favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

Melville: Hawthorne và Rêu của ông

27/05/2025 08:58

tiếp tục chủ đề các nhà văn đọc, kỳ gần nhất ở kia: Chesterton dựng lại phả hệ Anh

 

Hawthorne, Poe, Melville, Thoreau: đó là những nhà văn lập dựng tinh thần Mỹ. Tinh thần ấy được đặc trưng bởi tư thế lữ hành cô độc, đã bỏ mái nhà lại sau lưng nhưng vẫn mãi ngoái nhìn về hướng quê hương, nơi chuyến đi, theo bất cứ hướng nào, là điều kiện phổ quát của tồn tại và ngôi nhà, dù là nơi người ta rời khỏi hay trở về, không ngừng ám những mộng mị. Một nền tảng quan trọng của tinh thần ấy là sự cự lại truyền thống Anh và Sáng. Ở chính điểm sôi sục của Phiêu lưu và Tiến bộ, những nhà văn lớn nhất lại thấy mình lửng lơ trong sự bất khả "lặng câm, bất động, kinh hoàng", bị hút vào vực thẳm phía bên kia Dĩ vãng khi bên tai vang dội lời thúc giục của Tương lai. 

Khi Melville - giả danh một người miền Nam nhìn Hawthorne, một người New England, thì cái hiện ra rõ nhất là một sự đen thần bí ở trung tâm cái hài và tình yêu rực rỡ - "như một phần bù không thể thiếu, một trí năng lớn, sâu, thứ thả chìm xuống vũ trụ như một quả dọi tìm đáy", sự đen "bén rễ vào cảm tri Calvin về Bại hoại bẩm sinh và Nguyên tội, thứ cảm tri, bất kể hình dạng khi nó hiện đến có là gì, không một trí tuệ nào luôn luôn và hoàn toàn thoát khỏi." Nó hiện ra trong vô hình, chỉ được ngầm chỉ cho những ai có thể hiểu nó và lý giải nó. Chính sự đen ấy là lực sống của tinh thần Mỹ. Melville, khi nhận ra Hawthorne và số phận Mỹ ấy - phức tạp hơn nhiều cái gọi là "Manifest Destiny" - cũng đồng thời nhận ra chính mình. Quanh thời điểm viết tiểu luận này, Melville mới thực sự trở thành Melville.  


Hawthorne và Rêu của ông

BỞI MỘT NGƯỜI VIRGINIA DÀNH THÁNG BẢY Ở VERMONT[1]

 - Herman Melville

Một ngăn buồng giấy trong một gia trang cổ, cách khỏi bao chốn ăn ở khác một dặm, ngụp các ô văng sâu dưới tàn cây – tứ bề là núi non, rừng già, và những hồ ao Anh-điêng bao phủ - đây ắt hẳn là nơi Hawthorne viết. Có gì đó duyên trong bầu khí bắc ấy, bởi tình yêu và bổn phận dường đang cùng thôi thúc công việc. Một con người có bản tính sâu thâm và tôn quý đã siết lấy tôi ở chốn ẩn cư. Giọng mị hoặc, hoang dại của ông rền qua tôi; hay, trong những điệu êm hơn, tôi dường nghe thấy nó trong những khúc ca mà chim mạn đồi xướng trên những ngọn đường tùng bên cửa sổ tôi.

Giá như mọi sách hay đều là cô nhi, không cha lẫn mẹ, để ta được ngợi ca mà chẳng phải nhắc đến bậc sinh thành của chúng! Và cũng chẳng một bậc chân chính nào lại lấy chuyện ấy làm phật ý, nhất là người đã viết, “Khi người nghệ sĩ vươn đủ cao để đạt đến cái đẹp, biểu tượng anh dùng đặng làm cho nó khả tri tới các giác quan của kẻ phàm đã chẳng còn mấy giá trị trong mắt anh khi tinh thần anh đã tự hữu nó trong sự hân hưởng thực tại.[2]

Mà còn hơn cả thế. Tôi không rõ đâu mới là cái tên đúng để đặt lên trang bìa của một quyển sách hay; nhưng tôi thấy như vầy, rằng tên của bao nhà văn lớn đều là hư-cấu, còn hơn cả Junius[3] khi xưa, bởi chúng thực chỉ là đại diện cho tinh thần huyền bí hoài lẩn tránh của biết bao cái đẹp, cái tinh thần ngự trong các bậc thiên tài nơi nơi. Điều này dẫu nghe tuyền tưởng tượng là thế, nhưng dường vẫn nhận được vài lời xác chứng từ sự thật - rằng khi gặp mặt trực tiếp, không một nhà văn lớn nào thỏa bì hình dung của độc giả về mình. Thứ bụi đất cấu thành thân thể ta làm sao có thể biểu lộ cho vừa những bậc thông sáng tôn quý hơn kia đang ngụ giữa chúng ta? Xin thưa với lòng kính cẩn rằng ngay cả nơi một người được xem là hơn so với người bình, ngay cả nơi Đấng Cứu Chuộc, thân xác hữu hình của cũng chẳng biểu lộ được chút oai linh nào của bản tính bên trong. Bằng không, há lẽ những chứng nhân Do Thái khi ấy lại chẳng nhìn thấy nước thiên đàng trong ánh mắt Người!

Lạ thay, người ta có thể đưa bước dọc một con đường quê mà vẫn bỏ lỡ viễn-cảnh hùng vĩ nhất hoặc hoặc diễm mỹ nhất chỉ vì một bờ giậu chắn ngang, giống quá đỗi với bao bờ giậu khác nên chẳng tiên báo chút gì về phong cảnh bao la nằm bên kia. Sự đã nên y vậy giữa tôi với phong cảnh mê mị trong tâm hồn Hawthorne, Người Rêu tuyệt diệu. Old Manse của ông từ khi viết xong đến nay đã bốn năm, nhưng mãi đôi ngày gần đây tôi mới đọc. Tôi từng thấy nó trong các hiệu sách – nghe nhắc đến thường xuyên – thậm chí được một người bạn có gu giới thiệu, như là một quyển hiếm thấy, lặng, có lẽ vì quá xứng được phổ biến nên lại không phổ biến. Nhưng có quá nhiều sách được gọi là “hay”, và có quá nhiều công lao không phổ biến, nên giữa xáo động của biết bao thứ khác, lời gợi ý từ người bạn có gu của tôi đã bị bỏ lơ, và suốt bốn năm qua Rêu trên tòa Old Manse chưa một lần nào tưới tắm tôi bằng màu xanh trường cửu của nó. Có khi, dầu vậy, suốt chừng ấy năm cuốn sách cũng chỉ tăng hương vị cùng khí cốt. Dù sao, việc trì hoãn lâu dài này hóa ra lại đưa đến một kết quả tốt lành. Đương lúc dùng điểm tâm vào một sáng nọ, một cô gái miền núi, em họ tôi, người suốt hai tuần qua sáng nào cũng phú cho tôi dâu tây lẫn mâm xôi, những thức, như hoa hồng và ngọc trai trong chuyện thần tiên, rơi vào đĩa trà từ đôi gò dâu má tạo vật dễ mến ấy, Cherry duyên dáng ấy, nói với tôi: “em thấy anh dành cả buổi sáng trên vựa rơm; hôm qua em thấy cuốn Travels in New England nằm trên đó. Nhưng giờ em có cái này còn hay hơn, một thứ hợp với khí hè trên núi của tụi mình hơn. Anh cầm lấy mấy quả mâm xôi này đi, rồi em đưa cho ít rêu.” “Rêu ư!” tôi nói. “Đúng vậy, và anh phải mang nó vào kho cùng, và cáo từ với Dwight[4] đi nhé.”

Rồi cô đi và chóng trở lại với một quyển sách bọc bìa xanh mướt, có một mẩu minh họa kỳ khôi màu lục; đó đúng là một mẩu rêu thật, khéo ép vào một tờ lót. “Ô, hay,” tôi buột miệng, làm đổ mớ mâm xôi, “Mosses from an Old Manse đây mà.” “Đúng,” em Cherry nói, “đúng thế, chính cái ông Hawthorne văn hoa đó.” “Hawthorne và Rêu,” tôi nói, “đã chẳng còn là buổi sáng: đây là tháng Bảy nơi thôn dã: anh phải rút vào kho thôi.”

Ườn mình trên thảm ba lá mới cắt,[5] gió hiu mạn đồi lùa đến chỗ tôi qua cửa kho mở rộng và ru êm tôi với tiếng ong vờn từ đồng cỏ xung quanh, cái ông Người Rêu này xâm chiếm tôi tự lúc nào chẳng hay! Và thật hậu hĩ, thật dồi dào khi ông giữ trọn lời hứa ngon ngọt với khách của ông tại tòa Old Manse, nơi được viết rằng: “Người khác có thể mang đến cho họ thú vui, trò giải trí hay tri thức – những thứ ấy ở đâu cũng thấy, nhưng chỉ có tôi là người cho họ sự nghỉ ngơi - nghỉ ngơi giữa một cuộc đời đầy phiền toái. Còn làm được gì hơn cho những tinh thần đã hao mòn bởi dâu bể ấy? Có thể làm được gì hơn cho bất kỳ ai đã vào trong vòng tròn ma thuật này ngoài ném vào người đó thứ bùa chú của một tinh thần thanh tĩnh?”[6] Thế là suốt ngày hôm ấy, nửa thân chôn trong thảm ba lá mới, tôi ngồi ngắm Hawthorne vẽ “bình minh Assyria cũng như trời trăng Paphos lặn mọc từ đỉnh ngọn đồi đông chúng tôi.”[7]

Đòn cưỡng bắt êm ái của ông giăng choàng một tấm mạng mơ quanh tôi, và khi quyển sách đóng lại, khi bùa chú đã dứt, vị thuật sĩ này “tiễn tôi đi, chỉ để sót lại những nét phảng phất mơ hồ, như vẫn đang mơ về ông vậy.”[8]

Ánh trăng của cái hài lắng-lặng gột lên tòa Old Manse ấy mới dạt dào biết bao! – tinh chất đắt và hiếm nhỉ nhỏ từng giọt từ một trái tim nồng cay. Không phải kiểu tục tằn bạt mạng, không phải kiểu vui cợt phì nộn được vỗ béo bằng tiệc thịt mỡ màng hay nuôi say với cặn vang dưới đáy – mà là một cái hài thật nhẹ trong tinh thần, thật cao nhã, sâu thâm, mà cũng thật phong nhiêu trong mùi vị, đến nỗi có là thiên thần thì cũng khó mà bảo là không xứng với mình. Ấy mới thực là tôn giáo của vui; bởi chẳng có thứ chi con người như nó mà chẳng được nâng lên mức ấy. Vườn cây ăn trái của tòa Old Manse dường là biểu tượng hữu hình cho tinh thần linh diệu đã khắc họa nó – những cổ thụ vặn xoắn, “chúng vươn những cành ngoằn ngoèo ra, thu hút trí tưởng tượng của ta, làm ta nhớ đến chúng như những tay khôi hài, những gã kỳ quặc.”[9] Và rồi, giữa những hình hài kỳ cục này, thiêm thiếp giữa giấc trưa do chú thuật Hawthorne reo rắc, ta mới thấy khớp biết bao khi cú rơi của tư tưởng nhuận đỏ ông vào tâm hồn ta được biểu tượng hóa rằng: “Một chiều nào bặt lặng, nếu tôi lắng mà nghe, có lẽ sẽ thấy tiếng đập bộp của một quả táo lớn, rơi xuống chẳng mượn lấy một làn gió, mà chỉ vì tính tất yếu của sự chín muồi hoàn hảo.”[10] Bởi những quả táo nảy đâm từ tư tưởng và mộng tưởng của vị Người Rêu khả ái kia cũng nào kém phần nhuận đỏ và chín mọng.

Lộc Non và Chim Hót. Một mẩu ngon lành! “Liệu thế giới này có bao giờ hư nát đến độ xuân có tới cũng chẳng tái lập được màu xanh của nó?” Rồi còn Thờ Lửa nữa. Đã bao giờ lò lửa được tôn đến ngang hàng ban thờ như thế? Mỗi nhan đề của mẩu ấy thôi cũng đã hơn năm chục pho folio những công trình thường bình. Đoạn này mới thực là tinh diệu: “Cái duyên trong vẻ phong lưu nhã nhặn, gần gụi và ân cần [của ngọn lửa] cũng chẳng bớt đi nếu linh thể mạnh mẽ này, giả cơ hội cho phép anh, hoành hành khắp căn nhà yên bình, bọc các cư hữu vào cái ôm kinh khiếp và chẳng để lại gì ngoài bộ xương trắng bạch. Khả năng hủy diệt điên cuồng này chỉ càng làm cho từ tâm trong tư gia của anh đẹp và cảm động hơn. Anh đáng yêu biết bao, được phú cho sức mạnh như vậy, chỉ để ở từ ngày này sang ngày khác, và hết đêm dài cô quạnh này sang đêm dài cô quạnh khác, trong tổ ấm bụi bặm, thi thoảng mới để lộ bản chất hoang dại của mình bằng cách thè cái lưỡi đỏ ra khỏi đỉnh ống khói! Đúng, anh đã làm nhiều điều ác trên thế gian và dám chắc sẽ làm thêm; nhưng trái tim ấm của anh đã chuộc tội cho tất thảy. Anh đã tốt với loài người; và họ tha thứ cho những bất toàn tự bản tính anh.”

Ông vẫn còn vài quả táo khác, không đỏ bằng, song cũng chẳng kém chín: những quả được để cho quắt lại trên cây khi vụ thu hoạch đầy ắp đã qua. Bút ký Già Bán Táo được phác ra trong tinh thần vi tế nhất của nỗi buồn; già ấy có “tuổi thiếu niên kìm nén và hèn kém đã thấp thoáng dáng dấp thời vàng son lỡ dở, và chính thời ấy cũng chứa trong nó tiên tri và hình tượng của tuổi hao gầy ông.” Những nét chạm như thế chẳng thể khởi phát từ một trái tim thường bình. Chúng nói lên một độ sâu của dịu dàng, một sự đồng cảm vô biên với mọi hình thức tồn tại, một tình bác-ái khiến ta phải buộc lòng nói rằng Hawthorne, ở điểm này, gần như đơn độc trong thế hệ mình – ít nhất là trong lối biểu hiện nghệ thuật của những điều ấy. Còn hơn thế nữa. Những nét như vậy – còn nhiều, rất nhiều những nét tương tự, rải khắp các thiên truyện của ông – là mối dây để ta lần từng chút vào trái tim phức tạp, sâu thẳm đã khởi phát chúng.[11] Và ta thấy rằng phải từng khổ đau, vào một thời nào đó và trong một hình thức nào đó – mới khiến người ta họa được nó nơi kẻ khác. Nỗi sầu muộn của Hawthorne phủ lên ông khắp cùng như một ánh hạ Anh-điêng[12], ánh ấy, tuy tắm cả miền đất trong một nét mềm, vẫn để lộ sắc riêng của từng ngọn đồi cao và từng thung lũng quanh co khuất nẻo.

Nhưng phần bé nhất của thiên tài mới là phần hút lòng mến mộ.[13] Nơi đâu Hawthorne được biết, ông dường được xem là một nhà văn dễ chịu, có một văn phong dễ chịu – một con người biệt lập, vô hại, kiểu người mà người ta khó lòng trông đợi một thứ gì sâu thâm và có trọng lượng, một con người chẳng có chút ý nghĩa gì. Nhưng không ai, mang cái hài và tình yêu thương, tựa đỉnh núi, vươn được đến độ cao ngút ngần đặng đón lấy sự sáng rọi chiếu từ cõi trời trên; không ai có cái hài và tình yêu thương được phát triển đến hình thức thượng thặng gọi là thiên tài; những người như thế chẳng ai tồn tại nổi mà không đồng thời mang trong mình, như một phần bù không thể thiếu, một trí năng lớn, sâu, thứ thả chìm xuống vũ trụ như một quả dọi tìm đáy. Nói cách khác, tình yêu thương và cái hài cũng chỉ là cặp mắt để trí năng ấy nhìn ra thế giới này. Cái đẹp lớn của một tinh thần như thế đơn thuần là quả kết từ năng lực nó. Có gì, với tất thảy độc giả, quyến rũ cho bằng mẩu có tên Monsieur du Miroir; và với một độc giả đủ khả năng thấu triệt nó đến cùng, có gì, cùng một lúc, ẩn chứa một chiều sâu ý nghĩa huyền nhiệm hơn thế? – phải, hắn đang ngồi đó nhìn tôi – “dáng hình của huyền bí” ấy, “chính Monsieur du Miroir!” “Thiết nghĩ tôi nên run rẩy liền ngay nếu quyền năng pháp sư của hắn xuyên qua mọi ngăn trở hòng tìm tôi đột ngột mang hắn đến trước mắt tôi.”

Thâm sâu, không, kinh hoàng biết bao, là bài học luân lý được khơi lên trong Diệt chủng Đất; nơi – bắt đầu bằng những thứ ngu dại và giả-tạo rỗng của thế gian – mọi sự hư vô và mọi học thuyết lẫn hình thức rỗng tuếch lần lượt từng thứ một, theo một trình tự khéo hay, tăng tiến dần dần, bị ném hết vào ngọn lửa phúng dụ, cho đến khi rốt cuộc chẳng còn gì ngoài trái tim toàn-sinh của con người; trái tim ấy sót lại quên thiêu, và cuộc toàn thiêu hóa ra công cốc.

Cùng một loại với mẩu này là Văn phòng Thông Sáng, một cú biểu tượng hóa kỳ diệu của những hoạt động mật trong tâm hồn con người. Vẫn còn những truyện-ký khác dung chứa hàm lượng ý nghĩa nặng nề hơn.

Bữa Yến Giáng sinh Con Rắn Lòng sẽ là những đề tài tuyệt hảo cho một phân tích công phu và kỳ thú, chạm đến những vùng khả suy của cái tinh thần đã sinh ra chúng. Vì mặc cho ánh hạ Anh-điêng bên bờ này của tâm hồn Hawthorne, bờ bên kia – như nửa tối của khối cầu – liệm lại trong một sự đen, và đen hơn gấp mười lần. Nhưng chính sự tối ấy lại làm bật lên ánh bình minh luôn chuyển động, luôn tiến bước qua nó, và vòng quanh thế giới của ông. Liệu Hawthorne chỉ đơn thuần tận dụng sự đen thần bí ấy như một phương tiện tạo ra những hiệu ứng diệu kỳ bằng sáng và tối; hay trong ông, có khi ông cũng chẳng biết, có một vệt u uẩn Thanh giáo đang nương náu – điều này nhìn chung tôi không sao nói chắc được. Chắc chắn, dẫu vậy, quyền năng to lớn của sự đen trong ông có được lực của nó nhờ bén rễ vào cảm tri Calvin về Sự Bại hoại Bẩm sinh và Nguyên Tội, thứ cảm tri, bất kể hình dạng khi nó hiện đến có là gì, không một trí tuệ nào luôn luôn và hoàn toàn thoát khỏi. Bởi, trong các tâm trạng nhất định, không ai có thể cân thế giới này mà không đặt vào cán cân một thứ gì đó, theo một lối nào đó, như Nguyên Tội, để làm bình cái thế không cân ấy. Dù sao chăng nữa, có lẽ không một người viết nào từng ôm lấy tư tưởng rùng rợn ấy với mối rùng rợn còn ghê gớm hơn như ông Hawthorne tưởng chừng vô hại này. Còn hơn thế: conceit đen này đầy dẫy và xuyên suốt nơi ông. Bạn có thể bị chính ánh dương của ông mị hoặc – bị cuốn theo những rặng vàng thếp chói sáng trên nền trời ông dựng bên trên bạn; nhưng xa bên kia là một cõi đen của sự tối; và thậm chí những ánh vàng chói ấy cũng chỉ là phần viền ráng quanh gờ khối mây sấm đen. Tóm lại một lời, thế giới này đã lầm về Nathaniel Hawthorne. Hẳn ông cũng nhiều phen phì cười trước sự ngộ nhận phi lý ấy. Ông sâu hơn con dọi của bất cứ tay phê bình nào. Bởi vì chẳng thể lấy quả óc ra đo một con người như thế; chỉ có trái tim thôi. Ta không thể nhận ra sự vĩ đại bằng cách khám nghiệm nó; chẳng thể nhìn trúng nó bằng một thoáng mắt nào ngoài trực giác; bạn chẳng thiết gì phải gõ thử, bạn chỉ cần chạm thôi, rồi bạn sẽ nhận ra đó là vàng.

Giờ, sự đen ở Hawthorne, thứ tôi vừa nói đến, chính là thứ đã cuốn hút và làm tôi mê vô cùng. Thế nhưng có lẽ nó đã quá lớn mạnh trong ông. Có lẽ ông không cho ta một tia sáng nào với mỗi bóng tỏa ra từ sự tối của ông. Nhưng dẫu có vậy, chính sự đen này là thứ đã giăng ra cái hậu cảnh mờ mịt vô tận cho ông – cái hậu cảnh, trên đó Shakespeare bày ra những conceit vĩ đại nhất của mình, những cái đã làm nên danh tiếng chí cao cho ông nhưng cũng là danh nhiều giới hạn nhất, như là một nhà tư tưởng uyên thâm nhất. Bởi các triết gia không tôn Shakespeare như một bậc lớn của bi kịch và hài kịch: “Trảm hắn đi; thế là xong chuyện Buckingham!”[14] Thứ lời thoại ngông cuồng này bị một tay khác cắt ngang vào, lại làm cả khán phòng ầm ĩ tung hô – những linh hồn lầm lạc, ngỡ tưởng Shakespeare là một kẻ chuyên dựng những nhân vật với lưng gù của Richard đệ Tam và dao găm của Macbeth. Song chính những thứ sâu xa thẳm thẳm trong ông, những chớp lóe của Lẽ Thật trực cảm trong ông, những cú đâm ngắn, nhanh nhằm vào trục quay của thực tại, đó mới là những thứ làm Shakspeare là Shakspeare [sic].[15] Qua miệng của các nhân vật u tối như Hamlet, Timon, Lear, Iago[16], ông khéo thốt ra, hoặc đôi khi ngầm chỉ, những điều ta cảm thấy đúng đến khủng khiếp, đến nỗi nếu một thiện nhân cất lời, hoặc chỉ mới mé môi đôi chút về điều ấy thôi, trong vai của mình, thì đó cũng chẳng khác nào điên. Chịu thống khổ đến tuyệt vọng, Lear, ông vua cuồng, tháo mặt nạ của mình ra, và thốt lên chính sự điên của lẽ thật sống còn ấy.[17] Ấy thế nhưng, như tôi đã nói, chính phần bé nhất của thiên tài mới là phần hút lòng mến mộ. Và cứ thế, vô khối lòng mến mộ mù quáng, vô độ đã đổ dồn lên Shakspeare lại rơi vào phần ít quan trọng nhất của ông. Và rất ít trong bạt ngàn những nhà chú giải và phê bình ông có ai từng nhớ hay từng nhận ra rằng những thành quả trực tiếp từ một tinh thần lớn chưa chắc lớn bằng sự vĩ đại chưa được phát lộ, nhưng cũng lờ mờ thấy được rằng những thành quả trực tiếp kia chỉ là những dấu chỉ không lầm đi đâu đến sự vĩ đại ấy. Nhiều đến vô hạn là những thứ nằm trong mộ Shakespeare, hơn cả những thứ ông từng viết. Và nếu tôi tán dương Shakespeare thì đó không hẳn là vì những gì ông đã làm mà là vì những gì ông đã không làm, hoặc cố ghì lại mà không làm. Bởi trong thế giới giả trá này, Lẽ Thật bị buộc phải lẩn đi như một nàng nai trắng hoảng sợ trong rừng; và chỉ bằng những thoáng mắt nhìn sao cho xảo diệu, nàng mới chịu vén mình ra, như ở Shakespeare và những bậc thầy khác của Nghệ thuật Kể Lẽ Thật vĩ đại – dẫu phải kể cách giấu giếm và giật cục.

Nhưng nếu cái nhìn này về Shakspeare thịnh-danh ít được độc giả ông nhìn nhận, và nếu rất ít những người ca tụng ông có bao giờ đọc ông sâu, hoặc thảng chỉ biết đến ông qua sân khấu phù phiếm (chính nơi đã dựng và vẫn đang duy trì cái danh đại chúng hời hợt của ông) – nếu ít ai có thời gian, hay kiên nhẫn, hay gu, để đón nhận lẽ thật thuộc linh nội tại trong thiên tài ấy – thì cũng chẳng có gì lạ khi ở thời chúng ta, Nathaniel Hawthorne là một người bị hiểu nhầm gần như hoàn toàn. Đó đây, trên một chiếc ghế bành yên tĩnh giữa trấn thị ồn ào, hay trong một xó xỉnh hun hút nào đó giữa núi đồi bặt im, mặc may ông mới được hiểu đúng phần nào. Nhưng khác với Shakespeare, người vì hoàn cảnh mà phải đi theo con đường ngược, Hawthorne (hoặc không ưa, hoặc không có năng lực) tránh xa mọi ồn ào và phô diễn yêu chiều của kịch hề đại chúng hoặc bi kịch đẫm huyết; tự mãn nguyện với tiếng thốt lặng, dày của một trí năng lớn đang hồi ngơi nghỉ, trí ấy gửi đôi tư tưởng vào dòng tuần hoàn, chỉ sau khi đã chuyển chúng thành máu sống[18] tại buồng phổi lớn rồi nở phồng trong trái tim chân thành của ông.

Và bạn cũng chẳng việc gì phải vận sự đen của ông vào mình, nếu bạn không thích nó. Thực ra, không phải độc giả nào cũng nhận ra nó; bởi nó, phần đa, chỉ được ngầm chỉ cho những ai có thể hiểu nó và lý giải nó; không phải ai nó cũng tống ép lên.

Hẳn sẽ có người khởi sự đọc Shakspeare và Hawthorne trên cùng một trang. Có lẽ họ sẽ bảo rằng nếu cần đến một minh họa thì một ánh kém sáng hơn hẳn đã đủ để soi tỏ ông Hawthorne, người mới hôm qua còn nhỏ bé này. Nhưng tôi không sẵn lòng đặt mình vào hàng những kẻ, ít nhất là vì đang động đến Shakespeare, làm gương cho câu cách ngôn của Rouchefoucauld rằng “ta đề danh tiếng của một số người lên cao, đặng đè danh kẻ khác xuống thấp”[19]; những kẻ, ra chiều răn dạy cho hết thảy những kẻ chí-tâm biết rằng họ chẳng còn hy vọng nào, bèn tuyên bố Shakespeare là đấng không thể vươn tới. Ấy vậy mà đã có người vươn tới rồi đấy thôi. Có những tinh thần đã đi xa ngang ngửa Shakespeare vào trong vũ trụ. Và hiếm có một kẻ phàm nào mà, vào một lúc nào đó, lại không thấy trong mình có những tư tưởng cũng lớn chẳng kém những cái bạn gặp trong Hamlet. Ta không được đặt điều nói ác nhân loại chỉ vì một cá nhân, dù người đó có là ai. Đó là một món quá rẻ mà một kẻ thường tầm có đầu óc phải mua để tự an ủi mình. Chưa kể, cái lòng sùng bái Shakespeare tuyệt đối và vô điều kiện này đã nên một phần của tục mê tín Ăng-lô Xắc-xông chúng ta. Ba mươi Chín Tín điều nay đã là Bốn Mươi.[20] Sự bất dung cũng lan đến chuyện này. Hoặc là tin vào sự bất khả vượt của Shakespeare, hoặc hãy xéo khỏi đất này. Nhưng thứ niềm tin chi đây cho dân Mỹ, kẻ buộc phải mang tinh thần tiến bộ cộng hòa vào Văn Chương cũng như vào Cuộc Đời? Hãy tin tôi, hỡi bằng hữu, người ấy, chẳng kém Shakespeare là bao đang được tạo ra bên bờ dòng Ohio. Và ngày sau rốt sẽ đến - cái ngày các bạn thốt lên, Ai lại đọc sách của một người Anh hiện đại? Cái nhầm lớn nhất mà cả những người Mỹ đang ngóng đợi một thiên tài văn chương vĩ đại giữa chúng ta cũng mắc phải dường là, chẳng biết tại sao, họ tưởng rằng người ấy sẽ đến trong trang phục thời Nữ vương Elizabeth; là một tay viết kịch trên nền sử cổ nước Anh hoặc chuyện kể của Boccaccio.[21] Trong khi những thiên tài lớn là một phần của thời đại, tự chính họ là thời đại và mang màu tương ứng với thời đại đó. Cũng cùng một mối với người Do Thái, những người, khi Đấng Si-lô đang nhu mì bước giữa phố xá họ, vẫn cứ cầu nguyện cho sự hiện đến oai nghiêm của Người; ngóng được thấy Người đi cỗ xa mã, trong khi chính Người đang trên lưng lừa và ở giữa họ.[22] Và ta cũng chớ có quên rằng ngay khi còn sống, Shakespeare chưa phải là Shakespeare mà chỉ là Ông William Shakespeare của tập đoàn kinh doanh khôn khéo, phát đạt Condell, Shakespeare and Co., chủ sở hữu Nhà hát Globe tại London và bị một nhà văn cung đình có tên Chettle nhìn như một con “quạ ô phách lối,” điểm trang “bằng lông của giống chim khác.” Bởi hãy nhớ cho rõ, điều đầu tiên người ta hay lấy ra buộc tội nguyên bản chính là bắt chước. Do đâu nên sự thì chẳng đủ chỗ để bàn. Muốn kể cho hết Lẽ Thật thì ta cần đến cả một bãi bể mênh mông, nhất là khi lẽ ấy trông như mang một sắc diện của sự mới, tựa châu Mỹ năm 1492, dầu khi ấy nó đã già, có khi còn già hơn châu Á; chỉ là mấy ông hiền-triết – các thủy thủ – chưa từng thấy nó bao giờ, nên thề sống thề chết rằng nơi ấy chỉ toàn nước và quầng trăng.

Giờ tôi sẽ chẳng nói rằng Nathaniel xứ Salem là một người vĩ đại hơn William xứ Avon hay ngang bằng đâu. Nhưng khoảng cách giữa hai vị ấy tuyệt không phải là không thể đo. Chỉ một chút nữa thôi, và Nathaniel đã rất William rồi.

Có điều này tôi cũng muốn nói, nếu Shakspeare chưa có người nào sánh ngang, hãy cứ để thời gian lên tiếng, rồi thì ở bán cầu này hoặc bán cầu kia cũng sẽ có người vượt qua ông. Và đừng vin vào cái lẽ rằng thế giới ngày nay đã già nua phai bạc và đã đánh mất cái duyên xuân xưa, thứ các thi nhân vĩ đại xưa kia nhờ cậy mà nên danh ta ngưỡng vọng ngày nay. Nào phải thế. Thế giới ngày nay vẫn cứ trẻ hoài như buổi đầu tạo dựng, và sương mai Vermont sáng nay vẫn cứ đẫm lên chân tôi, như sương Eden lên chân Adam. Tự nhiên cũng chưa bị tiền nhân ta khai phá đến cùng kiệt. Hoàn toàn khác. Hàng ti tỉ phần cần nói hãy còn chưa nói, và thảy bao sự đã nói lại chỉ mở ra muôn lối đưa đến những chỗ còn chưa được nói. Chẳng phải vì khan hiếm mà vì chính sự dư-thừa chất liệu mới là điều làm bất lực các văn sĩ hiện đại.

Vậy hãy để nước Mỹ trân quý và nâng niu các văn sĩ của bà; phải, hãy để bà vinh danh họ. Họ đâu có đông đến mức nốc cạn thiện-chí của bà. Và đương khi bà còn đủ máu mủ ruột rà nhà bà để ôm vào lòng, thì chớ để bà phí cái ôm mà đi ôm ruột rà nhà khác. Bởi, tin hay không thì tùy, nước Anh sau rốt vẫn chẳng chung mối chung dây với ta. Đến Trung Hoa còn nhiều mối thân tình với chúng ta hơn bà ấy. Nhưng kể cả nếu đất này chẳng có bao nhiêu cá tính văn chương mạnh, dầu kỳ thực có ít nhất đến hàng mấy tá như thế, thì nước Mỹ trước tiên cũng vẫn nên dành lời ngợi khen cho sự thường tầm ở con cái bà trước khi bà ngợi khen (bởi đâu đâu, ai ai cũng buộc phải công nhận các công lao) sự xuất chúng ở con cái xứ người. Hãy để các tác giả của bà, tôi nói, được quyền ưu tiên tán-thưởng. Tôi khá hài lòng trước một người em họ nóng máu ở Carolina, người từng nói – “nếu chẳng còn một người Mỹ nào khác để dựa vào trong văn chương thì sao chứ, em vẫn cứ đứng bên Pop Emmons và Fredoniad của ông ấy,[23] đến chừng nào có một thiên sử thi khác khấm khá hơn xuất hiện, thề là nó chẳng kém mấy Iliad đâu.” Gạt lời lẽ sang một bên, tinh thần của em ấy vẫn là chính đáng.

Không phải là thiên tài Mỹ cần phép đỡ đầu để phát triển. Bởi thứ nhiên liệu dễ nổ kia vẫn cứ bùng lên dẫu có bị kẹp chặt trong ê tô và sẽ nổ tung nó, dẫu có đến ba lớp thép bọc. Là vì ích lợi của quốc gia chứ chẳng vì văn sĩ của bà mà tôi mong nước Mỹ lưu tâm hơnđến sự vĩ đại đang ngày một lớn nơi những người viết của bà. Bởi sẽ tủi hổ lắm nếu quốc gia khác lại đi trước bà trong việc đội mão triều thiên cho các anh hùng bút mực! Ấy vậy mà sự đã nên như thế đấy. Các nhà văn Mỹ nhận được nhiều tán dương công bình và sáng suốt (dẫu ở một số ca nhất định, những tán dương ấy có phần quá mức và nực cười) từ người Anh, hơn từ những đồng hương họ. Số nhà phê bình ở Mỹ đếm không quá năm đầu ngón tay và vài người trong số đó thì vẫn đang ngái ngủ. Về phép đỡ đầu, chính các nhà văn Mỹ là người đỡ đầu đất nước họ chứ chẳng phải ngược lại. Và nếu đôi lúc có người nào trong số họ ngỏ lời đến nhân dân đặng cầu thêm sự ghi nhận thì đó không hẳn vì những động lực riêng tây mà là vì yêu nước vậy.

Quả thật, đến nay chỉ có ít người trong số họ bộc lộ đủ rõ bản sắc để xứng được tán dương nồng nhiệt. Nhưng nhà văn vợi duyên dáng kia[24], có lẽ giữa biết bao văn nhân Mỹ lại là người được xứ sở mình tán thưởng nhiều nhất vì tác phẩm của ông – nhà văn tiếng tăm và đáng mến ấy, dẫu tốt và tự-lực trên nhiều phương diện, danh tiếng lớn của ông dường chỉ nhờ vào sự mô phỏng có chủ ý một mẫu ngoại quốc, và nhờ vào sự tránh né lường trước lường sau thảy bao đề tài, chỉ trừ những cái nhẵn trơn. Song, thà thất bại với nguyên bản còn hơn mô phỏng thành công. Kẻ nào chưa từng thất bại nơi đâu, kẻ ấy chẳng được nên vĩ đại. Chính thất bại là phép thử đúng cho sự vĩ đại. Và nếu có ai nói rằng thành công không ngơi là dấu hiệu của một kẻ thấu-biết khả năng của mình thì cần nói thêm một ý nữa: nếu đã thế, hắn biết rằng thành công ấy bé mọn thôi. Vậy ta hãy tin lấy điều này, một lần cho mãi mãi, rằng ta chẳng thể hy vọng được gì nhiều ở mấy tay viết trơn tru, dễ dãi, thấu-biết khả năng của họ. Không có ác ý, nhưng xin được nói một sự thật trần trụi, họ chỉ là một phụ chú chêm vào cho Goldsmith, cùng nhiều văn hào Anh khác thôi. Và chúng ta chẳng cần một Goldsmith Mỹ, cũng chẳng cần một Milton Mỹ. Điều tệ hại nhất mà bạn có thể nói với một nhà văn Mỹ chân chính là gọi anh ta là một Tompkins Mỹ. Hãy cứ gọi anh ta là một người Mỹ và thế là đủ, bởi chẳng còn gì tôn quý hơn để nói về anh. Nhưng không có nghĩa rằng mọi nhà văn Mỹ đều phải cố giữ khư bản sắc dân tộc trong cái viết của mình; chỉ cần thế này, không nhà văn Mỹ nào nên viết như một người Pháp hay một người Anh; hãy viết như một con người, bởi khi làm được thế, ắt họ sẽ viết như một người Mỹ. Ta hãy dẹp đống men chầu chực văn chương Anh kia đi.[25] Nếu phải có kẻ đóng vai chầu chực trong chuyện này, hãy để nước Anh đảm vai ấy, chứ chẳng phải ta. Đương khi ta đang ráo riết chuẩn bị cho quyền bá chính trị giữa các quốc gia, thứ theo tiên tri đang đợi ta ở cuối thế kỷ này, thì trên mặt trận văn chương, ta chưa chuẩn bị nổi một thứ chi và có vẻ ta vẫn còn muốn giữ mình mãi như thế. Từ trước đến nay, có thể đã có những lý do để ta phải như vậy, nhưng giờ chẳng còn một cái lý nào là chính đáng nữa. Tất cả những gì cần làm để sửa đổi vấn đề đơn giản là thế này, rằng trong khi công nhận đầu đủ sự ưu trội ở bao nơi khác, ta nên kiềm lại việc tán tụng thái quá các nhà văn ngoại quốc, đồng thời, nhận biết cho hợp lẽ những nhà văn đáng khen ngợi của chính chúng ta – những nhà văn phả ra tinh thần không xích buộc, dân chủ của đạo Ki-tô từ bao thứ họ viết, thứ tinh thần hiện đang đưa tay dắt dẫn thế giới, dù chúng ta – con dân nước Mỹ – là những kẻ đi đầu hàng ngũ ấy. Ta hãy mạnh dạn lên án mọi sự mô phỏng, dẫu nó có đến với ta thơm ngọt và tao nhã như hương mai và hãy nuôi dưỡng mọi sự nguyên bản dẫu thoạt tiên nó có như cua bò và xấu như mấu cây thông xứ ta. Và nếu có tác giả nào của ta thất bại hoặc có vẻ thất bại thì, như lời người em họ Carolina tôi, ta hãy vỗ vào vai anh mà an ủi và chống cho lưng anh vững trước ván thứ hai với châu Âu. Sự thật là, nhìn từ góc độ ấy, vấn đề quốc-văn đã đến hồi vuột khỏi chúng ta, rằng theo một nghĩa nào đó, ta phải trở hung hăng, bằng không thế sẽ mất, hoặc sự ưu vượt sẽ vượt quá xa ta, đến nỗi ta khó lòng nói được rằng liệu có bao giờ mình sẽ giật được nó.

Và giờ đây, hỡi đồng bào tôi, một tác giả xuất sắc thuộc chính huyết-nhục các bạn – một người không mô phỏng ai, và, có lẽ, theo cách của ông, một người không ai mô phỏng nổi – còn ai tôi có tán tụng cho các bạn nghe trước nhất ngoài Nathaniel Hawthorne. Ông là một trong những nhà văn thuộc thế hệ mới và ưu tú hơn nhiều của giới văn chương các bạn. Mùi dẻ gai và linh sam non vương trên ông; thảo nguyên của các bạn trải ra bát ngát trong tâm hồn ông; và nếu bạn đi sâu theo hướng nội địa vào bản tính sâu-cao của ông, bạn sẽ nghe thấy tiếng gầm vang vọng của thác Niagara. Đừng để thế hệ tương lai phải đảm lấy niềm vui công nhận ông. Các bạn hãy đảm lấy nó, trong chính thế hệ mình; và như thế ông sẽ thấy được những thôi thúc của niềm cảm kích trong mình, thứ hẳn sẽ khiến ông chóng nở thành đóa hoa rộ của một thành tựu còn lớn hơn nữa trong mắt các bạn. Và trong lúc thừa nhận ông, bạn đồng thời thừa nhận những người khác, bạn nâng đỡ cả một dòng anh em. Bởi thiên tài khắp thế giới thảy đều nắm tay nhau, và chỉ một tia điện công nhận thôi cũng đủ để truyền động cho cả vòng tròn ấy.

Khi bàn về Hawthorne, hay đúng hơn là về Hawthorne trong những tác phẩm của ông (bởi tôi chưa từng gặp ông; và giữa những tình cờ của một cuộc sống điền viên yên ả, xa biệt khỏi những nơi vương dấu chân ông, có lẽ sẽ chẳng bao giờ gặp); bàn về tác phẩm của ông, tôi muốn nói, đến giờ tôi vẫn chưa nhắc đến Twice Told Tales, Scarlet Letter. Cả hai đều xuất sắc, song đầy những cái đẹp lạ, nhiều vẻ và nồng, đến mức thời gian gần như chẳng đủ để tôi kể ra phân nửa chúng. Nhưng có những thứ trong hai quyển ấy, những thứ, giả chúng được viết ở Anh cách đây một thế kỷ, Nathaniel Hawthorne hẳn đã làm lu mờ nhiều cái tên sáng mà nay ta vẫn sùng kính theo uy tín xưa. Nhưng tôi bằng lòng phó Hawthorne lại cho chính ông cùng phát hiện không thể lầm lẫn của hậu thế; và dù lời tôi tán dương ông có lớn đến đâu, tôi vẫn thấy rằng khi làm như thế, tôi đã phục vụ và vinh danh chính mình, hơn là ông. Bởi lẽ, suy cho cùng, sự hay lớn tự thân nó đã là lời tán dương; nhưng cảm xúc của một tình yêu và lòng mến mộ chí thành lẫn với biết ơn hướng đến nó cần phải được thốt thành lời cho thỏa, và lời tán dương nồng hậu, chân thành thì luôn để lại dư vị ngọt lành trong miệng; và khi ta thừa nhận những gì đáng trọng nơi người khác, đó cũng chính là một việc đáng trọng.

Nhưng tôi chưa thể rời bỏ đề tài của mình ngay. Không ai có thể đọc một tác giả hay và hưởng nếm ông ta đến tận xương tủy trong lúc đọc mà lại không tưởng đến trong đầu mình hình tượng lý tưởng của vị ấy và tinh thần của ông. Nếu bạn biết cách nhìn, hầu bạn sẽ luôn thấy rằng đâu đó tác giả đã họa cho bạn bức chân dung của ông. Vì lẽ thi sĩ (dù xuôi hay vần), vốn là họa sĩ tự bản chất, giống với dòng anh em bút chì của họ, những họa sĩ chân dung thực, những người, giữa muôn vàn hình-tượng phải vẽ, không phải lúc nào cũng bỏ quên hình tượng chính mình; và trong những trường hợp cao, họ họa mình chẳng chút phấn son, dầu đôi lúc ẩn náu một vẻ gì đó mà muốn chỉ ra cho rõ phải tốn đến mấy trang.

Vậy tôi xin gửi điều này cho những ai thân quen ông nhất, xét xem đoạn sau có phải chăng là Nathaniel Hawthorne; tôi cũng gửi cho chính ông, để xem có gì trong đó biểu lộ khí chất tâm hồn ông, khí chất bền vững của những ai chân thật, ngay thẳng – một kẻ đang tìm, chứ chẳng phải một kẻ đã tìm thấy:

Giờ một người bước vào, ăn vận xuề xòa, với sắc diện của một nhà tư tưởng nhưng đôi phần rắn rỏi và hơi vai u thịt bắp cho một học giả. Gương mặt anh đầy tràn sinh lực, với vài nét mềm hơn và sắc hơn bên dưới. Thoạt trông cục cằn là vậy, gương mặt ấy sau được làm dịu bằng quầng sáng của một trái tim lớn, ấm áp, thứ vừa đủ lực để làm nóng trí năng mạnh mẽ của anh từ ngọn tới nguồn. Anh tiến đến chỗ Người Thông Sáng và nhìn ngài với một ánh nhìn chân thành nghiêm nghị đến nỗi xem chừng chẳng có bí mật nào thoát khỏi tầm của nó.

“Tôi tìm Lẽ Thật,” anh nói.[26]

Hai mươi tư giờ đã qua kể từ lúc tôi viết những dòng trên. Tôi vừa về từ kho rơm, mang thêm càng lúc càng nhiều tình yêu và mến mộ dành cho Hawthorne. Bởi tôi vừa làm một cuộc mót khắp quyển Mosses, nhặt lấy đó đây nhiều thứ đã trốn khỏi tôi. Và tôi phát hiện ra rằng chỉ cần đi mót sau lưng vị này cũng đã là hơn so với đi gặt ở chỗ kẻ khác. Thực lòng mà nói (dẫu có lẽ hơi ngốc), mặc cho hôm qua tôi viết bao thứ về những mẩu Rêu, tôi vẫn chưa đọc hết chúng; tuy vậy tôi cũng đã đủ khả giác về yếu tính tinh-vi ở chúng, đặng viết ra như tôi đã viết. Sẽ còn được đưa lên đến những đỉnh cao ngút ngần nào của ngỡ ngàng và mến mộ kính yêu bằng việc liên tục ăn yến trên lớp Rêu ấy cho đến khi hiệp nhuần toàn bộ cốt chất của chúng vào sinh thể mình – sự ấy, tôi không sao kể xiết. Nhưng tôi cảm được rằng Hawthorne đã gieo những hạt mầm xanh vào tâm hồn tôi. Càng suy ngẫm nhiều về ông, ông càng nảy to ra và đâm sâu xuống, mỗi lúc lại một sâu và sâu hơn, cắm rễ New England khỏe mạnh của ông vào đất ấm trong tâm hồn miền Nam tôi.

Dò lại mục lục cẩn thận, giờ tôi mới phát hiện mình đã đọc hết các truyện-ký; nhưng hôm qua khi viết, tôi vẫn chưa đọc hẳn hoi hai mẩu mà giờ tôi muốn đặc biệt chú ý – Một buổi Tiệc KénChàng Goodman Brown. Ở đây, tôi xin nói với tất cả những ai dễ hay đã bị những dòng cẩu thả nhất thời của tôi cám dỗ mà đọc kỹ quyển Mosses, rằng họ tuyệt chẳng nên để mình bị lừa, nản, hay bất mãn bởi vẻ tầm thường của nhiều nhan đề truyện-ký này. Bởi hơn một lần, nhan đề hoàn toàn trái ngược với tác phẩm. Cứ như mấy can demijohn quê mùa đựng đầy Falernian hay Tokay thượng hạng, rồi lại dán nhãn “Cider,” “Perry,” hoặc “vang Elderberry”. Sự thật có vẻ là, giống như nhiều thiên tài khác, vị Người Rêu này rất thích lấy việc che mắt thế gian làm vui – ít nhất là che những thứ liên quan đến mình. Cá nhân tôi không nghi gì việc ông thích được người ta xem mình là loại nhà văn làng nhàng, vì ông sẵn lòng dành riêng lòng quý trọng hoàn bị và sâu sát cho người nào đủ khả năng đánh giá – cũng tức là cho chính ông. Ngoài ra, tận sâu trong bản tính, những người như Hawthorne, trong nhiều việc, xem những tán thưởng của công chúng là bằng chứng quá rõ cho độ thường tầm ở đối tượng của những tán thưởng ấy, rằng đến một mức độ nào đó họ sẽ sinh nghi chính năng lực của mình, giả họ nghe thấy nhiều í a ré đến họ giữa đồng chăn công chúng. Thật vậy, tôi cũng đã cất tiếng í a (nếu bạn muốn vui mà thấy như thế), nhưng tôi cho rằng mình là kẻ đầu tiên mở miệng kêu trong chuyện này; và, do vậy, dù xin được nhận tội, tôi vẫn đòi cho mình công trạng xứng đáng của kẻ khai phá.

Nhưng dù động cơ có là gì, nghịch hay nghiêm, khi Nathaniel Hawthorne đã chọn đặt nhan đề các truyện của ông theo lối như vậy, rõ ràng là một số những truyện ấy được chủ ý tính toán để đánh lừa – lừa to những người đọc lướt trên bề mặt các trang. Để thật lòng và thẳng thắn thêm một lần nữa, tôi xin vui vẻ nói rằng hai nhan đề tôi nhắc ở trên đã lừa thảm thương một độc giả háu mắt như tôi đây, và điều đó cũng đã xảy ra sau khi tôi bị ấn tượng với một cảm giác về độ sâu thâm và quảng khoát của người Mỹ này.“Kẻ nào, nhân danh sấm” (như dân quê vùng này hay nói), “kẻ nào, nhân danh sấm, lại trông cho có điều chi huyền nhiệm trong một truyện mang tên Chàng Goodman Brown chứ?” Dĩ nhiên bạn sẽ cho rằng nó là mẩu chuyện kể giản đơn, kiểu như một phụ lục cho Goody Two Shoes vậy. Nhưng thực nó sâu thâm như Dante; và bạn không thể đọc xong mà không quay sang nói với ông tác giả bằng chính lời ông viết – “Hẳn ông thấu suốt, trong mọi lồng ngực, huyền nhiệm kín sâu của tội lỗi”[27].... Và cùng với Chàng Goodman, trong cuộc đeo đuổi phúng dụ theo dấu cô vợ Thanh giáo của anh, bạn kêu lên thống thiết:

“Faith!” Goodman Brown thét lên, giọng đau đớn và tuyệt vọng; và vọng âm của khu rừng nhạo báng anh, kêu lên, “Faith! Faith!” như những kẻ khốn khổ rối bời đang tìm kiếm cô khắp chốn hoang vu.

         Chính mẩu truyện mang tên Chàng Goodman Brown này đây là một trong hai truyện hôm qua tôi chưa đọc hẳn hoi; và giờ tôi nhắc đến nó bởi nó, tự thân, là một minh họa đậm nét và rõ ràng cho sự đen ở Hawthorne, mà trước đó tôi chỉ xem như một cái bóng thấp thoáng khi nó lấp ló ở một vài truyện-ký khác. Nhưng giả tôi đọc kỹ Chàng Goodman Brown từ trước, hẳn tôi chẳng phải tốn công rút ra cái kết luận ở trên kia, lúc vẫn chưa hay biết rằng quyển sách này còn dung chứa một biểu hiện trực tiếp và tuyệt đối đến vậy về sự đen ấy.

         Mẩu còn lại được đặt tên là Một buổi Tiệc Kén; truyện ấy, trong sự hồn nhiên vào lần đầu cầm lấy quyển sách, tôi tưởng phải kể về một bữa tiệc bánh bí ngô nào đó ở trấn Salem xưa hoặc một bữa xúp chowder ở Cape Cod. Nào ngờ, thề có chư thần ở Peedee, nó lại là thứ ngọt ngào và siêu phàm nhất từng được viết kể từ thời Spenser. Thậm chí chẳng có gì của Spenser vượt qua nổi nó và có lẽ cũng chẳng có gì sánh ngang. Có thể thử như thế này. Hãy đọc bất kỳ canto nào trong The Faerie Queene rồi quay sang đọc Một buổi Tiệc Kén và hãy xem cái nào làm mình thấy thỏa mãn hơn – tất nhiên, nếu bạn đủ khả năng đánh giá. Chớ lấy làm thảng hốt; bởi khi Spenser còn tại thế, người ta cũng thấy ông chẳng khác gì Hawthorne bây giờ - cũng bị xem như một “gentle”-man vô hại. Có thể với con mắt tục, sự siêu phàm của Hawthorne dường bị lụn đi trong vẻ ngọt ngào của ông – như chính trong buổi Tiệc Kén ấy, nơi ông đã dựng lên thật uy nghi một mái vòm mây ráng cho các vị khách và thết họ những món còn cao mỹ hơn cả bữa yến mà Bên-xát-sa từng đãi các đại thần mình ở Ba-by-lôn.[28]

         Nhưng điều tôi chủ yếu muốn làm lúc này là chỉ ra một trang đặc biệt trong thiên truyện, nhắc đến một vị khách danh dự, được gọi tên Đấng Anh Tài, song lại xuất hiện trong bộ dạng của “một cậu trai trẻ ăn vận đơn giản, không phù hiệu cấp bậc hay địa vị sáng danh,” được giới thiệu cho Người Tưởng Tượng, cũng chính là vị chủ tiệc. Mà trang viết về Đấng Anh Tài này biểu lộ hết sức tài tình những thứ tôi viết hôm qua về sự đến của Đấng Si-lô nước Mỹ, đến độ tôi không khỏi đê mê trước sự tình cờ ấy, đặc biệt khi nó cho thấy một tương hợp trong ý tưởng, ít nhiều ở điểm này, giữa một người như Hawthorne và một người như tôi.

         Và đây, xin cho phép tôi được nêu ra một conceit của mình bàn về Đấng Si-lô nước Mỹ, hay Đấng Anh Tài, như cách Hawthorne gọi nhân vật ấy. Liệu chăng tinh thần chỉ huy này chưa từng, đang không, và sẽ chẳng bao giờ phát lộ ở riêng một người nào? Và liệu có vô lý quá không khi giả định rằng sự trọn vẹn ngập tràn này có thể, hoặc được định sẵn để chia cho một đại thể các thiên tài? Hẳn, xét đến tấm gương vĩ đại nhất từng được ghi nhận, Shakespeare chẳng thể được xem là kết-thể của toàn bộ thiên tài thời đại ông, cũng nào có trội vượt hơn những Marlowe, Webster, Ford, Beaumont, Jonson[29] đến mức không thể lường đo, để phán rằng những vĩ nhân này chẳng cùng chia với ông chút tài năng nào? Riêng mình, tôi thấy thời Elizabeth có những kịch tác gia cách Shakespeare một khoảng không hề lớn. Hãy để cho những ai từ bấy chưa động một chút nào tới các tác giả cổ bị lãng quên này đọc kỹ họ lần đầu, ít nhất là đọc Tuyển tập của Charles Lamb[30] về họ, sững sờ trước diệu-năng của những Anak[31] ấy, choáng váng trước cái ví dụ tái khẳng định sự thật rằng Vận thì liên quan đến danh nhiều hơn là tài – dù, không có tài, danh cũng chẳng tồn tại được lâu.

         Tuy vậy, nếu châm ngôn đây lại đúng ở trường hợp của Nathaniel Hawthorne thì thật là một điều quá sức thê thảm cho đất nước tôi: con người đã, cho vài tinh thần ít ỏi, bừng tỏa “thứ ánh sáng chẳng khi nào rọi soi mặt đất, trừ khi có một trái tim vĩ đại cháy lên như ngọn lửa tư gia của một trí năng lớn.”

         Lời ấy là của ông – trong Tiệc Kén; và nó là một tấm khung lộng lẫy cho cảm nghĩ khéo khớp của tôi đính vào, điều hôm qua tôi đã tản mạn tỏ bày khi nói về ông. Cứ phản đối đi nếu có ai muốn; trong lúc viết những dòng này, tôi đây chính là Hậu Thế đang mượn mặt nói – và mai sau thời gian sẽ chứng nghiệm gấp bội điều ấy, còn giờ tôi tuyên bố rằng nếu có người Mỹ nào đến nay đã thể hiện được, trong văn chương, bộ óc lớn nhất cùng trái tim lớn nhất, người đó chính là Nathaniel Hawthorne. Lại nữa rằng mặc cho sau này Nathaniel Hawthorne có viết gì thêm, Mosses from an Old Manse rồi cũng sẽ được xem là kiệt tác của ông. Bởi có một dấu hiệu chắc chắn, song kín kẽ trong vài tác phẩm, cho thấy đó là cực điểm của những năng lực (dẫu chỉ là những cái khả-lộ mà thôi) đã tạo ra chúng. Nhưng tôi chẳng tha thiết gì vinh quang của một nhà tiên tri. Tôi cầu Trời rằng Hawthorne sẽ khiến tôi nên một kẻ giả danh trong lời tiên đoán này. Nhất là vì tôi vẫn còn lưu luyến một tưởng tượng lạ kỳ, rằng trong mỗi con người đều có những thuộc tính kỳ diệu, huyền bí ẩn-ngự – như trong một số loại cây hay khoáng vật – thứ có thể nhờ một cơ duyên hy hữu nào đó (như việc thiếc được phát hiện khi sắt và đồng thau chảy lẫn vào nhau ở Corinth[32]) mà bỗng nhiên được đánh thức dưới mặt đất này, chứ không nhất thiết phải đợi mãi cho đến khi chúng hít được bầu khí hậu tương đắc, phước lành trên thiên đường.

         Một lần nữa – bởi thật khó để dứt lời về một chủ đề vô hạn, mà mọi chủ đề thì đều vô hạn. Có thể vài người sẽ coi rằng toàn bộ bài viết này của tôi chung quy là thừa, vì “mấy năm trước” (dễ hay họ sẽ nói vậy) “bọn tôi đã phát hiện ra cái phẩm chất quý và hiếm này ở Hawthorne rồi, người ông đang trưng ra đấy, làm như chỉ có một mình ông là người phát hiện ra viên kim cương Bồ Đào trong văn chương nước ông vậy.” Nhưng kể cả cứ cho là như thế đi – và thêm vào cái giả định rằng sách của Hawthorne đã bán đến bản thứ năm nghìn – thì lời ấy rốt cuộc nghĩa lý gì? Chúng phải được bán đến bản thứ trăm nghìn, đọc bởi người thứ triệu và phục bởi tất cả những ai có khả năng thán phục.

Gia Hải dịch

 


[1] Tiểu luận này của Melville được đăng hai kỳ trên tờ The Literary World, số ngày 17 và 24 tháng Tám, 1850, dưới dạng ngụy danh – pseudonymous - để tránh tạo ra nơi công chúng cái nhìn phiến diện rằng một tay viết mới chật vật đang tìm đường thăng tiến bằng cách ngợi ca tiền nhân.

[2] Câu kết truyện Nghệ sĩ của cái Đẹp trong tập Mosses from an Old Manse của Hawthorne. Các trích dẫn sau đây được Melville trích từ các truyện và tiểu luận trong tập truyện này, có sửa đổi so với bản gốc để hợp với văn cảnh của Melville.

[3] Tên ngụy xưng của một tác giả bí ẩn, từng gửi đăng một loạt thư chính trị nổi tiếng trên tờ Public Advertiser ở London vào cuối thế kỷ XVIII (1769–1772), công kích trực diện chính quyền đương thời bằng lời lẽ hùng hồn và sắc sảo. Tác giả thực sự của những bức thư ấy cho đến nay vẫn chưa được tìm ra.

[4] Tức Timothy Dwight (1752–1817) là một mục sư, nhà thơ và chủ tịch Đại học Yale. Ông nổi tiếng với tác phẩm Travels in New England and New York (xuất bản sau khi ông mất, 1821–1822), trong đó ghi chép chi tiết về phong cảnh, con người và đời sống xã hội ở vùng New England đầu thế kỷ 19.

[5] Nguyên văn: Stretched on that new mown clover. Chơi chữ với hình ảnh nằm trong cỏ ba lá, chỉ cho sự được an nhàn, thư thái.

[6] Trích từ Tòa thất cũ trong tập truyện.

[7] Như trên. Câu này Hawthorne mượn lại từ Nature của Ralph Waldo Emerson. Ở đây Melville có ý bảo Hawthorne cũng viết ra một thứ ngang ngửa tác phẩm của Emerson.

[8] Như trên.

[9] Như trên. Khuôn viên tòa Old Manse có một vườn cây ăn trái, gầy nên bởi vị mục sư cuối cùng ở đó, ông dượng của Emerson

[10] Như trên.

[11] Hawthorne đã ví trái tim con người, bất kỳ ai kể cả ông, như một cái hang sâu tăm tối.

[12] Nguyên văn: Indian summer. Một cụm từ dùng để chỉ cho đợt thời tiết ấm dịu, sáng và rực rỡ bất thường xảy ra vào cuối thu, sau những ngày lạnh xám đầu.

[13] I Cô-rinh-tô 12:22 - 26.

[14] Lời vua Richard nói với Catesby để trảm Buckingham, trong màn cuối Richard III, bản Colly Cibber (1671 - 1757) viết lại, câu thoại này do chính Cibber viết thêm vào, không có trong nguyên bản của Shakespeare. Ở đây Melville có ý chê.

[15] Một trong nhiều cách viết tên Shakespeare, thời chưa thống nhất chuẩn hóa tên riêng ở Anh và Mỹ.

[16] Hamlet, Timon, vua Lear trong các vở cùng tên và Iago trong Othello.

[17] Có vẻ Melville chỉ đến màn III cảnh 2 của vở bi kịch, khi Lear đã hóa điên, rủa sả trời, và nhận ra mình, và sau này sẽ là con người nói chung, nhỏ bé đến mức nào.

[18] Nguyên văn: arterialized. Chỉ quá trình chuyển đổi máu tĩnh mạch chứa thán khí thành máu động mạch chứa dưỡng khí.

[19] Trong Reflections; or Sentences and Moral Maxims của La Rochefoucauld.

[20] Ba mươi Chín Tín điều của Anh giáo.

[21] Giovanni Boccaccio (1313 - 1375), nhà văn, nhà thơ người Ý, tác giả của Mười ngày.

[22] Một hình ảnh Melville kết hợp từ lời tiên tri của Gia-cốp trong Sáng-Thế ký 49:10 và Xa-cha-ri 9:9.

[23] The Fredoniad; or Independence Preserved. An Epic Poem on the Late War of 1812 của Richard Emmons. Một sử thi câu nệ phong cách Iliad và Aeneid, lấy chiến tranh Anh – Mỹ vào năm 1812 làm đề tài, xuất bản lần đầu vào năm 1827.

[24] Tức Pop Emmons ở trên.

[25] I Cô-rinh-tô 5:6-8.

[26] Trích từ truyện Văn phòng Thông Sáng.

[27] Câu gốc sẽ là: “Các con [Faith và Goodman Brown trong truyện] còn được thấu suốt, trong mọi lồng ngực, huyền nhiệm kín sâu của tội lỗi,...”

[28] Đa-ni-ên 5.

[29] Chỉ cho Christopher Marlowe (1564 - 1593), John Webster (1580? - 1634?), John Ford (1586? - 1639?), Francis Beaumont (1584 - 1616), Ben Jonson (1572 - 1637). Tất cả đều là các kịch tác gia cùng thời với Shakespeare.

[30] Tức Specimens of English Dramatic Poets, Who Lived about the Time of Shakespeare (1808), một tuyển tập phê bình và trích đoạn do Charles Lamb (1775 - 1834) biên soạn. Trong đó, Lamb giới thiệu những nhà viết kịch ít được biết đến nhưng tài năng vô cùng vào thời Elizabeth và Jacobean, nhằm phục hồi giá trị của họ trong lịch sử văn chương Anh.

[31] Một dòng giống có vóc dáng khổng lồ, trong Dân-số Ký 13:32-33.

[32] Truyền thuyết về sự phát hiện ra hợp kim đồng thiếc (bronze) trong vụ cháy thành Corinth có nguồn gốc từ thời cổ đại, được ghi lại bởi Pliny the Elder trong Natural History. Theo đó, trong một trận hỏa hoạn lớn thiêu rụi thành Corinth (Hy Lạp), nhiệt lớn đã làm chảy lẫn các kim loại như đồng thau và thiếc – vốn được tích trữ trong các kho chứa hay đồ vật – tạo nên một hợp kim mới lạ và cứng hơn: chính là đồng thiếc (bronze).

Melville

Mardi (1849)
Jacket trắng (1850)
Hawthorne và Rêu của ông (1850)
Người 'Gee (1853)
Người kéo vĩ cầm (1854)
Pudding của người nghèo và mẩu vụn của người giàu (1854)
Jimmy Rose (1855)
Ngắn (1855-1856)
Cúc-cà-cúc-cu (1856)
Tôi và ống khói của tôi (1856)


Nước Mỹ ấy

Hawthorne (1804–1864)
Edgar Allan Poe (1809–1849)
Thoreau (1817–1862)
Melville (1819–1891)
William James (1842–1910)
Henry James (1843–1916)
Edith Wharton (1862–1937)
Gertrude Stein (1874–1946)
Ezra Pound (1885–1972)
Philip Roth (1933 –2018)
Marilynne Robinson (1943)

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công