nhưng sao mà mặt trời ngời sáng, và sau đó tôi lao mình đi!... Thẳng đến cửa hàng lớn. Tôi phải thuê người ta chụp ảnh tại đó. Ông Benjamenta muốn có một bức ảnh của tôi. Và tôi phải viết một bản sơ yếu lý lịch ngắn và đúng. Để làm việc này tôi cần có giấy. Thế là, tôi lại còn được hưởng niềm khoái trá bước chân vào một cửa hiệu văn phòng phẩm.
Cậu bạn Schilinski của tôi là người gốc Ba Lan. Cậu nói một thứ tiếng Đức sơ đẳng và quyến rũ. Tôi không biết tại sao, toàn bộ những gì xa khơi đều có một cái gì đó thật tráng lệ. Schilinski đặt niềm kiêu hãnh lớn nhất của cậu vào một cái ghim cà vạt mà cậu đã tìm được cách để kiếm và nó tạo ra các nhấp nháy điện. Cậu cũng thích, hay nói đúng hơn cậu thờ phụng việc đốt những que diêm-cây nến. Giày của cậu lúc nào cũng bóng loáng như gương. Người ta thấy cậu vô cùng thường xuyên lau chùi trang phục của mình, đánh giày và phủi mũ cát két. Cậu thích ngắm mình trong một cái gương nhỏ bỏ túi rẻ mạt. Đám học trò chúng tôi, tất tật chúng tôi đều có gương bỏ túi, dẫu trên thực tế chúng tôi hoàn toàn không biết gì về trò cồ quẹt. Schilinski có thân hình dong dỏng cùng khuôn mặt đẹp với mái tóc xoăn mà cậu không ngừng tay chải và chăm sóc suốt cả ngày. Cậu bảo mình muốn có một chú ngựa con. Kỳ cọ một con ngựa và điểm trang cho nó, rồi đi dạo chơi, đấy là giấc mơ ưa thích của cậu. Về phần những gì thuộc các thiên bẩm trí năng, thẳng thắn thì cậu được chia cho rất ít. Câu tuyệt đối không có bất cứ sự thấu đáo nào, và về cậu người ta không thể nói cậu có sự tinh xảo hay phẩm chất khác tương tự. Và thế nhưng cậu chẳng hề ngu xuẩn, có lẽ đần, nhưng tôi không thích lắm việc nói ra cái từ ấy khi nghĩ tới các bạn của tôi. Sự thể tôi là đứa trí tuệ nhất trong số họ có lẽ thậm chí còn không đáng sung sướng cho lắm. Các ý cùng một suy nghĩ thì được gì đây cho một người khi mà anh ta có, giống tôi, cảm giác không biết dùng chúng để làm gì?
(còn nữa)
viết tiếng Đức
Gotthold Ephraim Lessing (1729–1781)
Georg Christoph Lichtenberg (1742–1799)
Johann Gottfried Herder (1744–1803)
Johann Wolfgang von Goethe (1749–1832)
Friedrich Schiller (1759–1805)
Jean Paul (1763–1825)
Novalis (1772–1801)
E. T. A. Hoffmann (1776–1822)
Heinrich von Kleist (1777–1811)
Arthur Schopenhauer (1788–1860)
Heinrich Heine (1797–1856)
Eduard Mörike (1804–1875)
Adalbert Stifter (1805–1868)
Georg Büchner (1813–1837)
Theodor Mommsen (1817–1903)
Jacob Burckhardt (1818–1897)
Gottfried Keller (1819–1890)
Paul Celan (1920–1970)
Friedrich Nietzsche (1844–1900)
Georg Simmel (1858–1918)
Peter Altenberg (1859–1919)
Gustav Meyrink (1868–1932)
Heinrich Mann (1871–1950)
Hugo von Hofmannsthal (1874–1929)
Karl Kraus (1874–1936)
Arnold Schönberg (1874–1951)
Max Scheler (1874–1928)
Rainer Maria Rilke (1875–1926)
Thomas Mann (1875–1955)
Alfred Kubin (1877–1959)
Robert Walser (1878–1956)
Martin Buber (1878–1965)
Robert Musil (1880–1942)
Franz Kafka (1883–1924)
Walter Benjamin (1892–1940)
Joseph Roth (1894–1939)
Ernst Bloch (1885–1977)
György Lukács (1885–1971)
Hermann Broch (1886–1951)
Paul Tillich (1886–1965)
Johannes Itten (1888–1967)
Martin Heidegger (1889–1976)
Ludwig Wittgenstein (1889–1951)
Franz Werfel (1890–1945)
Norbert Elias (1897–1990)
Theodor W. Adorno (1903–1969)
Ludwig Hohl (1904–1980)
Hugo Friedrich (1904–1978)
Elias Canetti (1905–1994)
Klaus Mann (1906–1949)
Fritz Hochwälder (1911–1986)
Hans Robert Jauss (1921–1997)
Friedrich Dürrenmatt (1921–1990)
David Bronsen (1926–1975)
Ingeborg Bachmann (1926–1973)
Günter Grass (1927–2015)
Carl Dahlhaus (1928–1989)
Thomas Bernhard (1931–1989)
W. G. Sebald (1944–2001)
Peter Handke (1942– )
Michael Haneke (1942– )
