Melville: Mardi (kỳ 9)
CHƯƠNG XXIX
NHỮNG THỨ HỌ PHÁT HIỆN KHI ĐẨY MẠNH VIỆC KHÁM TÀU, VÀ BIỆN PHÁP HỌ ĐƯA RA
Xuống cabin cùng Samoa, tôi bảo chàng đi lùng cuốn nhật trình của tàu, bàn viết của thuyền trưởng và các hải cụ; nói ngắn gọn, bất kỳ thứ gì có thể làm sáng tỏ hành trình trước đây của tàu, hoặc phương tiện để dẫn hướng về nhà.
Nhưng mọi thứ thuộc loại này gần như đã biến mất: nhật trình, thước đo góc, cùng các giấy tờ của tàu. Chẳng còn lại gì ngoài hộp đựng kính lục phân, thứ mà Jarl và tôi từng phát hiện dưới buồng cabin.
Về vấn đề này, tôi lại đâm nghi, dẫu mơ hồ; rồi tôi dò hỏi anh Dân Đảo thật kỹ về sự biến mất của những món quan trọng ấy. Anh cho tôi hay rằng các hải cụ này đã được Annatoo lén mang lên boong mũi; và cũng tại quý phu nhân không biết mỏi mệt và tò mò ấy mà chúng đã bị sơ sịa tháo ra nhằm mục đích thanh tra khoa học. Phục hồi chúng là một việc bất khả; bởi lẽ nhiều bộ phận cố định đã mất, nào những kính màu, ống ngắm, và gương nhỏ; còn những bộ phận có thể tìm lại được thì đã quá đỗi móp bể đến độ hoàn toàn vô dụng. Trong nhiều ngày sau, lắm phen chúng tôi bắt gặp những mẩu của cây thước đo góc hoặc kính lục phân; nhưng chỉ là để than khóc số phận chúng.
Tuy dẫu rằng cả kính lục phân lẫn thước đo góc đều khó mà có được, tôi đã nhanh chóng từ bỏ toàn bộ hy vọng tìm cho ra một chiếc thời kế mà, nếu vẫn còn chạy tốt, dù không kêu tích tắc thì ở mức độ nào đó vẫn có thể làm cho dùng được. Nhưng chẳng thấy có công cụ nào như vậy. Không: còn không hề nghe tới; chính Samoa nhận mình không hay biết gì.
Annatoo, tôi vừa hù vừa dỗ; tôi mô tả chiếc thời kế - một vật tròn, động đậy giống con cóc, phát ra tiếng kỳ cục mà tôi bắt chước theo; nhưng nàng chằng biết gì về nó. Liệu nàng có từng phát hiện ra nó mà Samoa không hay và đã phanh thây nó như thường chăng, không cách nào biết được. Thực vậy, về điểm này, nàng giữ một vẻ ngu si không thể uốn nắn, mà nếu quả thực nàng có phịa chuyện thì bản mặt trơ trơ của nàng đã thế chỗ cho thứ phỉnh phờ nơi môi miệng.
Nhưng lỡ đâu trong trường hợp cá biệt này nàng đã bị đánh giá bất công; bởi lẽ, như nhiều tàu nhỏ khác, con tàu Parki có thể không bao giờ sở hữu thứ công cụ đang nói đến. Do đó, toàn bộ ý nghĩ về việc đi tàu theo cảm tính trong khi chúng tôi càng lúc càng dấn sâu hơn vào hoang mạc nước tất nhiên phải từ bỏ.
Quyển hải trình cũng là một trong mớ đồ ăn cắp của Annatoo. Có vẻ nàng đã mang vào xưởng của nàng để ngẫm nghĩ. Nhưng sau khi tiêu khiển bản thân bằng cách đếm tới đếm lui những trang sách và phân vân làm sao từng ấy bề mặt riêng biệt lại có thể được cô đọng trong một chiếc la bàn nhỏ nhắn đến vậy, bất chợt nàng cảm thấy một nỗi ác cảm với văn chương và quẳng quyển sách xuống biển như thể món đồ vô dụng. Chắc hẳn nó đã chịu chung số phận của những tập sách nặng nề, chìm rất nhanh và rất sâu. Sau này liệu Camden và Stowe nào sẽ lao mình vì nó?
Một tối nọ Samoa mang cho tôi một tay sách bốn gập dọc, đã ngả vàng, giấy có vân, quá bẩn và dính hắc ín mà anh đã tìm thấy trong một hốc tối ở boong mũi. Rõ ràng nó là một phần của quyển nhật trình đã mất; toàn bộ chữ viết trên đó vẫn đọc được nhưng không mang lại thông tin gì về vị trí giống với nơi tôi muốn đến.
Nhưng không thể không bị ấn tượng vì một sự cố bi thảm mà trang sách đã thuật lại rất vắn tắt, cũng vì hình minh họa đáng chú ý về sự kiện ấy bên lề trang. Hình vẽ này không còn đề cập nào ngoài những dòng sau: “Hôm nay, biển lặng, Tooboi, một trong số những người Lahina, xuống biển tắm và đã bị cá mập nuốt chửng. Ngay lập tức đã cho người cứu lấy cái túi đồ của hắn.”
Cái câu cuối cùng ấy có thể hiểu theo hai nghĩa. Đúng rằng ngay sau cái chết của người thủy thủ không bạn trên biển, thủy thủ đoàn thường nhắm lấy của cải của người ấy và chia chác chúng, dẫu áo quần của người đã chết ít khi được mặc trước cuộc hải trình tiếp theo. Chuyện này nghe có vẻ nhẫn tâm, nhưng các thủy thủ lý luận như sau: thà là chúng tôi còn hơn là thuyền trưởng. Vì chiểu theo luật, dù xoàng hay không xoàng thì vật dụng cá nhân của các thủy thủ, nếu mất mạng trên boong tàu, phải được giao phó viên sĩ quan ấy cất giữ. Nhưng vì các thủy thủ đa phần mồ côi hoặc bụi đời và người thân họ hàng họ chỉ nằm ở đôi chân đôi tay, hầu như chẳng bao giờ có bất kỳ người thừa kế theo luật nào có mặt để nhận di sản của họ, vốn chẳng đáng kế thừa mấy khi, như của Esterhazy. Từ đó, việc đưa bộ “quân trang” của người chết từ boong mũi xuống cabin thường đồng nghĩa với việc thuyền trưởng chiếm giữ nó. Dù có thế nào, trên những con tàu nhỏ dặm khơi, những chuyện như vậy đã từng xảy ra.
Vậy nên câu bên trên, trích từ nhật trình của tàu Parki, có thể thấy là ít nhiều mơ hồ. Khi ấy, tôi thấy nó thật lạ lùng, vì chiếc túi cỏ của anh thợ lặn tội nghiệp đâu thể nào chứa thứ gì đáng giá, họa là có khi anh đã giấu ở đấy vài viên ngọc Cleopatra, được tách bất chính khỏi những vỏ trai mang lên từ biển.
Bên cạnh mẩu tin được chép lại phía trên là một bản phác họa vẽ bằng bút mực về nạn nhân, bị hành hình cách tàn bạo hơn cả; đôi chân của người bạn đáng thương được tả trong tình cảnh bị nuốt giữa chừng; đôi tay bám chắc vào những chiếc răng của con quái vật, như thể oanh liệt quyết cứu cho được phần thịt của mình được chừng nào hay chừng ấy.
Nhưng hẳn viên thuyền trưởng tốt bụng đã phác lại đài tưởng niệm dành cho người quá cố bằng trọn cả tấm lòng, chừng là trong khi rỗi nhàn sầu hải sau cái tai họa ấy. Vài nét đã bị nhòe mất trên trang giấy, có vẻ là dấu vết của một hai giọt nước mắt mặn mà còn vương.
Từ nét hình vẽ là lạ thêm vào trong bản văn, tôi đi đến suy luận rằng người phác họa, lúc này lúc khác, hẳn đã từng tham gia vào công việc săn cá voi. Bởi trong các nhật ký của một số tàu săn cá voi, người ta thường dùng mực tàu để vẽ minh họa theo kiểu tương tự như vậy.
Mỗi khi nhìn thấy cá voi nhưng không bắt được, các thủy thủ biểu thị bằng một nét đi viền hình chiếc đuôi của loài sinh vật, với phần thùy đuôi rộng và cong của nó. Nhưng trong những trường hợp con cá voi bị săn và giết chết, nét viền ấy được tô đen; mỗi hình là một con cá voi bị giết; khi lật trang nhật trình, ta thấy hiện ra những đối tượng nổi bật, cùng với đôi ba nhận xét mở đầu. Thế nên thật vô cùng lẫm liệt khi thấy ba bốn, thậm chí năm sáu hình vẽ như thế nối tiếp nhau: minh chứng rằng bấy nhiêu con cá khổng lồ đã phun lên làn nước cuối cùng trong ngày hôm đó. Và viên thuyền phó có nhiệm vụ giữ sổ sách của tàu thường lấy làm tự hào về độ sắc sảo sống động của những chiếc đuôi do mình vẽ; song, nói thật, lắm kẻ trong số các họa sĩ này chẳng phải Landseer[1].
Sau khi hoài công đi tìm trong cabin những vật phẩm mà chúng tôi cần có nhất, chúng tôi khởi sự khám phá hầm tàu, nơi chúng tôi còn chưa bước vào. Ở đây, chúng tôi tìm thấy một số lượng đáng kể những vỏ trai ngọc, dừa, và dư dật những thùng tô-nô nước sạch, những lá buồm và dây neo dư dùng và hơn năm mươi mấy thùng bò muối và bánh quy. Dù những vật thể vừa nhắc đến kia chẳng có gì lãng mạn, tôi vẫn dừng lại ngắm chúng hồi lâu, chìm trong một cơn mơ màng. Trên mỗi đầu thùng đều in dấu tên một địa danh ở nước Mỹ, mà tôi rất quen thuộc. Bởi chính từ nước Mỹ, phần lớn các loại nhu yếu phẩm trên tàu được chuyển sang để cung cấp cho số ít con tàu khởi hành từ quần đảo Hawaii.
Bấy giờ đã thấy quen thuộc với con tàu Parki trên bất kỳ phương diện có thể tìm hiểu, tôi lui tới boong mũi và triệu tập Samoa, Annatoo, Jarl, nghiêm túc thông báo cho họ.
Tôi nói rằng không có điều gì cho tôi sự thỏa mãn lớn hơn là ngay lập tức quay trở lại nơi đã diễn ra cuộc tàn sát và trừng phạt nghiêm khắc những kẻ gây ra nó vẫn còn sống. Nhưng vì cả thảy chúng tôi chỉ có bốn người và vị trí của những hòn đảo ấy hoàn toàn xa lạ với tôi; thậm chí nếu có biết thì cũng không thể nào tiếp cận được vì chúng tôi không có bất kỳ dụng cụ hàng hải nào; ta nhận thấy khá rõ rằng toàn bộ suy nghĩ về việc trở về nơi ấy hoàn toàn vô nghĩa. Lý do cuối cùng ấy đã ngăn chúng tôi đi đến quần đảo Hawaii, nơi con tàu thuộc về, dẫu rằng như vậy là nước đi khôn ngoan nhất, vì nếu thành công, ta sẽ được giao trả lại con tàu xấu số cho các chủ tàu của nó.
Nhưng xem xét mọi khía cạnh, có vẻ tốt hơn cả, tôi thêm, là cẩn thận duy trì con đường về hướng tây của chúng ta. Đây là đường dễ nhất vì chúng ta đã luôn có ngọn gió thổi từ đuôi tàu, và dù chúng ta có thể chẳng có nhiều hy vọng đến được một vị trí bất kỳ đã được định sẵn trước đó thì vẫn có một niềm chắc chắn khả quan rằng nếu cứ trôi đủ lâu, sớm muộn gì cũng sẽ gặp được một hòn đảo nào đó để nghỉ ngơi lấy lại sức; từ đó, nếu thấy cần, sau này chúng ta có thể lên tàu đi đến những miền đất dễ chịu hơn. Thế rồi tôi nhắc cho họ nhớ rằng miễn là chúng ta cứ giữ biển thì vẫn luôn có triển vọng được gặp một cánh buồn thân thiện nào đó; trong trường hợp ấy, mối lo âu của chúng ta sẽ không còn nữa.
Toàn bộ điều này tôi nói bằng một giọng nhẹ nhàng, cương nghị của một người thuộc bậc trên; bởi tôi muốn lập tức khẳng định vị thế tối thượng của mình mà không để ai nghi ngờ. . Bởi vì nếu không thì Jarl và tôi thà bỏ con tàu ngay tức khắc, còn hơn là ở lại trên boong chịu đựng cái thói đồng bóng kỳ cục của Annatoo, thông qua Samoa sẽ có lúc gây ảnh hưởng. Nhưng tôi đoan chắc về ông Viking của tôi, và nếu Samoa tỏ ra dễ bảo thì chẳng có gì phải sợ quý phu nhân của chàng.
Và vậy là trong lúc tuyên bố, tôi đưa mắt ngó chăm chăm vào chàng; bằng cách ấy mà tôi hiểu ra rằng dẫu lúc này đã chịu phục tôi, chàng cũng vẫn cứ là một người, dẫu không hẳn toan tính điều gì hiểm độc, vẫn có thể có cơ hội đóng một vai xấu. Nhưng lòng dũng cảm của chàng và danh dự man dã của chàng như vốn có, tôi không một chút hồ nghi. Với một con trâu hoang như chàng, đã được thuần hóa dưới cái ách hôn nhân, tôi không thể không tưởng tượng rằng nếu chẳng có lý do nào khác, thì ít nhất việc có thêm chúng tôi trên tàu hẳn cũng khiến chàng cảm thấy đỡ khổ trước sự bạo chúa của vợ mình.
Phải nói rằng, với một anh chồng mái mổ, Samoa vẫn là một người trông cực kỳ dữ dằn. Và suy cho cùng tôi cũng thích chàng, giống như ta thích thú một con chiến mã hung hăng có bờm nhếch nhác, như Alexander trẻ tuổi thích thú với con ngựa Bucephalus; thứ ngựa hoang, khi đã vuốt ve rồi, thì cậu ta cũng chỉ yên tâm khi vẫn còn giữ chặt dây cương. Nhưng chuyện về Samoa, xin hẹn kể thêm sau.
Đường của chúng tôi đã định và quyền chỉ huy của con tàu mặc nhiên được nhường cho tôi, điều cần làm tiếp theo là đặt mọi thứ về đúng chỗ của nó. Những lá buồm tả tơi đã được thay bằng những lá buồm mới, được kéo lên từ phòng cất buồm bên dưới; ở nhiều chỗ, dàn dây neo buồm trọng yếu đã được đi dây; các ròng rọc được buộc lại; các dây chằng và giàn dây níu bị chùng đã được căng. Tất cả mọi sự, chúng tôi hầu như mang nợ cây đinh nhọn không mệt mỏi và khéo léo của ông Viking, mà ông dùng như một vương trượng.
Nhà xí của tàu Parki nhỏ bé vì thế cũng được dọn kỹ lại lần đầu tiên kể từ cuộc tàn sát, chúng tôi đem lại cho con tàu vẻ ngoài mới toanh và căn vuông các xà buồm cho xinh xắn, con tàu duyên dáng lướt đi; ông già Jarl thực thà thì ở vô lăng lái, thận trọng dẫn hướng tàu đi như một người cha nuôi tận tụy.
Khi tôi đứng cạnh ông như một thuyền trưởng hay đi lên xuống boong lái, tôi cảm thấy không ít quan trọng khi đảm nhận công việc như vậy lần đầu tiên trong đời, làm chỉ huy của một con tàu ngoài khơi. Những hoàn cảnh mới mẻ chỉ làm tăng thêm cảm giác này: những vùng biển hoang dã và xa xăm nơi chúng tôi đang rẽ sóng; tính cách đoàn thủy thủ của tôi, và cả ý nghĩ rằng, trên thực tế, tôi vừa là thuyền trưởng, vừa là chủ sở hữu của con tàu mà mình đang điều khiển.
Mardi: hoa trái của những lời cầu nguyện
Melville lãnh $6 lương giáo viên
Thông tin thuỷ thủ Melville của tàu Acushnet ở New Bedford, Massachusetts
(Nguồn ảnh: New Bedford Whaling Museum, The Melville Log)
CHƯƠNG XXX
ĐÔI ĐIỀU ĐỂ DIỄN ĐẠT TRỌN VẸN SAMOA
Ý định ban đầu của tôi là ghé qua quần đảo Kingsmill hoặc những vùng đất lân cận, và việc tình cờ gặp được Samoa lại càng củng cố quyết tâm ấy; và càng liên đới với chàng Belisarius, tôi càng hài lòng với chàng. Tôi không thể không khen ngợi bản thân vì đã được làm bạn với một người anh hùng mà, trong nhiều phương diện, đã chẳng lỡ dịp tỏ ra cực kỳ hữu dụng.
Cũng như bất kỳ con người xuất chúng nào, ta để Samoa tự nói cho mình là tốt hơn cả; nhưng chúng ta cũng có thể truyền tải đôi điều về con người chàng. Dẫu khá nam tính, vóc người như một khối obelisk, anh man dã khó mà gây được sự cảm tình. Cũng xin đừng phát hoảng khi thấy anh chàng mang con dao của mình bên thùy tai phải, nó đã bị kéo dài đến mức gần chạm vai vì thói quen này. Một kiểu cất dao vô cùng thuận tiện và đỡ thổ phỉ hơn dao găm của dân Vùng Cao được giấu bên dưới xà cạp.
Chính bà mẹ của Samoa, từ một thời xa xưa hơn nữa, đã đục lỗ xuyên qua người chàng theo một hướng khác. Phần sụn giữa mũi chàng hơi thõng, nhọn, và Gothic[2], và được xuyên một lỗ; trông như chú chó Newfoundland ngậm gậy, Samoa diện một món trang trí rẻ tiền: một chiếc đinh bóng loáng.
Chàng ta cũng khờ khạo không kém trong các khía cạnh khác. Chẳng hạn cách chàng xăm trổ gần như thiếu hoàn chỉnh. Các hình xăm của chàng chỉ choàng một nửa thân, từ đỉnh đầu tới gót chân, còn nửa bên kia thì chẳng vương một vết nhỏ nhoi. Được áp vào nhau như thế, chàng trông như một hợp thể của hai nửa lẻ đôi từ hai thụ tạo riêng biệt; và trí tưởng tượng của bạn sẽ bắt đầu suy đoán xem những nửa còn lại đang lang thang nơi đâu. Một khi chàng thình lình quay lưng về phía bạn, bạn tưởng mình thấy một ai đó khác chứ chẳng phải chàng, người mà bạn từng biết.
Nhưng có một nét ở Samoa nằm ngoài tầm của những cách tân nghệ thuật: ánh mắt của chàng, thứ ở cả người văn minh lẫn man dã vẫn luôn sáng lên trên khuôn mặt đúng như khi mới chào đời. Quả thực đôi mắt của chúng ta là thứ kỳ diệu. Nhưng than ôi, lắm phen, cơ quan thiêng liêng sáng láng ấy chỉ còn là những thấu kính được cho vào trong hốc, như những mảnh kính trong gọng kính mà thôi.
Nhưng anh Dân Đảo của tôi sở hữu một đôi mắt thật có hồn; nó nhìn thẳng vào bạn như thể có ai đang ở bên trong. Thật là một đôi mắt đẹp, chắc chắn! Có lúc rực rỡ đổi sắc như ngọc mắt mèo, khi tức giận thì rực lên như thép nung trong lửa trắng.
Tướng Belisarius, hãy nhớ cho, mới đây vừa mất một cánh tay. Nhưng chắc bạn sẽ nghĩ rằng chàng bẩm sinh đã như thế, giống như Đức Nelson và mang vẻ tráng sĩ mà diện mẩu tay danh dự.
Nhưng nói về Samoa như vậy thôi; chỉ nốt một điều nữa: cái tên của chàng là do một thuyền trưởng đặt cho; được gợi ý nhờ tên gọi bản địa của quần đảo mà chàng thuộc về; quần đảo Saviian hoặc Samoa, tên khác là Quần Đảo Navigation. Đảo Upolua, một hòn đảo thuộc cụm, được vinh dự làm nơi chôn rau cắt rốn của chàng, như hòn đảo Corsica đối với Napoleon, về sau thi thoảng ta sẽ nói về Samoa dưới cái tên Upolua, danh xưng mà anh chàng thích được gọi.
Và sẽ thật thiếu ga-lăng nếu bỏ lơ một phụ nữ. Nhưng ta nói được gì về Annatoo đây? Thật tình mà nói, tôi không thể nào vẽ ra một bức chân dung dễ mến về quý phu nhân được, bởi vì ở những đối tượng xấu xí nhất, sự nịnh nọt chỉ khiến sự việc càng thêm tồi tệ. Hơn nữa, sự xấu xí thuần túy, không có gì bù đắp, thì tốt nhất nên để yên, chẳng cần sao chép lại làm gì. Tuy nhiên, xấu xí duy nhất chính là sự xấu xí trong tâm hồn, thứ hiện rõ trên gương mặt. Còn sắc đẹp, tuy dễ nhận ra, nhưng vẻ đáng yêu đích thực thì lại vô hình.
CHƯƠNG XXXI
LANG THANG ĐÓ ĐÂY[3]
Ai cũng biết một niềm mê hoặc khi lang thang khắp nơi trong một tòa nhà cũ bỏ hoang, ở một miền đất ấm áp và mộng tưởng, nơi những đại sảnh trống tựa như vang lên cái tĩnh lặng, và những cánh cửa mở ra cót két như kẻ lạ bước chân; nơi cửa sổ, các cây trong vườn thọc vào những cành tối của chúng như cánh tay kẻ trộm đêm, và thi thoảng những chiếc đinh bật ra khỏi gỗ ốp chân tường, những con chuột lạo xạo phía sau như xúc xắc. Con người ta cứ ưa thích lang thang lên xuống trong những ngôi nhà ma ám như thế, và sẽ còn hay hơn nữa nếu nơi ấy bị ám bởi một câu chuyện kỳ khôi nào đấy.
Những lúc tĩnh mịch lơ mơ của một ngày đi biển vùng nhiệt đới, thường thì tôi có cái thú nhòm con tàu cướp biển bé mọn này, với thân tàu thảm thương đã chịu nhiều vết tích.
Và xét riêng về thú dạo bước thong thả cùng những cơn mơ màng tĩnh lặng thì tình cảnh của tôi lúc ấy gần như chẳng khác gì một mình đơn độc. Bởi lẽ Samoa, đôi lúc khá kín đáo, bận rộn với các suy nghĩ của riêng chàng. Và Annatoo hiếm khi phiền hà tôi mỗi khi nàng có mặt. Nàng miệt mài với những khúc vải calico và những ngọc ngà châu báu, những món đồ mà tôi cho phép nàng giữ lại, hầu cất đi cái tâm trạng khó chịu của nàng nếu có thể. Còn về phần ông Viking đế vương của tôi, ông là một người ít nói, trừ phi được gọi đích danh.
Ngoài ra, vì cần phải lái tàu Parki vào ban ngày, cho nên ở vô lăng lái phải có người đứng trực; con tàu nhỏ xíu, và tấm mắt cáo, mà ở đó người cầm lái đứng bên trên, được nâng quá cao, đến nỗi anh nhìn bao quát ra tận ngoài xà mũi tàu; cứ thế Argus đưa mắt nhìn biển, khi dẫn đường tàu chúng tôi đi. Còn những lúc khác, thì chúng tôi giao phó con tàu cho những làn gió lành giám hộ.
Khi đến lượt của tôi ở vô lăng lái - vì dù là chỉ huy, tôi thấy buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình với những người còn lại - hai mươi bốn tiếng một lần. Và không chỉ có Jarl và Samoa mới được giao bổn phận người giữ lái mà còn cả Lệnh Bà Annatoo, người đã trở nên khá thành thạo trong công việc này. Jarl luôn cho rằng sự hữu dụng của nàng có đôi chút hạn chế trong nghề lái tàu. Vì quá chú tâm đến một phần hình ảnh đáng yêu phản chiếu trên mặt kính của la bàn từ đặt phía trước, Annatoo đôi khi sao lãng bổn phận của mình và dẫn chúng tôi đi những bước nhảy ngoặt ngoẹo. Nàng cũng đâu phải, tôi tưởng, người phụ nữ đầu tiên từng khiến đàn ông ngả nghiêng.
Vì những điều đã đã nói trên, tôi có nhiều thời gian rỗi cho bản thân. Đôi lúc, tôi trèo lên cao và nằm ườn nơi các dây cáp xà buồm ngọn - một trong số những góc căng ở dây neo buồm - tôi nhìn toàn cảnh vùng biển xanh vô tận và tự hỏi người ta đang làm gì ở miền đất không xác định ấy, mà số phận đã dành cho một chỗ trong tâm trí chúng tôi. Hoặc khi thấy bớt trầm tư, tôi lang thang đây đó, chuyền qua dây chằng từ cột buồm này đến cột buồm kia, trèo lên các đỉnh cột, hoặc quanh quẩn đến các đầu mút xà buồm, khám phá bất kỳ nơi nào có chỗ đặt chân. Nó giống như leo khắp nơi trên một cây sồi già to tướng và nghỉ ngơi ở những gạc cây.
Đối với một thủy thủ, dây nhợ trên tàu là cả một công trình nghiên cứu. Và với tôi, mỗi sợi thừng tàu Parki được săm soi với thích thú vô vàn. Những kiểu đi dây lạ lẫm trên giàn dây níu, các vòng dây chằng, các thừng kê chân, các dây thắt đôi, các mắt thừng flemish, các thừng nhỏ - hết thảy khoáng dã của hệ thống thừng chảo mang những đặc điểm rõ nét về nguồn gốc con tàu.
Nhưng có lẽ những giờ dễ chịu nhất đối với tôi chính là những khi tôi dành để duỗi mình trên chồng buồm cũ, trên đài buồm mũi; lười biếng gật gù theo cái lắc lư nhè nhẹ của con tàu.
Thường xuyên tôi xuống cabin, đâu đã năm chục bận khám phá các tủ khóa và các buồng ngủ để tìm thứ gì là lạ. Và nhiều lần, với ánh sáng le lói, tôi bước vào hầm tàu tối như bước vào những lăng và những mộ; và luồn lọt giữa những góc ẩm ướt bên các thùng tô-nô, lách vào những hốc xa nhất.
Đôi lúc, trong những chui nhủi hầm ngầm ấy, tôi phát hiện tạp nhạp những chỗ giấu đồ kỳ quặc của Annatoo, nơi các món lỉnh kỉnh được bí mật giấu gọn, những thứ nàng say mê. Quả thật, không ít phần của thân tàu tựa như một mỏ những đồ bị lấy cắp khỏi lòng tàu của chính nó. Tôi tìm thấy một chiếc mũ bảnh bao của thuyền trưởng, được giấu gọn ghẽ trong phần rỗng ở giữa cuộn dây buộc buồm, được che phủ theo kiểu thương tâm nhất bằng một đống thừng cũ; và cạnh đó, trong một chiếc thùng tô-nô, tôi phát hiện vài khúc phải calico nguyên tấm, buộc chặt thành khối lớn bằng một sợi thừng hầu như đủ chắc để giữ cột buồm.
Gần với thứ ánh sáng vô tình mà, khi cửa hầm đã bị tháo, yếu ớt rọi vào khu hầm tàu này, là một chiếc thùng cỡ đại[4] ở boong đáy, mất nắp như Charles Đệ Nhất mất đầu. Và trong đấy một tấm thảm được trải tử tế để nghỉ ngơi, một khám phá đã giải thích cho cái thứ đã luôn luôn tỏ ra bí ẩn. Chẳng hiếm phen Annatoo thuộc vào những món mất tích ấy; và dẫu rằng, từ mũi đến lái, chúng tôi vẫn phải gọi inh ỏi cho nàng xuất hiện và cho những người bạn lo lắng của nàng được nguôi nỗi lao tâm khổ tứ, quý phu nhân vẫn biệt tăm biệt tích, yên lặng và vô hình như ma. Nhưng được lúc vui vẻ, nàng sẽ bí ẩn xuất hiện hoặc được thình lình trông thấy đang lặng lẽ thơ thẩn trên boong mũi, như thể nàng đã luôn ở đó từ muôn đời.
Có hỏi han cũng vô ích, “Nãy giờ bà ở đâu, Annatoo dễ thương?” Bởi nàng chẳng đáp được lời dễ thương nào.
Nhưng từ nay vấn đề đã được sáng tỏ. Nơi đây, trong chiếc thùng tô-nô lặng lẽ dưới hầm, Annatoo có thói quen cuộn mình một góc, như con rắn sọc cuộn mình dưới đá.
Liệu nàng có canh chừng những của nả bí mật quanh quất đâu đây: liệu nàng có ở đây thực hiện nghi thức sám hối như một nữ tu trong buồng riêng hoặc bị xui khiến bởi những thế lực vô hình trong không trung[5] - chẳng ai nói được. Còn bạn?
Quả thực, những kiểu cách của nàng như kiểu cách của loài cánh cụt khó hiểu khi xây những chiếc tổ khó hiểu của chúng, gây hoang mang cho toàn bộ giới khoa học và khiến bậc hiền triết ra ngớ ngẩn.
Bí nhiệm thay Annatoo! Người nào sẽ giải nghĩa được nàng?
Khương Anh dịch
[1] Sir Edwin Henry Landseer (1802 – 1873) danh họa nổi tiếng với những bức tranh về các loài động vật.
[2] một kiểu vòm nhọn
[3] Nguyên văn rovings alow and aloft, rovings là một thuật ngữ hàng hải, mang nghĩa một hành động đi dây ròng rọc, và alow and aloft có nghĩa là căng tất cả các lá buồm trên tàu.
[4] Thùng chứa với dung tích 500 lít.
[5] Ý nói các thế lực ma quỷ trong Ephesians 2, 2
Melville
Mardi (1849)
Jacket trắng (1850)
Hawthorne và Rêu của ông (1850)
Người 'Gee (1853)
Người kéo vĩ cầm (1854)
Pudding của người nghèo và mẩu vụn của người giàu (1854)
Jimmy Rose (1855)
Ngắn (1855-1856)
Cúc-cà-cúc-cu (1856)
Tôi và ống khói của tôi (1856)
Nước Mỹ ấy
Hawthorne (1804–1864)
Edgar Allan Poe (1809–1849)
Thoreau (1817–1862)
Melville (1819–1891)
William James (1842–1910)
Henry James (1843–1916)
Edith Wharton (1862–1937)
Gertrude Stein (1874–1946)
Ezra Pound (1885–1972)
Philip Roth (1933 –2018)
Marilynne Robinson (1943)