favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2024
Next

Q. D. Leavis: Văn chương hư cấu và công chúng đọc 

08/02/2025 09:39

Tiếp tục chuỗi bài về đọc (kỳ mới nhất ở kia và kia), đồng thời mở rộng câu chuyện báo chí, văn chương và báo chí văn chương (entry mới nhất, về một ấn phẩm cũ, ở kia): dưới đây là hai chương đầu quyển Fiction and the Reading Public (1932) của Q. D. Leavis (1906–1981), vợ của nhà phê bình F. R. Leavis, tác giả The Great Tradition (1948) trứ danh, quyển sách về mạch lớn của văn chương Anh - Mỹ, từ George Eliot, Henry James đến Joseph Conrad.

Cùng chồng, Q. D. Leavis biên tập và điều hành Scrutiny (1932 - 1953), một trong những tạp chí phê bình uy tín nhất ở Anh của giai đoạn giữa hai thế chiến, sau thời kỳ của The New Age (1894 -1938), Rhythm (1911 - 1933), Blast (1914) và The English Review (1908 - 1937). (Ở kia đã nói sơ qua về bút chiến giữa Nhịp và Thời Đại Mới xung quanh Katherine MansfieldBỉnh bút ngôi sao của Thời Đại Mới chính là Arnold Bennett, người có công rất lớn trong việc giới thiệu văn chương Henry James, Joseph Conrad, Dostoyevsky,... đến với độc giả đại chúng. Về tờ The English Review và vai trò editor của Ford Madox Ford, có thể bắt đầu ở kia. Chúng ta cũng sẽ sớm đến với chuyện Ezra Pound làm báo, ở Anh nhưng nhất là ở Mỹ.) 

Quay lại với quyển sách của Q. D. Leavis: đây là một trong những bình luận đầu tiên về sự thương mại hóa văn chương và sự giảm tiêu chuẩn đọc, bao quát cả văn chương cao cấp và đại chúng, nhất là hiện tượng báo chí phụ nữ và ảnh hưởng từ ngành xuất bản cùng phim ảnh Mỹ (về báo chí - văn chương Mỹ giai đoạn chập chững và câu chuyện Edgar Allan Poe mắng các nhà xuất bản, xem ở kia; cùng thời kỳ, ở Anh, George Eliot viết tiểu thuyết ngu của tiểu thuyết gia nữ trên Westminster ReviewThomas De Quincey bắt đầu khám phá các tác giả vùng Hồ trên những tờ như Tait’s Edinburgh Magazine cùng Blackwood’s Maganize.) 

Hướng cái nhìn vào vai trò của các kênh trung gian, các hiệu sách và đặc biệt là thư viện, Q. D. Leavis chỉ ra rất cụ thể một nghịch lý của thời đại: ai cũng biết chữ nhưng trình độ đọc giảm rõ rệt. Việc xóa mù chữ và tăng cường tiếp cận với sách vở không mở rộng chân trời mà còn khiến nó chật chội hơn. Đọc trở thành một dạng thuốc phiện ru ngủ thay vì làm tỉnh táo tinh thần. Tạp chí mọc lên khắp nơi nhưng "chẳng còn English Illustrated Magazine để xuất bản một Henry James nào nữa." 

 

 

Văn chương hư cấu và công chúng đọc 

- Q. D. Leavis 

CHƯƠNG 1

Ở nước Anh thế kỷ XX, không chỉ ai cũng biết đọc, mà có thể khẳng định chắc chắn rằng ai cũng thực sự đọc. Mặc dù Báo cáo về Thư viện Công cộng (1927) cho biết chỉ có 11% dân số sử dụng sách từ thư viện công cộng, nhưng số lượng báo Chủ nhật được bán ra sẽ giúp điều chỉnh bất kỳ ấn tượng sai lệch nào mà những con số này có thể gây ra.

Vào ngày nghỉ, ngay cả những hộ gia đình nghèo nhất cũng mua một tờ báo, dù đó có thể là một loại báo khác so với loại mà giới có học ưa chuộng. Nếu đi dạo vào sáng Chủ nhật qua bất kỳ khu dân cư nào, ta sẽ thấy người chủ gia đình đang đọc báo. Ở mỗi cửa sổ phía trước, ngay cả tại những khu nghèo nhất, News of the World cũng được đọc trên bậc cửa hoặc ngay trên giường. Trong khi đó, việc đọc Observer hoặc Sunday Times hàng tuần - những tờ báo dành phần lớn nội dung cho các bài điểm sách và quảng cáo của các nhà xuất bản - trong nhiều trường hợp là khoảng duy nhất mà một doanh nhân có thiện chí hay một giáo viên có thể dành ra cho việc tìm hiểu văn chương.

Advertiser’s ABC năm 1929 ghi nhận tổng lượng phát hành của tám tờ báo Chủ nhật lớn nhất lên đến gần mười triệu bản, và vẫn còn nhiều tờ báo khác có độ phổ biến tương đương nhưng không có số liệu thống kê cụ thể. Nếu ta nhớ rằng một tờ báo thường được giả định là có trung bình năm người đọc, và rằng tổng dân số Vương quốc Anh là bốn ba triệu người, thì cũng có lý khi nói văn hoá đọc đã đi vào đời sống.

Nhưng khó có thể trả lời một câu hỏi thú vị hơn - Họ đọc gì? - nếu trước tiên không chỉ ra được họ tìm và tiếp cận tài liệu đọc ở đâu, bằng cách nào.

Đặc thù của tình huống là mặc dù, như đã chứng minh ở trên, toàn bộ dân số trên độ tuổi đi học đã hình thành thói quen đọc sách, các cửa hàng chỉ bán sách lại vẫn rất hiếm hoi bên ngoài các thị trấn đại học như Oxford, Cambridge, Edinburgh, một số khu vực của London và một vài thành phố lớn. Việc mua sách nghiêm túc không tăng tỷ lệ thuận với mức độ biết chữ; phần lớn công chúng không mua nhiều sách, mà toàn mượn với thuê  - từ các thư viện thành phố hoặc thư viện được tài trợ (vốn không mấy thỏa đáng), hoặc từ các thư viện tư nhân đăng ký thành viên.

Cuộc điều tra năm 1924 về kho sách và số lượng sách được mượn tại các thư viện đô thị cho thấy rằng, trong khi các thư viện này trung bình có 63% sách phi hư cấu so với 37% sách hư cấu, thì chỉ 22% sách phi hư cấu được mượn, trong khi con số này đối với sách hư cấu lên đến 78%. Trong khi đó, các thư viện cấp quận, với 38% sách phi hư cấu so với 62% sách hư cấu, cũng chỉ có 25% sách phi hư cấu được mượn.

Điều này, xét đến thực tế rằng 11% thiểu số mượn sách từ thư viện công cộng có lẽ là nhóm có tinh thần cầu tiến hơn cả trong tầng lớp độc giả nghèo, đã đủ để chứng minh thuyết phục sự thống trị của tiểu thuyết và sự thờ ơ đối với việc thực đọc - hai đặc điểm nổi bật của thời đại.

Các kệ sách hư cấu trong thư viện công cộng thường chứa những tác phẩm kinh điển và những tiểu thuyết phổ biến lâu bền trong quá khứ, các tác phẩm tiêu biểu của tất cả các tiểu thuyết gia đương thời được yêu thích nhất, và (hiếm hơn) những tiểu thuyết "văn chương" của thời đại. Tuy nhiên, ở đấy hiếm khi có những tác phẩm mà nhóm phê bình thiểu số coi là có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực tiểu thuyết - như các tác phẩm của D. H. Lawrence, Virginia Woolf, James Joyce, T. F. Powys, và E. M. Forster.

Ngoài chuyện ba trong số năm tác giả này bị phần lớn công chúng coi là tục  - một thực tế cũng đáng suy ngẫm - bốn trong số năm tác giả này chẳng nghĩa lý gì với đời, chỉ trừ những độc giả biết đọc.

Một thủ thư từng thử nghiệm đưa các tác phẩm "hay" vào thư viện của mình sẽ báo cáo rằng không ai mượn South Wind hay Tiệc vườn, cơ mà nếu ông ấy đặt thêm hai trăm bản truyện trinh thám của Edgar Wallace lên kệ thì tất cả sẽ bị mượn sạch sau cùng một buổi.

Gắn liền với thư viện công cộng là phòng đọc, chỗ ấy thể nào chẳng có một số người đang chăm chú xem qua các nhật báo, tạp chí và đặc san định kỳ được cấp.

Thư viện công cộng, như vậy, là nguồn cung cấp sách chính cho lớp độc giả nghèo. Đối với những người có thể chi một khoản phí thường niên, ta có Câu lạc bộ Sách Thời Đại (Times Book Club) và Thư viện Mudie (Mudie’s Library) hoạt động ở London (và gửi các thùng sách đến khách hàng ở các vùng nông thôn). Các quầy sách của W. H. Smith cung cấp thư viện lưu động tiện lợi tại các ga tàu và điểm trung chuyển, trong khi ở mỗi thị trấn có quy mô đáng kể, chuỗi cửa hàng dược phẩm Boots cũng vận hành các thư viện tương tự với mức phí rất thấp.

Tại các thư viện này, với một khoản phí tối thiểu (chừng nửa guinea một năm), thành viên có thể mượn tiểu thuyết, sách lịch sử, tiểu sử, du ký, tiểu luận, v.v., từ những gì thư viện chọn sẵn. Nếu trả phí cao hơn, họ có thể đặt sách theo yêu cầu.

Không có số liệu thống kê chính thức và các thư viện này cũng không cung cấp thông tin khi được hỏi. Tuy nhiên, sau nhiều giờ quan sát tại các chi nhánh khác nhau vào các thời điểm khác nhau trong ngày, tác giả đi đến kết luận rằng tỷ lệ thành viên đăng ký "theo yêu cầu" không nhiều; nghĩa là, nhìn chung, những người đủ điều kiện kinh tế để đăng ký thư viện lưu động thường chấp nhận để thư viện quyết định việc đọc của họ. Và trong trường hợp này, "đọc sách" đồng nghĩa với đọc tiểu thuyết.

Không quá khi nói rằng, đối với hầu hết mọi người, "một cuốn sách" có nghĩa là một cuốn tiểu thuyết. Điều này rõ nhất khi quan sát quá trình chọn sách: nhân viên thư viện thường được hỏi theo công thức quen thuộc:

“Có cuốn khác giống cuốn này thì cho mượn phát nhé."

“Có sách gì hay bạn có thể giới thiệu cho tôi không?"

Nhân viên nhìn lướt qua cuốn tiểu thuyết mà khách hàng cầm trên tay, rồi đưa ra một cuốn tiểu thuyết khác, và khách hàng chấp nhận mà không thắc mắc gì. Đôi khi nhân viên hỏi:

“Hi, cuốn này ông đọc chưa?"

Và câu trả lời thường là:

“Tôi cũng chả nhớ, thôi cứ lấy đi."

Khi có ý kiến phê bình, nó gần như luôn phản ánh sự thiếu hiểu biết hoàn toàn về giá trị văn chương. Ví dụ, một phàn nàn phổ biến là:

"Conrad đọc không vào đầu, mấy cái truyện đi biển tôi thấy chán lắm”

Hoặc ngược lại:

"Tôi thích Conrad vì tôi rất thích đề tài biển cả."

Ở những khu dân cư khá giả hơn, các thành viên thư viện mang theo danh sách tiểu thuyết mà họ đã chép lại từ quảng cáo sách trên báo hoặc các bài điểm sách.

Không thể phủ nhận rằng có những người đăng ký thư viện lưu động để bổ sung và định hướng việc mua sách của mình. Tuy nhiên, bất kỳ ai từng thường xuyên lui tới các chi nhánh của các câu lạc bộ sách ở London và các tỉnh trong vài năm qua đều không khỏi nhận xét rằng công chúng mượn sách đã hình thành thói quen đọc, nhưng bằng cách nào đó lại không phát triển bất kỳ tư duy phê phán nào đối với việc đọc của mình.

Điều đáng chú ý là:

Trong các sách được mượn, tỷ lệ tiểu thuyết áp đảo đáng kể sách phi hư cấu.

Phụ nữ đổi sách nhiều hơn nam giới (tức là họ quyết định nội dung đọc của cả gia đình).

Nhiều thành viên đến thư viện hằng ngày để đổi tiểu thuyết mới.

Thêm vào đó, theo một thủ thư tự nguyện cung cấp thông tin, nhiều độc giả mượn hai hoặc ba cuốn tiểu thuyết của Edgar Wallace mỗi tuần, ngoài đó ra họ chỉ mượn sách "Sapper" hoặc các tiểu thuyết trinh thám khác. Dễ nghĩ rằng thói quen đọc sách giờ đã trở thành một dạng nghiện hơn là một hoạt động trí tuệ thực sự.

Ở các con phố ngoại ô và thậm chí trong những cửa hàng nhỏ ở làng quê, người ta thường thấy các kệ tiểu thuyết cũ, nhàu nát, được cho thuê với giá 2 hoặc 3 xu một cuốn. Điều đáng ngạc nhiên là khách hàng nghèo mấy thì nghèo vẫn đủ tiền để đổi sách nhiều lần hằng tuần, thậm chí hằng ngày - nhưng làm mạnh như thế chính là thói quen đọc của họ.

Một bài báo trên Publishers' Circular có tiêu đề "Thúc đẩy một Thư viện thuê sách" cho thấy loại tiểu thuyết được ưa chuộng tại các thư viện như vậy. Có vẻ bài báo ấy nói về một thư viện lưu động nhỏ ở ngoại ô, tính phí 3 xu một tuần. Quảng cáo thường xuyên của thư viện này như sau:

SÁCH!

Tuyển tập đặc sắc của:

Sapper

Edgar Wallace

Sax Rohmer

William Le Queux

Zane Grey

Margaret Pedler

E. M. Dell

Margaret Peterson

May Christie

Kathlyn Rhodes

Olive Wadsley

Những tác giả này được quảng bá thường xuyên, đôi khi có bổ sung thêm Rider Haggard, Ruby M. Ayres, và Oppenheim. Quảng cáo này được báo cáo là rất thành công. (Có thể thấy rằng "SÁCH!" ở đây thực chất chỉ có nghĩa là "TIỂU THUYẾT!")

Ở những "quán nhậu văn chương" giá hai xu ấy, lựa chọn sách thực chất được quyết định bởi nguồn cung, tức là do chủ tiệm cố gắng cung cấp những đầu sách có sức hút thị trường. Nhưng ngay cả trong những thư viện lớn, độc giả cũng hoàn toàn thụ động.

Một bài viết chia sẻ "trải nghiệm thực tế" trên Manchester Evening News kể lại rằng khi tác giả đến Mudie’s để đổi một cuốn tiểu thuyết cho vợ, nhân viên thư viện đưa ra một tiểu thuyết trinh thám của J. S. Fletcher và một truyện phiêu lưu lãng mạn của W. J. Locke, giải thích rằng:

“Phụ nữ đã bận rộn việc nhà cả ngày rồi, chị ấy sẽ chả buồn đọc những truyện về vấn đề hôn nhân hay những bà vợ bị hiểu lầm đâu - chị ấy đã biết quá đủ về những thứ đó. Chị ấy cũng không đủ kiên nhẫn để đọc văn phương ngữ sau một ngày làm việc, và tiểu thuyết lịch sử thì không đủ sống động. Chị ấy sẽ thích đọc một câu chuyện có thể xảy ra, nhưng nằm ngoài kinh nghiệm bản thân. Rồi xem tôi nói có đúng không."

Tác giả bài viết kết luận: "Và đúng là cô ấy thích thật."

Ảnh hưởng của thực trạng này đối với thị hiếu sẽ được phân tích sâu hơn ở đoạn sau nghiên cứu này.

Về tác động đối với thị trường sách, Stanley Unwin, một nhà xuất bản uy tín, đã mô tả trong tác phẩm quan trọng của ông mang tên Thực tiễn Ngành Xuất bản như sau:

"Các thư viện lưu động là một trong những khách hàng lớn nhất mà các đại diện thương mại ngành sách tiếp cận. Đây là một chủ đề rất nhạy cảm. Một số nhà xuất bản bảo vệ hệ thống thư viện lưu động; một số khác lại muốn xóa sổ chúng hoàn toàn.

Xét về việc chúng cung cấp sách một cách nhanh chóng và hiệu quả đúng theo nhu cầu của độc giả thì thật khó để phản đối sự tồn tại của chúng. Nhưng đáng tiếc, điều này chỉ áp dụng đối với những trường hợp được gọi là 'đăng ký bảo đảm'. Và dù không có số liệu thống kê trong tay, tôi tin rằng số lượng độc giả có đăng ký bảo đảm chỉ là một thiểu số rất nhỏ.

Không có gì đảm bảo rằng những độc giả còn lại sẽ nhận được đúng những cuốn sách mà họ yêu cầu.

Hệ thống hiện tại có xu hướng thúc đẩy việc lưu hành những cuốn sách tầm thường và kém chất lượng, đồng thời cản trở sự phổ biến của những tác phẩm thực sự có giá trị, đặc biệt là của các nhà văn chưa có danh tiếng.

Có một thư viện lưu động thậm chí còn tự hào rằng họ có thể ép độc giả mượn những gì họ cung cấp - mà trong trường hợp này có nghĩa là những cuốn sách mà thư viện có thể mua với giá rẻ nhất.

Giải pháp không nhất thiết là xóa bỏ các thư viện lưu động (vì thói quen sử dụng chúng đã ăn sâu vào xã hội Anh), mà là giáo dục công chúng để họ biết rằng họ phải nhận được những cuốn sách họ yêu cầu, chứ không phải những thứ thay thế.

Tôi tin chắc rằng bất kỳ hình thức đăng ký nào khác ngoài 'đăng ký bảo đảm' đều có hại."

Không đi sâu vào câu hỏi ông Unwin thực sự muốn nói gì khi dùng thuật ngữ "sách kém chất lượng" và "sách thực sự hay", ít nhất ta có thể chỉ ra rằng các thư viện thương mại chỉ đáp ứng thị hiếu chung rộng nhất, vì sẽ có lợi hơn khi mua (với mức chiết khấu lớn) ba trăm bản của một cuốn tiểu thuyết mà ai cũng sẵn lòng đọc, hơn là mua một số lượng ít một trăm đầu sách khác nhau nhưng không thể lưu hành hết trong số khách hàng.

Nếu hỏi bất kỳ người bán sách nào tại sao họ không mua sách, họ chắc chắn sẽ trả lời rằng các thư viện lưu động là nguyên nhân chính:

"Hãy nhìn vào nước Pháp, nơi cách duy nhất để đọc một cuốn sách là phải mua nó - và chẳng phải doanh số bán sách ở Pháp đã tăng gấp ba hoặc bốn lần kể từ sau chiến tranh đó sao?"

Nhưng dù dữ kiện này là đúng, lời giải thích trên vẫn chưa đầy đủ. Công chúng Anh không sẵn sàng trả tiền cho sách như họ sẵn sàng chi tiền cho quần áo và vé xem phim, nhưng họ vẫn mua các ấn phẩm báo - tạp chí (với giá một shilling hoặc hơn mỗi tháng) và vô số tờ báo cho cả gia đình.

Người Pháp mua sách vì nước Pháp có một công chúng có học, còn người Anh thì mua báo và tạp chí định kỳ.

Rải rác khắp các khu dân cư, ngay cả những khu nghèo nhất, là các tiệm bán báo có chức năng cung cấp tài liệu đọc cho cả khu vực. Chính điều này giải thích cho sự vắng mặt của các hiệu sách.

Một cuộc phân tích kho hàng của một tiệm báo điển hình đã cho ra danh sách đại diện sau đây:

1. Ấn phẩm định kỳ

(Dấu (A) sau một tựa đề cho biết đó là ấn phẩm Mỹ.)

(a) Nhiều tuần báo và nhật báo.

(b) Một số tuần báo văn hóa ở các cấp độ khác nhau, bao gồm:

New Statesman and Nation (chỉ có khi đặt hàng trước)

John o’ London’s (chứa các tin đồn văn chương và bài viết về sách cùng tác giả nổi tiếng)

Ở giữa hai loại trên có các tờ báo như Everyman hoặc Week-End Review (giới thiệu cho độc giả những cuốn sách mà họ sẽ thích), và The Listener (do BBC xuất bản).

(c) Tạp chí hài hằng tuần, như:

Punch (chiều theo các định kiến của tầng lớp trung lưu)

The Humorist (hướng đến tầng lớp thấp hơn)

(d) Bảy hoặc tám tạp chí tin tức minh họa sang trọng (giá 1 shilling, có phong cách gần với Punch), chẳng hạn:

The Tatler

The Sphere

The Sketch

Sporting and Dramatic

The Bystander

(e) Một số ít tạp chí văn chương (được liệt kê bên dưới).

(f) Hơn hai mươi tạp chí truyện hư cấu dày dặn, giá 6 xu hoặc 1 shilling mỗi tháng, chẳng hạn:

The Strand

Happy

Hush Magazine

Nash’s

Wide World (“Tạp chí dành cho Đàn ông”)

True Story

World Stories of Thrills and Adventure

Một số tạp chí dành riêng cho truyện trinh thám, trong đó ít nhất có Black Mask là của Mỹ.

(g) Tạp chí phụ nữ, tức là những tạp chí có truyện hư cấu như ở mục (f), nhưng được thiết kế riêng cho nữ giới, với nhiều bài viết về trang trí nhà cửa, nội trợ, thời trang, nấu ăn và làm đẹp, cùng với khối lượng lớn quảng cáo. 12 tạp chí thuộc nhóm này được bán thường xuyên, tiêu biểu là:

Modern Woman (“Chuyên về phong cách cá nhân”)

Good Housekeeping (A)

Ideal Home

Delineator (A)

Woman and Beauty (tạp chí phụ nữ phổ biến nhất, đa phần là ấn phẩm Mỹ)

Những tạp chí này thường tự hào quảng bá rằng chúng cung cấp "tiểu thuyết hạng nhất".

(h) Chín tạp chí điện ảnh (không phải tạp chí kỹ thuật mà có truyện hư cấu, bài về điện ảnh và quảng bá phim, nhằm tạo ra các "fan điện ảnh"). Bảy trong số chín tạp chí này là của Mỹ, bao gồm:

Motion Picture Classics (A) (“Tạp chí có cá tính”)

Screen Romances (A)

Screen Play Secrets (A)

Greenland (A) (“Tạp chí điện ảnh thông minh nhất nước Mỹ”)

The Motion Picture (A)

The Picturegoer

Khi được hỏi về mức tiêu thụ của các tạp chí này, một người bán báo trả lời: “Bán chạy vô cùng!”

Có thể cũng nên kể đến College Humour (A), một tạp chí Mỹ chuyên đăng bài viết, truyện ngắn và truyện cười về đời sống sinh viên.

(i) Báo khổ nhỏ giá 2 xu (xuất bản hàng tuần, có hình thức như tạp chí, chứa những truyện hư cấu sơ sài và dễ bán), chẳng hạn:

London Novels (“Anh ấy có phải chồng cô ta không?”)

Love Stories (“Chỉ là một con búp bê sơn phết”)

Peg’s Paper

Eve’s Own

Ít nhất một tá ấn phẩm khác thuộc loại này.

2. Sách tiểu thuyết bìa mềm giá 6 xu, 9 xu và 1 shilling

(Của các tác giả nổi tiếng như Oppenheim, Edgar Wallace, Baroness Orczy.)

3. Thư viện Sixpenny của Benn (gồm các tập sách giáo dục đơn giản)

4. Tuyển tập Sixpenny Augustan Poets của Benn (tuyển thơ giá rẻ)

5. Một đến hai kệ sách Nelson's Classics (giá 1 shilling 6 xu) và một số tiểu thuyết đại chúng giá 2 shilling

6. Một số sách dành cho trẻ em, từ điển và sách nấu ăn

7. Một số tiểu thuyết giá 6 xu được xuất bản bởi Readers' Library và Novel Library.

Tỷ lệ giữa các loại ấn phẩm có thể thay đổi đôi chút - loại 5 (sách kinh điển và tiểu thuyết đại chúng đắt tiền hơn) có thể không có mặt, hoặc trong những khu vực giàu có, nó có thể mở rộng để bao gồm những tiểu thuyết đại chúng đắt tiền hơn, chẳng hạn:

Các tập truyện Forsyte,

The Good Companions,

The Week-End Book,

Các tác phẩm mới nhất của P. G. Wodehouse và Ethel M. Dell.

Tương tự, các loại 3 và 4 (tập sách giáo dục nhẹ và tuyển tập thơ giá rẻ) có thể không xuất hiện.

Tuy nhiên, những thực tế quan trọng vẫn rất rõ:

Mọi người không mua sách, nhưng họ mua tạp chí.

Doanh số bán tạp chí ở mọi cấp độ và mức giá là rất lớn và ổn định,

Không có đủ nhu cầu đối với báo chí nghiêm túc để khiến các tiệm báo trữ sẵn chúng, vì vậy các báo này chỉ có khi có người đặt hàng trước.

Những phát hiện này cũng trùng khớp với những gì ông Oliver Madox Hueffer quan sát được trong cuộc điều tra gần đây về một khu nghèo ở Nam London, và nhìn chung cũng đúng với thị trường sách trên toàn quốc:

"Văn chương chủ yếu chỉ xuất hiện trong các cửa hàng dược phẩm hoặc tiệm vải vóc, và phần lớn là tiểu thuyết cùng các tạp chí giá rẻ. Những thư viện công cộng miễn phí ít ỏi thì cố gắng, dù không thực sự xuất sắc, phục vụ những độc giả nghiêm túc hơn. Nhưng do thiếu kinh phí, họ không thể bổ sung những tác phẩm mới với số lượng đáng kể, và nội dung của họ quá tản mát để có giá trị thực sự đối với giới học giả."

Hơn nữa, những thói quen đọc nhất định đã hình thành và ổn định, dựa trên loại nội dung mà các tạp chí cung cấp và cách thức trình bày của chúng. Những vấn đề này sẽ được phân tích chi tiết trong Phần II, nhưng một dấu hiệu rõ ràng của xu hướng chung có thể được thấy qua sự phổ biến của các tạp chí phụ nữ và tạp chí điện ảnh, đặc biệt là những tạp chí xuất bản tại Mỹ, với phong cách ngôn ngữ trước đây xa lạ với báo chí Anh.

Một điểm khác cũng cần lưu ý là các loại báo chí và tạp chí liệt kê ở trên có lượng quảng cáo ít nhất nhiều ngang với nội dung chữ viết. Khi xét đến chi phí in ấn, minh họa, trả thù lao cho nhà văn và nhân viên biên tập, ta có thể thấy rằng giá bán mà nhà bán lẻ trả cho mỗi tờ báo hoặc tạp chí thấp hơn đáng kể so với chi phí sản xuất thực tế.

Điều này có nghĩa là các tạp chí gần như hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn thu từ quảng cáo. Do đó, chính sách của chúng ưu tiên lợi ích của các nhà quảng cáo hơn tất cả, và vì quảng cáo chỉ có giá trị ở những nơi có lượng phát hành cao nhất nên mọi thứ đều bị hy sinh để đạt chỉ tiêu phát hành.

Ảnh hưởng của nguyên tắc đó sẽ được phân tích rõ ràng hơn trong Phần II quyển này.

Ngoài Times Book Club và Mudie’s phục vụ tầng lớp trung lưu cao và Boots phục vụ tầng lớp trung lưu thấp thì các tiệm báo chính là thay thế của hiệu sách đối với đa số người dân. Tuy nhiên, ta cũng không thể bỏ qua các cửa hàng sách của tầng lớp lao động. Những nơi có chuỗi cửa hàng bán lẻ lớn thường có chi nhánh của Woolworth - một công ty Mỹ chuyên bán hàng giá rẻ. Ở đây, gần như mọi thứ thiết yếu cho cuộc sống có thể được mua với giá 3 xu hoặc 6 xu, bao gồm cả sách.

Tất cả sách ở đây đều là tiểu thuyết và được chia làm ba loại:

Quầy tiểu thuyết bìa mềm giá 2 xu, 3 xu và 6 xu, bao gồm các tác phẩm của Gene Stratton Porter và những tác giả tương đương của Anh.

Quầy “Tạp chí Mỹ đặc sắc”, nơi các tạp chí Mỹ được bán lại với giá 3 xu. Do doanh số ổn định nên hàng hóa ở đây liên tục được thay đổi.

Dòng sách giá 6 xu của Readers’ Library và các ấn bản giá rẻ tương tự, được giới thiệu lần đầu đến công chúng thông qua hệ thống cửa hàng này.

Lời tựa của mỗi tập sách giải thích mục đích của dòng sách như sau:

"READERS’ LIBRARY được tạo ra nhằm mang những tiểu thuyết nổi tiếng nhất thế giới đến với hàng triệu người, bằng cách phát hành với mức giá thấp nhất có thể trên mỗi bản in, ở kích thước tiện lợi, trên giấy chất lượng cao, với bìa đẹp và bền. Bộ sách này bao gồm một loạt câu chuyện - cả có bản quyền và không có bản quyền - mà ai cũng từng nghe nói và mong được đọc."

"Trước đây chưa từng có tiền lệ, ngay cả trong những thời kỳ mà chi phí sản xuất sách thấp nhất. Để có thể thực hiện được điều này ở thời điểm hiện tại, mỗi tập sách cần phải đạt doanh số hàng trăm nghìn bản, và theo thời gian, nhiều tập trong bộ này sẽ tìm đường đến gần như mọi gia đình, dù khiêm tốn đến đâu, trên toàn Anh Quốc."

"Nhà xuất bản hoàn toàn tin tưởng rằng mục tiêu này sẽ đạt được, bởi vì chỉ chưa đầy năm năm kể từ khi bộ sách này có mặt trên thị trường, hơn năm mươi triệu bản đã được bán ra chỉ riêng tại Anh."

"Những tiểu thuyết trong READERS’ LIBRARY sẽ được tuyển chọn bởi một trong những học giả danh tiếng nhất đương thời, và mỗi tập sách sẽ kèm theo một ghi chú ngắn về tiểu sử và thư mục của tác giả cùng các tác phẩm."

Ban đầu, biên tập viên lựa chọn các tác phẩm kinh điển đại chúng (Uncle Tom’s Cabin, The Last Days of Pompeii, Pilgrim’s Progress, Westward Ho!, v.v.) và viết phần giới thiệu phê bình cho từng cuốn sách.

Tuy nhiên, một nguyên tắc mới nhanh chóng xuất hiện: bất cứ khi nào một siêu phẩm điện ảnh được ra mắt (Love - bản chuyển thể của Anna KareninaBen-HurHis Lady - chuyển thể của Manon LescautThe Man Who Laughs - chuyển thể của L’Homme Qui Rit), thì sách dựa trên bộ phim đó cũng sẽ được xuất bản (và được quảng cáo trên bìa sách với nhãn “Book of the Film” kèm theo ảnh chụp từ phim bên trong).

Những cuốn sách này bán rất chạy, đến mức giai đoạn tiếp theo là sản xuất hẳn một cuốn sách lấy tên từ bộ phim hoặc vở kịch, ngay cả khi bản gốc không tồn tại, nội dung được viết lại bởi một tác giả chuyên viết thuê. Hiện nay, các tiểu thuyết giật gân, truyện ngắn đại chúng và “sách phim” đã hoàn toàn chiếm lĩnh thị trường, thể hiện sự thương mại hóa công khai một dòng sách vốn từng được các chính khách và giám mục hoan nghênh nồng nhiệt khi ra mắt vào năm 1924.

Nhà phê bình danh tiếng - người phụ trách phần giới thiệu ban đầu - dần rơi từ vai trò nhà phê bình sang vai trò người bào chữa, sau đó trở thành người ủng hộ thị hiếu đại chúng, và cuối cùng chỉ đơn thuần cung cấp một số thông tin cơ bản về tác giả và cốt truyện.

Giai đoạn gần đây nhất là sự ra mắt của ấn bản phim (Readers’ Library Film Edition), với phần Lời tựa sau đây:

“Readers’ Library Film Edition được ra đời để đáp ứng một nhu cầu thực tế của thời đại. Sự quan tâm đến một bộ phim không chấm dứt sau khi người ta xem nó. Hai loại hình nghệ thuật - hình ảnh và chữ viết - tác động qua lại lẫn nhau.
... Nói một cách đơn giản, người xem phim cũng muốn đọc sách phim, và độc giả cũng muốn xem phim sách.
Để đáp ứng nhu cầu không thể phủ nhận này đối với văn chương gắn liền điện ảnh, sẽ không đủ nếu chỉ sản xuất những cuốn sách kém chất lượng... Việc xuất bản sẽ được đồng bộ với thời điểm ra mắt mỗi bộ phim quan trọng.”

Như vậy, nhà phê bình danh tiếng đã bị thay thế bởi nhà sản xuất phim Mỹ - một sự thay đổi trở nên dễ dàng hơn nhờ sự ra đời của phim có tiếng (talkie), với lời thoại có sẵn để chuyển luôn thành sách.

Phần giới thiệu nay đã không còn hướng về văn chương, mà tập trung hoàn toàn vào các ngôi sao điện ảnh:

“The Rogue Song, dựa trên vở nhạc kịch lãng mạn nổi tiếng Gipsy Love, là một trong những thành tựu rực rỡ nhất của phim có tiếng.

Câu chuyện đã được chuyển thành một tiểu thuyết hấp dẫn, và phong cách của ông Val Lewton đã nắm bắt trọn vẹn giai điệu và chất lãng mạn của bộ phim, với ngôi sao chính là Lawrence Tibbett - giọng nam trung vĩ đại nhất nước Mỹ.

... Chuyện tình đầy cảm xúc của lãng tử Digan và công chúa xinh đẹp đã tạo nên một trong những tiểu thuyết điện ảnh tuyệt vời nhất mà chúng tôi từng xuất bản.”

Có vẻ như việc gắn sách với điện ảnh đang mang lại lợi nhuận lớn, vì Novel Library (For Fiction Lovers) cũng đã hoàn toàn chuyển sang sách chuyển thể từ phim nói. Ban đầu, Novel Library xuất phát từ mô hình của Readers’ Library - tương tự như Leisure Library Ltd. và Detective Story Club Ltd.. Nhưng nay họ đã ngừng xuất bản Wells và Galsworthy cho đại chúng, thay vào đó tập trung sản xuất “book of talkie” [tiểu thuyết dựa trên kịch bản phim]. (Lưu ý: cả ba dòng sách này hiện được bán cùng Readers’ Library.)

Bộ phim Welcome Danger được quảng cáo với khán giả bằng chính ngôn ngữ của phim:

"Bạn biết Harold Lloyd?
Chắc chắn rồi. Bạn đã xem chàng trong College Days và Safety Last chưa? Hẳn chứ.
Nhưng bạn còn chưa cười hết cỡ đâu, chưa cho đến khi xem Welcome Danger - bộ phim hài hước nhất mà chàng từng đóng. Và bạn sẽ cười đến chết khi đọc cuốn sách, bởi vì bạn sẽ cảm thấy như đang ở ngay bên cạnh Harold vậy!"

Vai trò ngày càng tăng của Tư bản Lớn - mà dựa vào các bằng chứng trên, ta có thể coi ngành công nghiệp điện ảnh là một phần trong đó - đã dẫn đến sự suy giảm ham muốn đọc bất kỳ thứ gì có thể được xếp vào danh mục "văn chương", ngay cả với cách phân loại rộng rãi nhất.

Thay vào đó, một loại hình thay thế đã xuất hiện, có lẽ thể hiện rõ nhất qua bìa một ấn phẩm điển hình:

"The Girl from China"
Tiểu thuyết hóa bởi Karen Brown
Chuyển thể từ Drifting của John Cotton
Một bộ phim của Universal, với sự tham gia của MARY NOLAN.

Một số đầu sách thuộc Readers' Library hiện được bán tại hầu hết các quầy báo, nhưng doanh số chính vẫn đến từ các khu chợ bách hóa. Tại đây, trong khi khách hàng di chuyển từ quầy này sang quầy khác để mua đồ sành sứ giá rẻ, chuỗi hạt, chụp đèn, kẹo bơ cứng, đồ chơi, xà phòng, hoa hoét rau củ quả, dưới nền nhạc từ những đĩa hát 6 xu vang lên trong không gian với "Headin' for Hollywood" và "Love Never Dies", họ cũng vô thức bị cuốn vào việc mua sách.

Nếu là một thị trấn nông thôn, khu chợ bách hóa sẽ chật kín vào ngày họp chợ, khi người dân quê kéo vào trung tâm mỗi tuần một lần để mua sắm, và sách Woolworth trở thành nguồn cung đọc chính cho cả vùng. Nếu ở thành phố, các bà nội trợ trong khu vực sẽ đều đặn ghé chợ vào các ngày thứ Bảy, dù luôn có một dòng người ổn định đi dọc các quầy hàng và xem xét sản phẩm suốt cả tuần.

Và như thế, những tiểu thuyết bìa giấy của Nat Gould, Charles Garvice, Joseph Hocking, P. C. Wren, Sabatini, và Phillips Oppenheim, cùng với các tạp chí Mỹ như:

Ranch Romances

Far-West Stories

Love Romances

The Popular Magazine

Marriage Stories

Detective Classics

Black Mask

Gangster Stories ("Tạp chí về những tay xã hội đen và gái giang hồ")

…cùng với các sách 6 xu như:

Harem Love ("Tình yêu hậu cung" của Joan Conquest, tác giả Desert Love)

Officer ("Một tiểu thuyết tội phạm ngầm của Hulbert Footner")

The King of Kings ("Câu chuyện về siêu phẩm điện ảnh Cơ Đốc giáo")

… cứ thế theo chân khách hàng về nhà trong giỏ mua sắm.

 

CHƯƠNG 2

Báo chí loan lên rằng rằng hơn 200.000.000 từ tiểu thuyết hư cấu mới thuộc thể loại IT được xuất bản mỗi tháng. Dù hầu hết trong số này là truyện ngắn đã in trên 900 tạp chí, vẫn có một dòng chảy tiểu thuyết ổn định. Bán thơ thì lỗ, bán tiểu thuyết mới là nguồn thu chính.

Chương trước đã nói: đọc tiểu thuyết giờ đã khác nào chứng nghiện, và thị trường sách phụ thuộc vào một công chúng mua sách theo thị hiếu đã hình thành từ thư viện. Vậy điều gì quyết định sự lựa chọn sách?

Đã bỏ ra sáu shilling đến nửa guinea để mua một cuốn tiểu thuyết, hay thậm chí sáu xu ở Woolworth’s hay quầy báo địa phương thì chẳng ai mù quáng đến độ không biết mình sẽ tiếp nhận những gì. Và đương nhiên, rất ít người vừa có thời gian vừa có khả năng tự mình chọn lọc từ cả kho tiểu thuyết xuất bản mỗi năm.

Thế kỷ XX này, người ta cần tiếp cận một công chúng bốn mươi ba triệu người vì tất cả họ, dù ở mức độ khác nhau, đều biết chữ. Nhưng bộ phận dân số có mua hoặc mượn sách lại phân tán trên không gian quá rộng và còn bị chia tách thêm bởi sự khác biệt về trình độ phát triển cũng như giáo dục, đến mức cần đến một tổ chức khổng lồ như nền báo chí hiện đại để đóng vai trò trung gian giữa tác giả và độc giả - thông qua các bài điểm sách, quảng cáo và chuyên mục văn chương.

Chỉ riêng các tạp chí thuần túy văn chương cũng có thể được phân thành ba loại khác nhau dựa trên nội dung, phục vụ ba tầng lớp độc giả riêng biệt, và mỗi loại sẽ ít có giá trị đối với độc giả của hai loại còn lại.

The Criterion sẽ chỉ đánh giá những tiểu thuyết có chút tham vọng về giá trị văn chương và có thể được phê bình theo các tiêu chuẩn nghiêm túc (cả trong giới văn chương, người ta vẫn thường gán cho nó cái nhãn “trí thức cao”); trong khi đó, The Times Literary Supplement, đại diện cho quan điểm học thuật an toàn, sẽ tóm tắt và bình luận cốt truyện cũng như giá trị của bất kỳ tác phẩm nào do một tiểu thuyết gia danh tiếng viết; còn một loạt các tuần báo giá rẻ khác thì dường như chỉ đáp ứng nhu cầu bàn tán về văn chương và cung cấp thông tin về mức độ dễ đọc của từng cuốn. Ta có thể gọi những tầng bậc này là highbrow (hàn lâm), middlebrow (trung lưu) và lowbrow (bình dân).

Các ấn phẩm văn chương lowbrow tiêu biểu có số lượng phát hành từ 30.000 đến 50.000 bản mỗi số, thậm chí có một tờ đạt 100.000 bản, trong khi đó London Mercury - thuộc tầng lớp tiếp theo - chỉ đạt 10.000 bản. Đối với The Criterion, không có số liệu chính xác, nhưng việc tờ này dao động giữa xuất bản theo quý và theo tháng cho thấy lượng tiêu thụ không đủ vững. The Adelphi, một tạp chí ít cứng nhắc hơn nhưng có lịch sử tương tự, trung bình bán được 4.200 bản mỗi tháng với giá một shilling từ năm 1923 đến 1927, nhưng khi chuyển sang phát hành theo quý với giá nửa crown từ năm 1927 đến 1930, số lượng giảm xuống còn 1.700 bản. Sau khi quay lại xuất bản hàng tháng với giá một shilling, nó chỉ bán được dưới 4.500 bản. The Calendar, một tạp chí ít nhất cũng thông minh và sắc bén như The Criterion nhưng sôi động hơn nhiều, đã ngừng xuất bản vào năm 1928 sau ba năm hoạt động vì thiếu hỗ trợ.

Top of Form

Bottom of Form

Một tiểu thuyết được báo chí lowbrow đón nhận nồng nhiệt có thể bị báo chí middlebrow hờ hững và bị báo chí highbrow chế giễu hoặc phớt lờ. Loại sách mà báo chí middlebrow hết lòng ca ngợi sẽ bị các nhà phê bình highbrow xem là nguy hại. Mỗi tầng lớp có một nhóm độc giả riêng, tạo nên những cấp độ công chúng khác nhau.

Rõ ràng, ta đang có nhiều nhóm công chúng chẳng ăn nhập gì với nhau, với gần hai mươi tạp chí văn chương xuất bản hằng tuần, hằng tháng và hằng quý nhằm chuẩn hóa các mức độ thị hiếu khác nhau. Số lượng phát hành của chúng cho thấy thiểu số có thị hiếu ngày càng thu hẹp.

Ngay cả lượng phát hành của các ấn phẩm thuộc hai cực đối lập cũng không thể hiện được khác biệt đáng kể trong một dân số 45 triệu người: chẳng hạn, lượng phát hành của các tạp chí lowbrow là khoảng 250.000 bản, trong khi highbrow chỉ có 4.000 bản. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng con số sau chỉ thể hiện số bản in thực tế (bởi hầu hết độc giả của The Criterion có lẽ là người đăng ký dài hạn), trong khi đó các tờ như The Listener, Everyman, John o’ London’s - phục vụ cùng một tầng lớp độc giả - được luân chuyển qua vô số tay trong các phòng đọc của thư viện công cộng. Ngoài ra còn có một lượng lớn công chúng thụ động mua các nhật báo có số lượng phát hành lớn (từ một đến hai triệu bản mỗi tờ) và các tờ báo Chủ nhật (từ một đến ba triệu bản mỗi tờ).

Chính nhóm công chúng này đã khiến hầu hết các tờ báo lớn sẵn sàng trả tiền để mời những nhân vật văn chương nổi tiếng viết bài đánh giá hoặc điểm sách hằng tuần. Nhờ những bài viết này, họ có thể tự tin giới thiệu một số tiểu thuyết nhất định, và chính nhờ danh tiếng của nhà phê bình (dù là tiểu thuyết gia hay nhà báo) cũng như mức độ quảng bá mà những cuốn sách này trở nên nổi tiếng và được đọc rộng rãi. Các nhà sách có uy tín sẽ khẳng định rằng, chẳng hạn, chỉ cần ông Arnold Bennett đề cập đến một cuốn tiểu thuyết trong bài hằng tuần của mình là nó có thể bán hết ngay. Người kế nhiệm ông, Harold Nicolson, gần đây đã khiến cuốn The Way of All Flesh hết sạch chỉ bằng một lần nhắc đến trong chương trình phát thanh trên BBC.

Quảng cáo tiểu thuyết ngày nay thường chỉ trích dẫn một nhận xét đơn giản từ những nhà phê bình như vậy - những nhận định ngắn gọn, đầy quyền uy hơn là những bài phê bình thực sự - và các nhà xuất bản táo bạo thậm chí sẵn sàng tái bản sách với một dải băng hoặc bìa mới in kèm nhận xét đó. Tất cả điều này cho thấy rằng phần lớn công chúng đã có sẵn quyết định trước khi mua hoặc mượn sách, bởi ngay cả những người không đọc mục điểm sách trên các tờ báo hằng ngày và hằng tuần cũng khó mà không bị ảnh hưởng bởi quảng cáo sách.

Quảng cáo hiện đại sẽ được bàn đến sau, nhưng chỉ cần lưu ý rằng nó đã đạt đến mức độ hiệu quả đáng lo ngại.

Một sự tiêu chuẩn hóa thị hiếu thậm chí còn hiệu quả hơn được thể hiện qua hoạt động của The Book Society và The Book Guild (nay đã ngừng hoạt động). The Book Society được thành lập theo mô hình Book-of-the-Month Club của Mỹ vào năm 1927, còn The Book Guild thì ra đời đầu năm 1930. Mỗi tổ chức đều có một Ủy ban Tuyển chọn gồm năm tiểu thuyết gia và nhà báo (hầu hết trong số họ cũng đồng thời là các nhà phê bình sách cho báo và tạp chí).

Phương thức hoạt động của họ như sau:

"Các nhà xuất bản trên khắp đất nước gửi trước những tác phẩm quan trọng nhất của họ đến ủy ban tuyển chọn. Từ đó, ủy ban sẽ chọn ra một cuốn sách của tháng và lập thêm một danh sách bổ sung gồm các tác phẩm khác mà họ có thể giới thiệu.

Vào sáng ngày sách được xuất bản, mỗi thành viên của The Book Society sẽ nhận được một bản in đầu tiên của cuốn sách mà ủy ban đã chọn. Kèm theo đó là một số Book Society News, trong đó có các bài đánh giá của các thành viên ủy ban về cả cuốn sách được chọn lẫn các cuốn sách trong danh sách bổ sung. Nếu thành viên nào cảm thấy cuốn sách được chọn không phù hợp với mình, họ có thể trả lại trong vòng năm ngày và sẽ nhận được một cuốn sách khác từ danh sách bổ sung theo lựa chọn của họ.

Trên thực tế, phần lớn các cuốn sách được chọn có khả năng là tiểu thuyết, bởi vì số lượng tiểu thuyết xuất bản luôn vượt xa các thể loại văn chương khác...

Tham gia ngay và luôn The Book Society để khỏi bỏ lỡ sách hay bạn nhé."

The Book Society tuyên bố rằng với sự hỗ trợ của Ủy ban Tuyển chọn, sẽ không thể có chuyện bạn bỏ lỡ một cuốn sách thực sự giá trị nào. Họ khiến người ta cảm giác rằng chỉ cần tham gia The Book Society, độc giả sẽ vĩnh viễn duy trì kết nối với thế giới văn chương.

Danh sách các tác giả tham gia hội đồng tuyển chọn bao gồm những cái tên như G. B. Stern, A. P. Herbert, Rebecca West, Denis Mackail... cùng các tiểu thuyết gia có tính thương mại cao hoặc thời thượng như Hemingway, Osbert Sitwell.

Tính đến tháng 12 năm 1929, The Book Society đã có gần 7.000 thành viên và vẫn đang tiếp tục phát triển. Một người quan sát khách quan có thể rút ra hai thay đổi quan trọng trong văn hóa đọc:

Thứ nhất, bằng cách áp thẩm quyền lên một loại thị hiếu trung bình, nó đã tạo ra một chuẩn mực middlebrow. Ví dụ, đối với The Book Society, việc xuất bản A Modern Comedy được coi là một sự kiện quan trọng trong lịch sử văn chương Anh hiện đại.

Thứ hai, thị hiếu middlebrow đã được tổ chức thành hệ thống. Lượng độc giả 7.000 người không chỉ tuyên bố đại diện cho "sự khai sáng văn chương" mà còn trở thành một yếu tố có sức ảnh hưởng lớn đối với các nhà xuất bản.

Và mọi thứ không chỉ dừng lại ở con số 7.000, đúng như ông Hugh Walpole (một thành viên của ủy ban tuyển chọn) đã nói:

"Không còn nghi ngờ gì nữa, những cuốn sách như The Edwardians, The Water Gypsies và Bengal Lancer đã bán được nhiều hơn đáng kể so với nếu chúng không được chọn bởi The Book Society."

Một người quan sát khách quan cũng có thể nhận thấy một sự khó chịu nhất định trong tài liệu giải thích về The Book Guild. Mặc dù tổ chức này tuyên bố mục tiêu là phục vụ công chúng muốn tìm kiếm những cuốn sách "đọc được", ủy ban tuyển chọn không thể đảm bảo điều đó mà không tự coi mình là một tiêu chuẩn phán xét, đồng thời thể hiện thái độ thù địch với bất kỳ tiêu chuẩn nghiêm túc nào khác:

"Trong số hàng ngàn cuốn sách xuất bản mỗi năm - tầm 12.000 đến 14.000 đầu sách - làm sao một người bình thường có thể chọn được đâu là tác phẩm đáng đọc? Các nhà phê bình danh tiếng cố gắng định hướng cho công chúng, nhưng họ lại quá 'hàn lâm' và 'cao siêu' đến mức chỉ làm tăng thêm sự hoang mang."

Khi được giải thích về mục tiêu của The Book Guild, tôi thấy nó dường quá lý tưởng - một tổ chức phục vụ những độc giả thông minh bình thường, chứ không phải giới "hàn lâm", một tổ chức nhận ra rằng một cuốn sách vừa có thể có cốt truyện hấp dẫn, vừa có giá trị văn chương, một tổ chức sẽ không đề cao một tác phẩm chỉ vì nó được một nhà phê bình uyên bác nào đó ca ngợi, một tổ chức có thể theo dõi được những tác phẩm xuất sắc nhất đương thời nhưng đồng thời cũng đảm bảo rằng có sách phù hợp cho tất cả mọi người, và đó sẽ là những cuốn hay nhất thuộc thể loại của chúng.

Một trong những mục tiêu chính của nó là tránh "thói khoa trương đáng trách" - như việc đề xuất một cuốn sách là thiên tài chỉ vì nó khó hiểu và được viết tối nghĩa, hoặc đề cao một tác phẩm nước ngoài chỉ vì nó là nước ngoài, và tên tác giả khó phát âm. (Ethel Mannin trong The Bookworm’s Turn, xuất bản bởi The Book Guild.)

Các nhà văn viết tiểu thuyết trinh thám có một nhóm độc giả riêng, mặc dù họ không hướng đến các "quý cô trẻ tuổi tụ tập quanh quầy sách của thư viện Boots" và cũng không mấy thu hút "những tay ù lì chạy theo các nhà phê bình hàn lâm." (George A. Birmingham trong The Book Guild Bulletin, tháng 7 năm 1930, giải thích về lý do The Book Guild chọn một tiểu thuyết trinh thám.)

Giọng kích động dễ nhận thấy ở đây - và sẽ còn xuất hiện ở nhiều đoạn khác trong chương này và chương sau - có lẽ là đặc điểm quan trọng nhất và cũng chính là điều định hình nên bối cảnh văn hóa đương thời. Liên quan đến vấn đề này, sự kêu gọi bản năng bầy đàn của cả hai hội nhóm nói trên là một điểm đáng lưu ý. Điều này cũng tương tự cách các nhà xuất bản quảng cáo sách theo kiểu:

"Old Pybus" của Warwick Deeping - 75.000 bản trong sáu tuần

với giả định rằng một cuốn tiểu thuyết sẽ có khả năng là sách hay hơn nếu nó thu hút được đám đông độc giả thay vì chỉ một thiểu số. Người chiến thắng trong cuộc thi của The Book Society với chủ đề "The Book Society có ý nghĩa gì đối với tôi" đã tuyên bố:

"Tôi coi The Book Society như một đàn cừu mà tôi có thể lẻn vào để trú ẩn, biết rằng lông của những con cừu khác cũng sẽ có cùng màu với tôi."

Cùng khao khát lấy lòng và xoa dịu "người bình thường ngoài phố" ấy là đặc điểm thiết yếu của báo chí hiện đại. Cuốn Journalism for Profit của Michael Joseph có một chương đáng chú ý với tiêu đề "Làm thế nào để kiếm tiền từ nghề báo" do các nhà báo thành công đóng góp. Một đoạn tiêu biểu trong đó viết:

"Sau khi đã làm xong điều đó, công việc tiếp theo là đứng về phía Công Chúng Vĩ Đại của Anh Quốc. Giữ lông mày đừng quá nhướng cao [chơi chữ: high brow, nghĩa là đừng quá đạo mạo]. Có thể anh biết mọi thứ và thấy tiếc vô cùng cho Công Chúng Vĩ Đại vì họ không được hưởng những đặc quyền như mình. Nhưng Công Chúng Vĩ Đại không phải lúc nào cũng ấn tượng với điều đó. Thường thì họ chỉ thấy chán ngấy thôi. Ngớ ngẩn và hợm thật, nhưng thực tế là vậy. Hãy làm họ vui. Hãy cổ vũ họ. Hãy trò chuyện với họ. Hơi quát nạt họ một chút. Chọc cười họ. Cười cùng họ. Tâm sự với họ. Thỉnh thoảng, hãy cho họ một câu chuyện cảm động lấy nước mắt - họ thích điều đó lắm. Nhưng, vì sự thành công của anh, đừng bao giờ tỏ ra cao ngạo hay trí thức với họ."

Điều này đặc biệt quan trọng, bởi vì sức mạnh của nhà báo với tư cách trung gian trong việc định hình thị hiếu đại chúng không thể bị đánh giá thấp. Như đã đề cập trước đó, các tạp chí và tờ báo có truyện hư cấu được bày bán phổ biến ở các quầy sách và tiệm tạp hóa, trong khi số lượng sách bán ra rất hạn chế do số nhà sách ít ỏi và nguồn cung nghèo nàn.

Để diễn đạt rõ ràng hơn khác biệt này, ta có thể so sánh: một tiểu thuyết cực kỳ ăn khách như Sorrell and Son, xuất bản năm 1928 với giá 7 shilling 6 xu và sau đó được in lại với ấn bản giá rẻ, chỉ bán được 500.000 bản trong vòng hai năm trên toàn thế giới nói tiếng Anh (theo quảng cáo của nhà xuất bản). Trong khi đó, tạp chí Strand Magazine bán được 150.000 bản mỗi tháng (chưa tính thị trường Mỹ), Good Housekeeping đạt 125.400 bản, Nash’s 100.000 bản - đây đều là những tạp chí hằng tháng cao cấp giá một shilling. Ở phân khúc thấp hơn, các tuần báo giá rẻ như Betty’s Paper có lượng phát hành 175.000 bản, còn một số tờ khác có thể đạt 200.000 đến 300.000 bản mỗi tuần.

Một cái nhìn thoáng qua cũng đủ cho thấy rằng những truyện được xuất bản theo cách này đều cùng một kiểu: chúng được các biên tập viên lựa chọn cẩn thận theo chính sách "Cung cấp cho công chúng những gì họ muốn." Theo một quy trình dễ hình dung và có thể chứng minh, điều này đã trở thành việc cung cấp loại tiểu thuyết yêu cầu ít nỗ lực nhất để đọc, đồng thời mang lại cho độc giả tâm trạng dễ chịu. Toàn bộ ngành xuất bản tiểu thuyết trên các tạp chí đã được tổ chức theo nền tảng khoa học như thế.

Để đạt được số lượng phát hành lớn nhất có thể (nhằm thu hút nhà quảng cáo), biên tập viên phải tìm cách đáp ứng thị hiếu phổ thông nhất, và ông ta không thể (hoặc nghĩ rằng mình không thể) chấp nhận xuất bản bất kỳ câu chuyện nào không theo khuôn mẫu. Điều này được thừa nhận thẳng thắn, chẳng hạn trong cuốn Viết truyện ngắn kiếm lời. Ông Michael Joseph (một đại lý văn chương, đồng thời là tác giả của The Commercial Side of Literature, The Magazine Story, Journalism for Profit, v.v.) đã in một chương có tiêu đề "Các biên tập viên muốn gì", trong đó chính các biên tập viên nêu lên yêu cầu của họ.

Những yêu cầu này lặp đi lặp lại với rất ít biến đổi:

"Những câu chuyện kịch tính và vui tươi, với một mối tình lãng mạn và một không khí dễ chịu."
"Tình yêu ư? Đương nhiên rồi. Phải lãng mạn. Nhưng đừng có u sầu quá."
"Các câu chuyện phải có sức hút mạnh mẽ đối với độc giả nữ, và happy ending là điều bắt buộc."

Những câu chuyện buồn bã và đen tối không được chào đón, cũng như những tác phẩm đề cập quá trực diện đến sếch. Những truyện rùng rợn, ma quái hoặc bạo lực cũng không được yêu cầu.

Để hiểu đầy đủ ý nghĩa của sự chuyên biệt hóa này, ta cần nhận ra rằng khi một biên tập viên viết “Không có gì nặng nề, u ám hay thần kinh bất ổn”, điều đó đồng nghĩa với việc ông ta đang ngầm lên án truyền thống sống động của tiểu thuyết (bởi những thuật ngữ này đã trở thành những tiêu chí được chấp nhận và được dùng với mục đích lịch sự). Để minh họa, ta có thể trích dẫn một cuốn cẩm nang của một nhà báo Mỹ, thẳng thắn hơn:

"Những nhà văn viết truyện ngắn có tham vọng xuất hiện trên các tạp chí uy tín cần nhớ rằng có một số chủ đề vốn không được hoan nghênh, bất kể giá trị nghệ thuật của câu chuyện ra sao. Rất ít tạp chí chấp nhận những gì u ám hoặc gây chán nản. Những nhà văn như Thomas Hardy, với cái nhìn ảm đạm và vô vọng về cuộc sống, không được chào đón trên các tạp chí đại chúng, dù kỹ thuật văn chương của họ có tinh tế đến đâu." (The Contemporary Short Story, Henry T. Baker)

Bởi vì chức năng của tạp chí ngày nay là cung cấp "thức đọc cho lúc rảnh rỗi, trong khi di chuyển hay sau giờ làm việc, trong nền âm thanh của tiếng trò chuyện trong nhà hay sóng radio", nên quan trọng là truyện phải "ngắn gọn, sinh động", thu hút một cách thô sơ như một tấm áp phích quảng cáo, đồng thời dễ dàng để một tâm trí mệt mỏi có thể tiếp thu mà không cần cố.

Thực tế, điều này đồng nghĩa với việc một nhà văn trẻ có tiềm năng trở thành tiểu thuyết gia nghiêm túc, nhưng buộc phải kiếm sống bằng ngòi bút sẽ rơi vào tình thế còn tồi tệ hơn so với các tác giả như Trollope, Dickens, hay Thackeray. Nếu anh ta chịu khuất phục và gò mình viết các truyện ngắn hoặc tiểu thuyết dài kỳ theo thị hiếu của biên tập viên thì anh ta coi như đã bị hủy hoại đối với văn chương thực sự. Một biên tập viên người Mỹ đã bày tỏ điều này một cách rất ngây thơ:

"Trên thực tế, mỗi tạp chí là một gói sản phẩm, được đóng nhãn và niêm phong bằng dấu phê duyệt của biên tập viên... Một tác giả trẻ thường bối rối khi nhận được một thư từ chối chỉ đơn giản nói rằng: 'Đây không phải là một câu chuyện phù hợp với Harper’s'. Điều đó không có nghĩa là câu chuyện đó không hay; nó chỉ đơn giản có nghĩa là trong con mắt chuyên môn của biên tập viên, câu chuyện đó không phù hợp với loại hình tiểu thuyết mà tạp chí của ông ta đã thiết lập."

Việc trích dẫn một biên tập viên Mỹ trong trường hợp này không phải là không liên quan, vì (như đã đề cập trong Chương I), các tạp chí Mỹ có lượng phát hành lớn tại Anh, và mô hình lý tưởng của báo chí Mỹ đang dần chi phối nền báo chí định kỳ của Anh.

Mối liên hệ chặt chẽ giữa nền báo chí hai nước có thể thấy rõ qua Anglo-American Manuscript Service, một tổ chức chuyên phân phối truyện trên cả hai bờ Đại Tây Dương, trong đó có một hướng dẫn gửi đến các tác giả như sau:

Như này bạn nhé,

Nếu bạn muốn trở thành một nhà văn thành công trên thị trường xuất bản Mỹ, nơi mà những tác phẩm thực sự xuất sắc được trả giá rất cao, hãy nhớ rằng tiểu thuyết Mỹ, nhìn chung, không bi quan, cũng không dung tục hay xấc xược. Nó cũng không quá cấp tiến hay chống lại các giá trị Mỹ.

Hãy tránh những chủ đề u ám. Người Mỹ không muốn sự ảm đạm, mà muốn những gì làm sáng bừng cuộc sống. Mặt trời luôn phải tỏa sáng. Hãy viết về tình dục một cách tôn trọng, và tránh những khía cạnh phản cảm của nó. Đừng thô tục. Hãy nhớ rằng phần lớn các tạp chí Mỹ không nghiêm túc tìm kiếm tư tưởng.

Đừng thảo luận các vấn đề tôn giáo theo cách có thể xúc phạm tình cảm dân tộc, và tuyệt đối không đề cập đến thuyết tiến hóa. Những câu chuyện về tôn giáo nhấn mạnh đến ân huệ và phước lành dành cho nhân loại khổ đau luôn được hoan nghênh. Hãy để các vấn đề xã hội và chính trị tự giải quyết lấy chúng. Hãy nhớ rằng nước Mỹ là một quốc gia trẻ và thịnh vượng, và không có gì trên trái đất này sánh bằng nó."

Chúng tôi muốn giúp bạn bán bản thảo của mình. Hãy hợp tác với chúng tôi."

Ở đây, English có thể hoàn toàn đồng nghĩa với American, và ngoại trừ điều khoản về thuyết tiến hóa, tài liệu này đã nêu rõ những điều kiện mà mọi truyện ngắn muốn được xuất bản trên một tạp chí Anh đều phải đáp ứng. Chẳng hạn, yêu cầu "không mang tính chống Mỹ" có thể dễ dàng được thay thế bằng quy định biên tập phổ biến ở bên này Đại Tây Dương:

"Các truyện có bối cảnh nước ngoài được hoan nghênh, miễn là trong đó có một nhân vật nam chính hoặc nữ chính là người Anh."

Cách mà các biên tập viên tạp chí Mỹ, khi tìm được một nhà văn tiềm năng, sẽ rèn và ép anh ta phục tùng hệ thống đã được giải thích trong The Dance of the Machine. Trong khi đó, tại Anh, quá trình tương tự cũng đang diễn ra, dù ít trực tiếp hơn, và có vô số đại lý văn chương đầy tham vọng sẵn sàng, như George G. Magnus, cung cấp khóa học mang tên How to Write Saleable Fiction (Cách viết tiểu thuyết bán được).

Tháng 10 năm 1930, các tạp chí đồng loạt quảng cáo:

"Bạn có thể học cách viết những câu chuyện bán chạy."
"Mười hai bài giảng về kỹ thuật viết tiểu thuyết."

Bằng chứng về hiệu quả? Học viên của Mười hai bài giảng đã báo cáo rằng họ đã bán truyện cho Windsor, Pearson’s, Strand, Royal, Twenty Story, John o’ London’s - hầu như mọi tạp chí đáng giá ở Anh.

Mười hai bài giảng này do tổng biên tập của The Centurion biên soạn - một nhà báo hết sức thành công, được đào tạo bởi Bob Davis, biên tập viên huyền thoại của tạp chí Mỹ.

"Viết sao cho người mù cũng đọc được!" Bob Davis yêu cầu.
"Hãy diễn đạt bằng hoa!"
"Nếu anh có thể bán truyện của mình cho một tạp chí hàn lâm cao cấp, thì cứ thử xem nào."

Mười hai bài giảng này đã được xuất bản thành một cuốn sách giá một guinea. Đáng chú ý nhất là các nội dung của bài giảng thứ mười hai:

"Những câu chuyện không bán được; Những câu chuyện mà biên tập viên không thích; Những câu chuyện có thể bán được; Lựa chọn thị trường," v.v.

Chỉ cần nhìn qua những chủ đề này cũng đủ để thấy thị trường tiểu thuyết đã bị thương mại hóa đến mức nào và nhu cầu của nó đã trở nên cứng nhắc, rập khuôn ra sao. Việc áp dụng các quy tắc của báo chí khoa học vào ngành tạp chí đã đóng chặt cánh cửa đối với thiên tài, tài năng thực sự và sự độc đáo. Thay vào đó, nó chỉ tạo ra một kiểu năng lực trung bình, nhợt nhạt - đủ để duy trì thói quen đọc của công chúng nhưng không vượt khỏi khuôn khổ.

Xét riêng khía cạnh văn chương, đây là một vấn đề nghiêm trọng. Nếu một nhà văn viết những truyện có giá trị nằm ngoài quan niệm của giới báo chí về "Công chúng muốn gì", anh ta sẽ không thể xuất bản chúng. Không một tạp chí nào trong số 900 tạp chí đáng giá mà Mr. MacNichol đề cập đến sẵn sàng tiếp nhận những truyện như vậy, và các nhà xuất bản cũng không muốn in tuyển tập truyện ngắn (mà vì lý do nào đó, họ cho rằng không có lãi).

Một nhà văn hư cấu có tiềm năng sẽ phải nghiên cứu các tạp chí, đọc vài cuốn cẩm nang, hoặc tốt nhất là theo học một khóa học hàm thụ tại Regent Institute hoặc London School of Journalism, rồi gò mình để viết những truyện đúng chuẩn mực đã đặt ra. Nếu may mắn, anh ta có thể tìm ra một công thức thành công - P. G. Wodehouse có lẽ là ví dụ điển hình nhất của quá trình này - và đạt đến danh hiệu tác giả bestseller.

Không có bất kỳ tạp chí nào giống như The Yellow Book từng tồn tại để giúp một tài năng chập chững, cũng không có nơi nào dành cho một tiểu thuyết gia nghiêm túc kiếm sống bằng cách viết tiểu thuyết nhiều kỳ (như các nhà văn thời Victoria đầu và giữa thế kỷ) hay truyện ngắn (như các nhà văn thời Victoria cuối và Edwardian). Không còn English Illustrated Magazine để xuất bản một Henry James nào nữa. (Nash’s, khi muốn thu hút những cái tên lớn, đã đăng phần cuối của thiên sử thi Forsyte dưới dạng truyện dài kỳ, nhưng đó lại là chuyện khác.)

Tạp chí hiện đại, dù đã trở nên dễ đọc hơn bao giờ hết đối với người lao động thành thị mệt mỏi, đạt được điều này bằng cách từ bỏ mọi tham vọng nào trở thành văn chương thực sự. Nhưng nó không chỉ dừng lại ở việc giải trí và xoa dịu độc giả - nó còn thách thức công khai những tiêu chuẩn và hoài bão khác.

Bằng cách tập cho công chúng đọc chỉ những loại truyện nhất định, với một góc nhìn hạn chế, nó đã làm hỏng hẳn thị hiếu của họ đối với những tiểu thuyết nghiêm túc hơn, được xuất bản dưới hình thức sách.

Ngô Dao Phương Lan dịch

 

chính khi có hết thì lại mất hết, as usual

 

 

phơi ơ tông

Đức cuối thế kỷ mười tám

Mỹ đầu thế kỷ mười chín 

Pháp giữa thế kỷ mười chín

Nga cuối thế kỷ mười chín

Anh đầu thế kỷ hai mươi

Mỹ giữa thế kỷ hai mươi

Việt Nam giữa thế kỷ hai mươi

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công