Một người tên là Chesterton
Bài viết dưới đây của người dịch cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của G. K. Chesterton, Một người tên là Thứ Năm về Chesterton rọi những ánh sáng nhiều thấu suốt vào một trong những nhà văn hấp dẫn và gây tranh cãi nhất từng tồn tại trong lịch sử, nhân vật hiện thân của các nghịch lý (hay sự trái khoáy), một trong những người (tương tự Lichtenberg hay Karl Kraus) có năng lực sáng suốt cực điểm nhờ cái nhìn vào và thông qua nghịch lý.
G. K. Chesterton nằm về cả hai dòng chảy chính lưu và phụ lưu trong lịch sử văn chương Anh Quốc - một mặt, ông là đoạn nối tiếp vào truyền thống văn xuôi rực rỡ thời kỳ Victoria, tiếp sau sự vĩ đại của những Carlyle, Arnold, Ruskin, Newman, theo đúng thứ tự đó, mặt khác, ông được xếp vào những nhà văn kiến tạo và đắp bồi thêm cho hệ thống thần thoại Ki-tô giáo đã có từ thời Bunyan với Pilgrim’s Progress, theo sau là George MacDonald (người đặc biệt có sức ảnh hưởng đối với Chesterton), Charles Williams, Tolkien, C. S. Lewis và vẫn còn tiếp diễn cho tới thời hiện đại với nào là Flannery O’Connor, Walker Percy, thậm chí nếu nói rộng hơn, Kafka. Nhưng suy cho cùng, việc xuất hiện ở cả hai vị trí có nghĩa là không thực sự thuộc về vị trí nào cả: Chesterton trượt ra khỏi hai dòng chảy. Ở dòng chính lưu, dù vẫn thừa hưởng những đặc tính của các bậc tiền bối ở thứ văn chương thấm đẫm quang huy tri thức thuộc kiểu luận chiến (nay đặt trong thế đối ứng của tự nhiên và khoa học với bờ bên kia là H. G. Wells và Shaw), nhưng Carlyle của Sartor Resartus, On Heroes hay Ruskin trong Unto This Last đều là những ca nắm quá chặt với lý tưởng của mình so với Chesterton: họ không chừa một khoảng trống nào cho tiếng cười. Ngược lại, Chesterton, dù tư tưởng luôn trôi theo hướng thủ cựu, thái độ trong văn chương của ông là hân hoan, hài hước, phi lý và nghịch lý - những thành tố sau này trở thành một trong các trào lưu lớn của văn học hiện đại. Ở dòng phụ lưu, Chesterton không chủ đích kiến tạo các thần thoại Ki-tô giáo và cũng chưa bao giờ được nhìn nhận rộng rãi như là một nhà văn chủ đạo trong truyền thống này, ông đến với Chúa bằng sự hồ nghi lấp lửng nhưng rất sẵn lòng bảo vệ. Tình thế Chesterton trên văn đàn giống hệt như tình thế Anh Quốc ở châu Âu: vừa thuộc mà vừa không thuộc, một sự kháng cự nhu thuận những xung lực xung quanh. Chỉ có ở những trường hợp như Chesterton, ta mới có thể nhìn nhận rõ ràng nhất cách thế đảo quốc (insularity) của nước Anh có vai trò quan trọng như thế nào trong việc tạo ra những nhân vật độc nhất vô nhị trong lịch sử văn chương thế giới.
Không thể đọc Chesterton nếu không hiểu tính bản lề của thời đại mà ông được đặt vào cũng như cách ông phản ứng với nó, thứ được thể hiện rõ hơn hết trong các tác phẩm xã luận, đặc biệt là hoàn cảnh kinh tế-chính trị bấy giờ. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đánh dấu sự bùng nổ của chủ nghĩa duy lý, với sự phò trợ của hàng loạt các phát minh công nghệ-kỹ thuật. Đúng như lẽ thường, sau khi rời cái giường êm ái và bước quá dài, người ta sẽ rơi vào trạng thái mất cân bằng. Con người chuẩn bị lại làm thêm một cuộc quay lưng hàng loạt với Nhà Thờ, ráo riết chuẩn bị cho cuộc chiến tranh lớn đầu tiên của thời hiện đại, chỉ để nhận lại khủng hoảng đức tin. Trí thức châu Âu sốt sắng chạy về ba đỉnh tam giác vuông của cuộc chiến những tư tưởng thế tục; hai hướng chính là hai cạnh góc vuông của chủ nghĩa tư bản công nghiệp với lời hứa về laissez-faire (Keynes, Carnegie) và chủ nghĩa xã hội với huyễn tưởng có thể thách thức tính Hobbesian của nhà nước (nhóm Fabian, Blatchford), những kẻ còn lại đã khôn lỏi mà chọn cạnh huyền với hy vọng sẽ đến đích sớm bằng cách bày ra một ngẫu tượng mới là chủ nghĩa quốc gia (Chamberlain, Kipling). Chesterton chạy theo đường nào? Ông ngồi yên và nghĩ về Thomas Aquinas - xét tới cơ thể sồ sề béo ị của ông, điều này hoàn toàn hợp lý. Trong cuốn sách về thần tượng mình, Chesterton tin rằng Aquinas đã chứng minh trật tự thiêng liêng được sắp đặt dưới bàn tay Chúa, thứ “nguyên nhân nhưng không do nguyên nhân chắc chắn tồn tại” và bác bỏ sự phán kết khinh suất về cái xấu và cái thiện, không phải bằng niềm tin, mà bằng lý trí - điều mà người đương thời không hề biết cách làm (St. Thomas Aquinas). Ông như vẫn còn nán lại ở Phong trào Oxford ngay cả khi nó đã kết thúc từ rất lâu để vần vò kiên nhẫn tìm lấy ý nghĩa trong mối tơ vò những giá trị Victoria nơi con người. Sự ảnh hưởng to lớn của Aquinas (được khuếch tán và hướng dẫn bởi MacDonald) sẽ trở thành tư tưởng chủ đạo của Chesterton để có thể đứng ở đầu bập bênh bên kia với phía đa số và cùng Hilaire Belloc khởi xướng trường phái phân phối (distributism). Vừa phản đối chủ nghĩa tư bản ở mặt trận đạo đức và rằng khẳng định rằng cuộc cách mạng của giới xã hội chủ nghĩa sẽ xác lập lại một thế giới mới không có gì khác thế giới cũ (On Peasant Proprietorship), ông vừa đề xuất hình thức phi tập trung hóa, phân tán quyền sở hữu tư liệu sản xuất đến tay đông đảo dân chúng thay vì để chúng rơi vào tay thiểu số hoặc nhà nước. Chesterton đề cao chủ nghĩa địa phương (Pho mát, The Empire of The Insect,...), chống lại công nghiệp hóa và sản xuất hàng loạt - những tư tưởng có dấu ấn của những thời hoàng kim của Nhà Thờ trong quá khứ. Phân phối luận của Chesterton và Belloc là nỗ lực tìm kiếm một mô hình xã hội lấy đạo đức Ki-tô giáo làm trọng trong nỗ lực tìm kiếm điểm gặp gỡ của tự do và công bằng. Dù không trở thành trào lưu chính trị chủ đạo, nó để lại di sản quan trọng dưới vai trò một lý thuyết phản biện có giá trị và truyền cảm hứng cho những phong trào phi tập trung hóa và địa phương hóa (regionalism) trong quan hệ quốc tế thời kỳ hiện đại.
Không thể nhắc đến Chesterton, một người sống được nhờ việc viết và kho tàng sáng tác thuộc hàng độ sộ nhất trong các nhà văn Anh đương thời, mà bỏ qua khía cạnh phê bình văn học của ông. Ở mảng này, ta sẽ thực sự chứng minh cho giả định được đưa ra rằng Chesterton vừa là phần tiếp nối, vừa chệch ra khỏi truyền thống văn chương thời Victoria nhưng cũng không hoàn toàn đi thẳng vào trào lưu hiện đại. Chỉ cần mỗi cuốn sách phê bình Văn chương Thời kỳ Victoria, ta dễ dàng chứng minh được vế đầu tiên. Đầu cuốn sách, ông khẳng định mình từ khi sinh ra đã thuộc về thời đại Victoria và thừa hưởng ít nhiều sự nghiêm túc của nó - sự nghiêm túc có tính tự thỏa mãn đã nhảy vào thay thế những bi kịch và hài kịch luôn chạm vào đỉnh điểm. Mấu chốt của văn học bấy giờ, theo Chesterton, nằm ở hai xung lực đối nghịch nhau, với một bên của các công thức duy lý rẻ tiền và chật hẹp, một bên của truyền thống ngoài ý thức nhưng dồi dào và nhân đạo. G. K. Chesterton có lẽ luôn ngả về phía sau hơn, nhưng ông đồng thời cũng nghiêng về chất liệu hài kịch và sự vô nghĩa của một truyền thống xa xôi hơn nữa. Chesterton không bằng lòng với việc các tác giả Lãng mạn Anh sau thời kỳ Cách mạng Pháp thu mình quá nhỏ vào trong cái túi của chủ nghĩa cá nhân cùng với một lượng độc giả quá ít ỏi đã đẩy nước Anh vào trạng thái cô lập và phân mảnh hơn bao giờ hết. Nhưng toàn bộ các mảnh đó đều là những sắp xếp thực dụng, hình thành từ liên minh tầng lớp giữa tư sản và quý tộc, đặc trưng bởi những cải cách thận trọng để tích lũy sự giàu có từ công nghiệp. Giữa thái độ kín đáo và nghiêm túc, nó sinh ra một bầu không khí đạo đức giả dối chưa hề để giấu giếm sau mình thuyết vị lợi, thứ cho dù bị chỉ trích liên tục vẫn được xã hội ngưỡng mộ hết nấc. G. K. Chesterton đã làm rõ rằng quy luật về sự thỏa hiệp Victoria (Victorian compromise) này đã chi phối toàn bộ văn chương hậu kỳ Victoria bằng nhiều lời bình thẳng thắn trải rộng qua hàng loạt các tác gia nổi tiếng. Ông biết Henry James có ý thức đi tìm kiếm cái siêu nhiên, nhưng James không biết cách biết ơn và nhận ra ân sủng nên chỉ toàn thấy quỷ dữ và bi kịch. Ông không chịu nổi Thomas Hardy (và Thomas Hardy cũng nổi điên lên vì sự không-chịu-nổi-Thomas-Hardy của Chesterton) vì sự bi quan cực đoan và thái độ thiển cận, quê mùa trong việc nhìn nhận ý nghĩa của cuộc sống, gọi Thomas là “thằng ngốc rủa xả thằng ngu ở một xó làng”. Mặt khác, ông ngợi ca Newman như người duy nhất được Chúa ban cho công việc hồi phục đức tin Ki-tô một cách hoàn chỉnh và xuất sắc, Carlyle như cỗ pháo tấn công bền bỉ vào xã hội vị lợi, và Stevenson trong việc lật tẩy sự đạo đức giả của thỏa hiệp Victoria. Để sáng tỏ vế thứ hai - rằng Chesterton không đi thẳng vào trào lưu hiện đại, thậm chí trở thành đối thủ (chứ không phải kẻ thù) của nó - không có gì hay bằng việc chúng ta đưa trở lại một trong những trận bút chiến thú vị nhất thời điểm đó giữa cặp vừa bạn vừa thù là Chesterton và Shaw, hoặc nếu nói rộng ra nữa, là trận đấu đôi giữa Chesterton-Belloc và cặp Shaw-Wells.
Cuộc bút chiến kéo dài nhiều năm trời khuấy đảo truyền thông mà cũng là điểm bắt đầu của một tình bạn lạ lùng giữa họ nổ ra vào tháng Tư năm 1905, khi Chesterton đăng trên Daily News bài phản bác những lời công kích của Shaw nhắm vào Shakespeare, trào lộng chỉ trích Shaw quá cứng nhắc không thưởng thức nổi Shakespeare và hoàn toàn bối rối trong việc tận hưởng niềm vui của sự phong phú và tận hưởng lạc thú của những điều trần tục (The Great Mystery of Shawkpear). Vượt ra khỏi tranh cãi cá nhân về cách thưởng thức nghệ thuật, tranh cãi trên đại diện cho sự xung đột của một bên là truyền thống Ki-tô giáo và một bên là chủ nghĩa duy lý cấp tiến. Năm 1908, Shaw đáp trả bằng cách dựng lên hình tượng “Chesterbelloc” - sinh vật lai giữa Chesterton và Hilaire Belloc, với chân trước là Belloc lập dị và chân sau là Chesterton “phải hy sinh trí tuệ cá nhân để theo Belloc”. Shaw chế nhạo đôi bạn này như hiện thân của chủ nghĩa bảo thủ lỗi thời và làm trì trệ tiến trình phát triển của nhân loại. Chesterton đáp lại bằng cáo buộc Shaw và Wells đều là những kẻ khinh bỉ người nghèo cải trang dưới lớp vỏ nhân đạo giả dối (The Last of The Rationalists). Sau này, Chesterton còn viết hẳn một cuốn sách riêng bình về mối quan hệ của Shaw và Thanh giáo, trong đó, sau muôn vàn lập luận chứng tỏ rằng Shaw là kẻ Thanh giáo vĩ đại nhất bấy giờ và có lẽ là cuối cùng, đi đến một kết luận mà theo chính ông là nặng nề nhất: “[Shaw] không bao giờ phù phiếm... không bao giờ cho phép đầu não của mình nghỉ ngơi... không bao giờ vô trách nhiệm dù chỉ trong chốc lát” (George Bernard Shaw). Shaw vẫn sẽ tiếp tục lôi Belloc vào, hệt như cách Chesterton lôi Wells vào, cuộc cạnh tranh của mình nhiều năm nữa bằng cả các bài xã luận ngắn (The Future of Religion,...) hay truyện ngắn (Gặp siêu nhân,...). Thế nhưng, đúng như Chesterton đã từng nói về mối quan hệ của họ, họ là đối thủ, không phải kẻ thù. Cuộc đời văn chương của họ vẫn song hành với nhau và hỗ trợ nhau về nhiều mặt. Shaw đã đề nghị giúp đỡ tài chính cho vụ Chesterton bị kiện tội báng bổ, cực kỳ yêu thích cuốn sách viết về St. Aquinas của đối phương và gọi cuốn tự truyện posthumous của Chesterton là một áng văn thiên thần - điều ông thừa nhận chưa dùng với bất kỳ cuốn sách nào. Về phía Chesterton, ông sau này nhận thấy mình và Shaw dường như đã luôn ở trong một cuộc tranh luận dài. Nhưng cuối cùng, bản tính của của cuộc thi chiến trên (cũng như đa phần các cuộc thi chiến khác) là cơ hội lớn hơn để các bên tham gia học được cách ngưỡng mộ và yêu mến nhau so với hầu hết những người đồng thuận. Shaw dường như được đặt vào trạng thái sung sức và tốt nhất khi đối kháng, hoặc khi ông sai. Dù tranh luận hầu hết mọi chủ đề, họ không bao giờ cãi vã hoặc có sự thù địch. Chesterton chưa bao giờ thấy bực dọc và không thoải mái khi tranh luận với Shaw. Tình bạn và sự đối chọi giữa họ hệt như một trong những nghịch lý thường quan sát được trong văn chương Chesterton: hai người liên tục đối chọi nhau chỉ để chứng minh cho tầm quan trọng của người kia.
Khi đã hiểu vị trí đứng như con đê chắn ngang của Chesterton, ta dễ hiểu lý do tại sao trung tâm trong các tác phẩm hư cấu của ông là sự trái khoáy. Chính sự trái khoáy, chứ không phải là nghịch lý như nhiều người đọc Chesterton phân tích. Nghịch lý là thứ xuất hiện lúc không phải lựa chọn và luôn dẫn đến một điều gì đó make-sense, trong khi sự trái khoáy thì có xu hướng dẫn thẳng vào non-sense và chỉ xuất hiện khi người ta không thể lựa chọn giữa hai thứ cho sẵn. Điều này rất dễ thấy từ tiểu thuyết, truyện ngắn và truyện dài của nhà văn: một người đàn ông tự đột nhập vào căn hộ của mình để ăn trộm (Manalive), một cảnh sát trà trộn vào giới khủng bố để truy bắt kẻ đầu sỏ nhận ra toàn bộ băng đảng đều là cảnh sát chìm và kẻ họ nhất tề theo đuổi lại là cấp trên của họ (Một người tên là Thứ Năm), hai kẻ thù không đội trời chung về mặt tư tưởng trong lúc chạy trốn xã hội văn minh để tìm chỗ đấu một trận tay đôi sống chết đã thấu hiểu cho nhau và cảm thấy không muốn đánh nhau nữa, nhưng kỳ vọng của xã hội kia lại buộc họ phải lao vào nhau (The Ball and The Cross), một người liên tục vì biết quá nhiều và không ý thức được sự giản đơn của mọi sự nên cứ bị lừa luôn (The Man Who Knew Too Much), v.v... Với sự năng sản của Chesterton, ta có thể tìm ra thêm nhiều ví dụ như thế, dù là trong cốt truyện hư cấu hay cách đặt vấn đề ở các bài bình luận (Một bản tình ca về đầm lầy, Đóa hồng nổi giận,...). Nhưng câu hỏi quan trọng hơn và thú vị hơn không nằm ở tần suất xuất hiện và hiệu ứng gây ra khi nó xuất hiện, mà nằm ở một câu hỏi mang tính lý luận: Đây đã là mục đích cuối cùng hay chỉ là phương tiện cho một mục đích khác nào đó (như các tác giả thuộc trường phái phi lý), và nếu thế thì mục đích đó là gì?
Một người tên là Thứ Năm, tiểu thuyết luôn được cho là tính trái khoáy và kỳ lạ nhất của Chesterton nói riêng và toàn bộ văn chương nước Anh thời kỳ ấy nói chung, là một cách để ta tìm những lý giải xác đáng. Hầu hết những kiến giải hiện tại đều tập trung xoay quanh khía cạnh tôn giáo và những biểu tượng xuất hiện dày đặc, xuyên suốt trong cuốn sách (Blacam,...). Rõ ràng, không thể đọc Chesterton mà tách rời khỏi yếu tố về giáo hội và các thực hành của nó. Cách phân tích này bắt đúng được cảm giác tổng thể mà truyện đem lại lên người đọc cũng như ý nghĩa đằng sau những biểu tượng được đặt ra xuyên suốt, từ nhan đề, tên nhân vật cho đến lời thoại, tình tiết để tạo ra một không khí thần thoại và tâm linh, hút lấy tư tưởng bảo thủ Ki-tô của mỗi tác phẩm. Song, những phân tích trên không lý giải được bằng thứ hỗn chất nào Chesterton có thể cố kết các biểu tượng và tinh thần thành một tiểu thuyết mang tính thần thoại mạnh mẽ như thế và nó sẽ ngay lập tức bộc lộ điểm yếu khi bắt đầu va chạm với vô số các yếu tố non-sensical tủa ra mọi phía.
Phía đầu tiên là nằm ở những thứ ngoài ngưỡng khả tri của con người. Chesterton trong Một nhà thơ đã chết quan niệm rằng, một người viết tài giỏi cần không chối từ nhìn cuộc đời bằng cả kính viễn vọng lẫn kính lúp: để nhìn những thứ quá nhỏ và để nhìn những thứ quá to (xa). Đó là Chesterton của hàng loạt miêu tả có tính chất hoàn vũ lẫn vi sinh. Ở ngay mở đầu, khi miêu tả bầu trời chạng vạng đang kéo xuống khu nhà ở bên rìa Saffron Park, ta có các liên tưởng quá to: “Cả bầu trời như bị che phủ bởi một bộ lông vũ sống động bập bềnh; ta chỉ biết cả thiên thanh đang chứa đầy lông vũ, một vài chiếc thậm chí suýt chải vào mặt ta” và dồn dập liền sau “những sắc màu của bầu trời trở nên trong suốt và phập phồng, để những mảng lông vũ màu đỏ nóng cuối cùng ôm mặt trời giấu đi như thế đó là một món đồ quá quý giá để trưng ra trước mắt phàm.” (Chương Một). Ta còn bắt gặp thêm những miêu tả “ngoài khả dĩ”, “bất khả tri”,... nữa trong những lời kể về Chúa Nhật: “Tôi đã thấy ngài hút thuốc trong căn phòng ráng chiều, một căn phòng có rèm che màu nâu, u hoài hơn quá nhiều so với bóng tối rộn rịp mà thủ lĩnh của chúng ta đang trú ngụ.” (Chương Mười Bốn) nhưng ám ảnh hơn cả vẫn là sự bàng hoàng của Syme khi thấy chiếc mặt nạ Memnon lần đầu ở Bảo tàng Anh Quốc thời thơ ấu trở lại trên gương mặt Chúa Nhật, một miêu tả chưa từng có về một gương mặt: “khuôn mặt vĩ đại phình ra khủng khiếp, lớn hơn cả chiếc mặt nạ Memnon khổng lồ, thứ đã khiến y hét lên thuở nhỏ. Nó càng ngày càng lớn thêm, lấp kín cả bầu trời; rồi mọi thứ trở nên tối như mực.” (Chương Mười Lăm). Ở mặt đối diện, ở Một người tên là Thứ Năm cũng không thiếu những miêu tả cực tiểu, chẳng hạn: “Và bất cứ khi nào đôi mắt có thể thoáng trốn khỏi ánh nhìn bình tĩnh, trừng trợn và hớp hồn của Hầu tước, nó lại tìm đến bụi hạnh nhân nhỏ ở đường chân trời. Y cảm giác như nếu có một phép mầu nào đó giữ mình sống tiếp, y sẽ bỏ quên mọi khát vọng khác trên đời để ngồi vĩnh viễn cạnh bụi cây ấy.” (Chương Mười). Kiểu tư duy thần thoại này chính là thứ phép thuật giúp Chesterton biến khung cảnh đời thường thành thần thoại, đưa cuộc trinh thám truy tìm và đuổi bắt những kẻ thủ ác thành chuyến phiêu lưu vào trung tâm của sợ hãi, phản bội và hạnh ngộ. Sự thần thoại hóa ấy đặt cuộc sống thường ngày vào luân phiên các đỉnh và đáy, cho con người đặc quyền được tận hưởng cuộc đời mình dưới dạng những bất ngờ thú vị. Món quà lớn nhất mà Chesterton tặng cho người đọc của mình có lẽ đến sau cùng, khi một trật tự thiêng thánh và đúng đắn được tìm thấy sau vỏ bọc hỗn độn và hư vô chủ nghĩa. Chesterton thực sự tin rằng, hạnh phúc chỉ cách ta lòng biết ơn và cuộc đời này đáng để ta biết ơn tới mức chỉ tồn tại thôi cũng là một điều đáng quý. Tư tưởng đó chính là nguyên do cho cách tạo dựng bối cảnh thần thoại trong đa số các tác phẩm của ông. Ông xem thần thoại là ngôn ngữ khó nắm bắt của chân lý, là hào quang của thực tại tối thượng, vĩnh cửu đến khi ta biến sử dụng trí tưởng tượng. Thần thoại không phải để chiêm bái và kể lại mà phải được trải nghiệm, cảm nhận. Nó phải được để cho hoạt động ở cấp độ khác với nhận thức, giao tiếp bằng đa phương tiện.
Ở phía tiếp theo, Chesterton trong Một người tên là Thứ Năm hay những vần thơ vô nghĩa (We are not amused, A ballad of suicide,...) nghiêng về con người chống duy lý nhiều hơn, thứ theo ông bện chặt với đức tin làm thành sợi dây mâu thuẫn nhưng sống sít ngăn cản không cho phép chủ nghĩa duy lý lý giải thế giới bằng thứ khoa học giả hiệu của nó. Chesterton quan niệm, việc giải mã bất kỳ bí ẩn nào không làm mất đi tính huyền nhiệm của nó, mà ngược lại, còn bổ sung thêm, nảy nở thêm các nghi ngờ. Trong Một người tên là Thứ Năm, Gabriel Syme trà trộn vào Hội đồng Vô trị chỉ để lần lượt nhận ra toàn bộ họ đều là đồng minh của mình, đều là cảnh sát từ Cục Điều tra Đặc biệt. Kẻ thủ ác, kẻ có tấm lưng ghê gớm nhất toàn lục địa hóa ra lại là người điều tiết toàn bộ cuộc sống với gương mặt thiện lành, kẻ thu nhận bọn họ dưới vai trò cảnh sát và đồng thời cũng thu nhận họ dưới vai trò những kẻ âm mưu. Phương cách Chúa Nhật nghĩ ra để kiểm soát giới vô trị chính là trở thành đầu não của vô trị. Cũng giống như những tiểu thuyết trinh thám điệp viên ở thời gian đầu, Một người tên là Thứ Năm cũng lấy cảm hứng từ một sự kiện chính trị xã hội có thật, đó là Âm mưu Thuốc Súng. Tuy nhiên, ngược hẳn với trinh thám kiểu Sherlock Holmes và kế thừa The Strange Case of Dr. Jekyll and Mr. Hyde, Chesterton đi theo con đường sau này sẽ được gọi là thể loại trinh thám siêu hình, khi xuyên suốt cuốn sách, không có bí ẩn nào được giải mã một cách triệt để. Cuối cùng, họ không bắt được Chúa Nhật - người dường như mạnh hơn họ về mọi mặt. Và khi cùng ngồi với nhau trên bàn tiệc Các Ngày, kẻ thủ ác đứng đằng sau dàn dựng, chi phối tất cả mọi chuyện lại không mang tội, không tồn tại, hoặc chính là tồn tại, nên lý trí chưa bao giờ thành công trong việc đưa con người đi đến sự thật cuối cùng, nếu thực sự có điều gì là như thế. Tất cả hướng thẳng vào sự trái khoáy: nhan đề phụ của cuốn sách và đoạn cuối đã cho chúng ta biết điều đó. Mọi kinh hoàng đều là ác mộng nhưng ta chỉ có thể biết điều đó một khi thức dậy khỏi đó.
Bản thân Chesterton tự phân chia các tác phẩm của mình thành hai loại, những tiểu thuyết thực sự hài hước và những tiểu thuyết thực sự nghiêm túc, và ông rất lo sợ người ta sẽ nhầm lẫn giữa hai loại: thấy những gì ông nghiêm túc là hài hước và nhìn nhận sự hài hước của ông quá nghiêm túc. Một người tên là Thứ Năm nằm hẳn về phía hài hước: khi Chesterton nghe bạn mình bảo Mussolini khi đọc cuốn sách đã thấy hài hước như điên, ông rất hài lòng (Chesterton cũng có những nhận xét quan trọng về sự liên hệ giữa Hitler và Mussolini). Những kinh hoàng mà Chesterton đặt vào trong Thứ Năm dự báo trước thế giới ác mộng hư cấu đầy những kinh hoàng nghiêm túc nhưng khôi hài không kém của văn chương châu Âu (đặc biệt là Đông Âu) hiện đại. Franz Kafka cũng chính là một độc giả của Chesterton, đặc biệt là Orthodoxy và Một người tên là Thứ Năm. C. S. Lewis là một trong những người đã từ rất lâu chỉ ra được sự tương đồng giữa nhà văn người Séc (nhưng viết tiếng Đức) kia và Chesterton. Lewis đã đặt câu hỏi liệu sự tương đồng giữa hai tác giả có phải đơn thuần phát xuất từ việc Kafka quá lỗi thời và Chesterton quá hiện đại hay không. Ông cho rằng trong khi cả hai đều khắc họa mạnh mẽ sự cô đơn và bối rối mà mỗi người chúng ta gặp phải trong cuộc đấu tranh (dường như) đơn độc với cả hoàn vũ, thì Chesterton, bằng cách gán cho vũ trụ một sự ngụy trang phức tạp hơn và thừa nhận cả sự hồ hởi phấn chấn được nhảy vào cuộc đấu và sự bàng hoàng khi thực sự giáp mặt và ở giữa cuộc đấu tranh, đã thể hiện được nhiều hơn; theo nghĩa đó mà Chesterton thăng bằng hơn, kinh điển hơn và có tính vĩnh cửu hơn.
Bản thân Kafka cũng kịp để lại những nhận xét về Chesterton. Tập III, số 01 của tờ The Chesterton Review có ghi cuộc trò chuyện giữa Gustav Janouch và Franz Kafka (đã in trong Conversations with Kafka) về Chesterton. Kafka nhận xét rằng Chesterton đã vui tới mức khiến người ta tin rằng ông đã tìm thấy Chúa. Khi Gustav hỏi liệu có phải tiếng cười là cảm giác chỉ có trong tôn giáo, Kafka đáp: “Không phải lúc nào cũng thế. Nhưng trong một thời đại vô thần như vậy, người ta phải vui vẻ. Bởi vui là một nghĩa vụ.”
Bùi Gia Bin
đảo
Shakespeare (1546 –1616)
Robert Burton (1577–1640)
John Milton (1608–1674)
Laurence Sterne (1713–1768)
Charles Lamb (1775–1834)
Thomas De Quincey (1785–1859)
Coleridge (1772–1834)
George Eliot (1819–1880)
Robert Louis Stevenson (1850–1894)
Joseph Conrad (1857–1924)
Arnold Bennett (1867–1931)
Bertrand Russell (1872–1970)
Ford Madox Ford (1873–1939)
G. K. Chesterton (1874–1936)
E. M. Forster (1879–1970)
Katherine Mansfield (1888–1923)
Jean Rhys (1890–1979)
F. R. Leavis (1895–1978)
C. S. Lewis (1898–1963)
Graham Greene (1904–1991)
William Empson (1906–1984)
Edna O’Brien (b. 1930)
V. S. Naipaul (1932–2018)