Mario Vargas Llosa: Văn chương và cuộc đời
tiếp tục các tiểu luận của Mario Vargas Llosa, kỳ trước ở kia
Văn chương và cuộc đời
Được Mario Vargas Llosa viết tại Lima vào tháng Tư năm 2001.
Rất hay xảy đến với tôi chuyện, vào một hội sách hay tại một hiệu sách nào đó, có một ông tiến lại gần tôi, tay cầm một trong những cuốn sách của tôi và xin tôi một lời đề tặng, nói rất rõ: "Đây là cho vợ tôi, hoặc con gái tôi, hoặc em gái tôi, hoặc mẹ tôi; cô ấy, hoặc họ, là các độc giả lớn và rất thích văn chương." Ngay lập tức tôi hỏi ông: "Thế còn ông, ông không giống vậy à? Ông không thích đọc?" Câu trả lời hiếm khi thay đổi: "Có chứ, dĩ nhiên rồi, tôi thích lắm, nhưng tôi bận kinh lên được, ông thấy đấy!" Tất nhiên, tôi thấy rất rõ điều đó, bởi người ta đã giải thích như thế với tôi hàng nghìn lần rồi: cái ông đó, cả nghìn lẻ một ông khác giống y, có rất nhiều việc quan trọng, rất nhiều bổn phận cùng trách nhiệm trong đời, tới nỗi họ không thể lãng phí thời gian quý giá của mình để bỏ hàng tiếng và hàng tiếng đắm chìm vào việc đọc một cuốn tiểu thuyết, một tập thơ hay một tiểu luận văn chương. Một ý rất phổ biến, theo đó văn chương là một hoạt động thừa thãi, một trò giải trí, chắc chắn là cao quý và hữu ích cho phát triển của sự nhạy cảm và những cung cách tốt đẹp, một thứ trang trí chỉ nằm trong tầm tay của những ai có nhiều thời gian và sự rỗi rãi, thuộc cùng trật tự với các môn thể thao, điện ảnh, chơi bài bridge hay đánh cờ, nhưng có thể chẳng chút đắn đo nào mà bị hy sinh khi vấn đề là lập ra một thang cho những ưu tiên ở các hoạt động cùng các nỗ lực nơi sự vật lộn cho cuộc đời.
Quả đúng là văn chương đã càng lúc càng trở nên một hoạt động của phụ nữ: ở các hiệu sách, vào những buổi thuyết trình hay đọc sách trước đông người của các nhà văn và, tất nhiên, tại các khoa văn trường đại học, váy áp đảo quần. Người ta từng giải thích điều này bằng một sự rảnh rỗi lớn hơn của các phụ nữ thuộc tầng lớp trung lưu, những người làm việc ít thời gian hơn so với đàn ông và, cũng bằng một xu hướng hay thấy hơn, ở họ, về phía giấc mơ và cái tưởng tượng. Vốn dĩ có chút dị ứng với những lời giải thích thuộc dạng phân chia đàn ông và phụ nữ thành các hạng mục đóng kín như vậy và gán cho mỗi giới những đức hạnh cùng những khiếm khuyết tập thể, tôi không thể nhất trí cả hai tay. Nhưng phải công nhận là nhìn chung độc giả văn chương ngày càng ít hơn, và ở đó phụ nữ chiếm đa số. Đấy là một sự vị gần như toàn cầu. Ở Tây Ban Nha, một điều tra gần đây do SGAE (Tổng hiệp hội tác giả Tây Ban Nha) tiến hành đã gióng chuông báo động khi cho thấy một nửa công dân của đất nước chưa bao giờ đọc một cuốn sách nào. Cuộc điều tra đó, ngoài ra, đã cho thấy rằng trong thiểu số có đọc sách ấy phụ nữ vượt đàn ông 6,2% và cái hố đó có khuynh hướng sâu thêm. Tôi chắc chắn là người ta sẽ tìm thấy lại cùng tỉ lệ này tại nhiều nước và, có khả năng trầm trọng hơn, cả ở nước tôi. Chắc chắn là tôi thấy rất mừng cho phụ nữ, nhưng tôi thấy đáng buồn cho đàn ông, và cho hàng triệu con người đã chối bỏ việc đọc, trong khi lẽ ra họ có thể làm việc này. Không chỉ vì họ không biết đến khoái lạc mà họ tự vứt bỏ, mà còn vì, trong một phối cảnh ít tính cách hưởng lạc hơn, tôi hết sức chắc chắn rằng một xã hội không có văn chương, hoặc tại đó văn chương đã bị đẩy, như một số thói tật không thể thú nhận, ra bên lề của cuộc sống xã hội để trở thành, theo cách nào đó, một sự thờ phụng của giáo phái, bị kết án phải chìm vào sự man rợ về tinh thần và gây hại cho tự do của nó.
Tôi xin nói ở đây một số lập luận ủng hộ cho văn chương, không phải được coi như một trò qua thời gian xa xỉ, mà như một trong những hoạt động tạo sự giàu có lớn nhất cho tinh thần, một việc không thể thay thế đối với sự đào tạo công dân ở một xã hội hiện đại và dân chủ, được cấu thành từ các cá nhân tự do, và chính do vậy mà xứng được khắc sâu vào trí não ngay từ hồi còn nhỏ trong các gia đình và tạo dựng một kỷ luật nền tảng trong những chương trình giáo dục. Chúng ta biết rằng chẳng có gì như thế, mà ngược hẳn lại, và văn chương đang mất dần chỗ, thậm chí sắp biến mất khỏi chương trình học như thể đấy là một thứ dạy dỗ thừa.
Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên chuyên môn hóa của các hiểu biết, nếu nhìn vào sự phát triển phi thường của khoa học và kỹ thuật, và sự phân mảnh nó thành vô số ngành nhánh rất kín, xu hướng chỉ có thể càng mạnh thêm lên trong những năm sắp tới. Sự chuyên môn hóa bày ra, chắc hẳn, nhiều lợi thế, bởi nó cho phép đi sâu vào sự khám phá và thí nghiệm, và tạo ra động cơ cho tiến bộ. Nhưng nó cũng có một hệ quả âm tính: sự loại bỏ đi các ngòi nổ chung của văn hóa nhờ đó đàn ông và phụ nữ có thể cùng tồn tại, thông giao, cảm thấy đoàn kết với nhau theo cách nào đó. Sự chuyên môn hóa dẫn đến sự bất khả thông giao về xã hội, đến sự tán nhỏ tổng thể con người thành các nhóm hay các ghetto văn hóa được tạo ra từ các kỹ thuật viên và chuyên gia mà một ngôn ngữ, các mã cùng một thông tin mỗi lúc một thêm nhiều tính cách co cụm nhốt vào sự đặc thù hóa, chống lại nó câu ngạn ngữ cổ đã bảo chúng ta phải đề phòng: đừng quên rằng cái lá của mi hay cái cành của mi là một phần của cái cây, và nó thì là một phần của khu rừng. Thức nhận ấy về tồn tại của khu rừng xét về phần lớn xác định tình cảm thuộc về, thứ giữ chúng ta tụ hội vào với một tổng xã hội và ngăn cản nó tan rã ra thành vô số đặc thù đơn lẻ. Và sự đơn lẻ - dẫu là liên quan tới các dân tộc hay các cá nhân - khơi lên các paranoid cùng những điên loạn, sự lệch đi của thực tại vốn dĩ nằm ở nguồn gốc cho căm thù, các cuộc chiến tranh và các cuộc chiến tranh tương tàn. Ngày nay khoa học và kỹ thuật không còn có thể hoàn thành chức năng văn hóa về kết hợp xưa kia của chúng, do chính sự phong phú vô tận của các hiểu biết và mức độ nhanh chóng trong tiến hóa của chúng, những thứ đã dẫn chúng đến sự chuyên môn hóa và sự sử dụng các tự vị hũ nút.
Ngược lại, khác với khoa học và kỹ thuật, văn chương là, từng là và sẽ tiếp tục là, chừng nào nó còn tồn tại, một trong những ngòi nổ chung của kinh nghiệm con người nhờ đó những người sống nhận ra nhau và có thể đối thoại, dẫu hoạt động và các dự đồ sống của họ, địa dư cùng những hoàn cảnh nơi họ ở vào, và thậm chí các quãng lịch sử xác định chân trời của họ, có khác nhau đến đâu. Nếu là độc giả của Cervantes hay của Shakespeare, của Dante hay của Tolstoy, chúng ta hiểu được nhau và có cảm giác thuộc về cùng một loài, vì đã học được trong các tác phẩm của họ những gì mà chúng ta chia sẻ ở tư cách con người, những gì là thường trực ở chúng ta bên dưới vành quạt xòe lớn những khác biệt của chúng ta. Chẳng gì bảo vệ con người đang sống chống lại sự ngu xuẩn của các định kiến, của sự phân biệt chủng tộc, của thói bài ngoại, của sự gà què ăn quẩn áp đặt bởi sự hình thành giáo phái về mặt tôn giáo hay chính trị, hoặc bởi các thứ quốc gia chủ nghĩa kiên định, tốt hơn so với nhận định luôn luôn hiện diện trong văn chương lớn: sự bình đẳng cốt yếu của đàn ông và phụ nữ dưới mọi bầu trời và sự bất công nằm ở sự thể thiết lập giữa họ mọi hình thức của phân biệt, của lệ thuộc hay của bóc lột. Không gì đáng giá bằng văn chương trong việc dạy chúng ta nhìn thấy, nơi các khác biệt về chủng tộc và văn hóa, sự phong phú của di sản con người và vinh danh chúng như một biểu hiện cho sự sáng tạo vô số của nó. Đọc văn chương hay thì giúp giải trí, chắc chắn rồi, nhưng cũng giúp học được - theo cách trực tiếp và cường độ cao, cách thức của kinh nghiệm đã trải qua nhờ vào hư cấu - chúng ta là gì và chúng ta thì như thế nào, trong sự toàn vẹn con người của chúng ta, xuyên qua các thể động của chúng ta, các giấc mơ của chúng ta cùng các huyễn tưởng của chúng ta, trong sự cô độc và trong mạng lưới các mối quan hệ nối chúng ta vào với nhau, trong hiện diện công cộng của chúng ta và trong bí mật nơi ý thức của chúng ta, cái tổng số phức tạp cực điểm của những sự thật mâu thuẫn nhau ấy - theo cách nói của Isaiah Berlin - từ đó thân phận con người được làm nên. Hiểu biết có tính cách tổng và sống động về con người đó, ngày nay, chỉ còn nằm trong văn chương. Ngay cả các nhánh khác của các môn nhân văn - như triết học, tâm lý học, xã hội học, lịch sử và các nghệ thuật - cũng đã không thể giữ được viến kiến bao trùm ấy, trong một định ngôn mà người bình thường cũng có thể xâm nhập, bởi, dưới sức ép không thể cưỡng lại của phân chia và phân chia thêm nữa các hiểu biết, một hoạt động ung nhọt, chúng cũng đã gục ngã trước thói chuyên quyền của chuyên môn hóa, trước sự cô lập thành các khoảng càng lúc càng thêm phân mảnh và nhiều tính kỹ thuật, mà các ý cùng các ngôn ngữ nằm ngoài tầm với của phụ nữ hay đàn ông bình thường. Đấy không phải, đấy không thể là trường hợp của văn chương, ngay cả khi một số nhà phê bình cùng lý thuyết gia cứ bướng bỉnh tìm cách biến nó thành một khoa học, vì hư cấu không được dùng để khám phá một mảnh đất của thực nghiệm xác định, mà để làm giàu cho cuộc sống nhờ trí tưởng tượng, cuộc sống của mỗi con người, cái cuộc sống không thể bị xẻ nhỏ, tháo rời, bị thu giảm về những sơ đồ hay những công thức mà không bị kết án phải biến mất. Chính vì vậy Marcel Proust đã khẳng định: "Cuộc sống thật, cái cuộc sống rốt cuộc cũng được thấy rõ và được phát hiện, cuộc sống duy nhất được trải qua một cách đầy đủ, đó là văn chương." Được hướng lối bởi tình yêu dành cho thiên hướng ấy, mà ông đã thực thi với một tài năng tuyệt vời, ông không quá lời, mà chỉ đơn giản muốn nói rằng, nhờ văn chương, cuộc sống được hiểu rõ hơn và được sống qua tốt hơn, và việc hiểu, sống tốt hơn cuộc đời của mình, ấy là sống nó và chia sẻ nó với những người khác.
Dây nối đầy tình anh em mà văn chương tạo ra giữa các con người, bằng cách buộc họ phải đối thoại và phải thức nhận về một cái nền chung, về cùng một dải tinh thần, siêu vượt những ba ri e của thời gian. Văn chương đưa chúng ta về quá khứ và hội chúng ta vào với những ai, ở các thời đã qua, từng hình dung, nếm náp, mơ tới những văn bản đó, mà họ đã truyền lại cho chúng ta và giờ đây cũng ban cho chúng ta khoái lạc cùng giấc mơ. Cảm giác mình thuộc về sự tập thể của con người xuyên qua không gian và thời gian ấy là thành công lớn hơn cả của văn hóa và không gì đóng góp được nhiều hơn trong việc làm nó mới lại vào mỗi thế hệ, được như văn chương.
Borges hay bực bội những khi người ta hỏi ông: "Văn chương thì được ích lợi gì?" Ông thấy câu hỏi này ngu xuẩn và đáp: "Hẳn sẽ chẳng ai nảy ra cái ý tự tra hỏi mình về sự hữu dụng của tiếng hót một con chim hoàng yến hay các ánh lửa của một buổi hoàng hôn." Nếu những điều thật đẹp đó tồn tại và nếu, nhờ chúng, cuộc đời bớt xấu xí và đỡ buồn, dẫu chỉ trong một giây lát, thì quả thật chẳng phải sẽ thật là ti tiện khi tìm cho chúng các biện minh thực tiễn ư? Tuy nhiên, khác với những tiếng hót rung vang của lũ chim hay cảnh tượng mặt trời chìm xuống nơi chân trời, một bài thơ, một cuốn tiểu thuyết không phải chỉ là các sự vị của ngẫu nhiên hay của tự nhiên, mà là thành quả từ sự sáng tạo của con người. Như vậy sẽ thích hợp nếu tự hỏi bằng cách nào và tại sao chúng lại ra đời, những gì chúng đã mang đến cho loài người để mà văn chương, mà nguồn gốc xa xôi hòa vào với nguồn gốc của chữ viết, lại có thời độ lớn tới vậy. Vốn dĩ là những huyễn ảnh thiếu chắc chắn, chúng được sinh ra trong sự thiết thân của một ý thức, được mang tới cho nó bởi các lực hợp với nhau của cái ngoài ý thức, sự nhạy cảm cùng những cảm xúc, và nhà thơ, người kể chuyện, đã dần dà mang lại cho nó một bóng dáng, một cơ thể, một chuyển động, một nhịp điệu, một hài hòa, một sự sống. Một sự sống nhân tạo, được tạo ra từ ngôn ngữ và trí tưởng tượng, nó cùng tồn tại với sự sống kia, cuộc sống thực, kể từ khi nào chẳng biết, và là thứ mà đàn ông và phụ nữ nhờ cậy - một số theo lối đều đặn, những người khác thì thảng hoặc - những lúc cuộc đời của họ là không đủ đối với họ, không nằm trong khuôn khổ các mong muốn của họ. Văn chương không khởi sự tồn tại vào khoảnh khắc nơi một cá nhân sinh nó ra, mà khi nó được những người khác nhận lấy và hòa mình vào với cuộc sống xã hội, khi nó trở thành, nhờ sự đọc, một kinh nghiệm được chia sẻ.
Một trong những hiệu ứng tốt đẹp đầu tiên của nó được nhận thấy ở ngôn ngữ. Cộng đồng nào không có văn chương viết thì diễn đạt kém chính xác hơn, ít sắc thái cùng sự sáng sủa hơn so với các cộng động mà công cụ giao tiếp chính yếu - từ - đã được chăm bón và hoàn hảo hóa nhờ những văn bản văn chương. Một loài người không có sự đọc, bị tước mất ảnh hưởng của văn chương, hẳn sẽ rất giống một cộng đồng toàn những kẻ nói lắp và ăn không nên đọi nói không nên lời, bị đè nén dưới các vấn đề khủng khiếp về sự thông giao do thứ ngôn ngữ thô lậu và sơ khai của nó. Điều này cũng đúng đối với các cá nhân, tất nhiên. Một người không đọc, hay đọc ít, hoặc chỉ đọc văn chương thấp kém, có thể ba hoa rất nhiều mà chẳng nói được điều gì, bởi người đó chỉ có một từ mục hẹp và không có đủ để tự diễn tả. Giới hạn ấy không chỉ nằm ở khía cạnh ngôn từ, mà cả trí năng nữa, đấy là một sự thu nhỏ đi chân trời thuộc tưởng tượng, một thiếu thốn về suy nghĩ và các hiểu biết, bởi các ý, các khái niệm cho phép chúng ta nắm lấy thực tại đang tồn tại cùng những bí mật nơi thân phận của mình không thể tách rời khỏi các từ xuyên qua đó ý thức nhận ra chúng và định nghĩa chúng. Người ta học nói một cách đúng đắn được, theo cách thức sâu sắc, chặt chẽ và tinh tế, là nhờ vào văn chương hay và chỉ nhờ nó. Không bộ môn nào khác, không nhánh nghệ thuật nào khác, có thể dùng để thay thế nó trong sự hình thành ngôn ngữ thông qua đó con người thông giao. Những hiểu biết được truyền đi qua các khảo luận khoa học cùng các sách giáo khoa kỹ thuật thì rất nền tảng, nhưng không dạy cho chúng ta cách làm chủ các từ cũng như diễn tả chính xác: ngược hẳn lại, rất thường xuyên chúng được viết rất tệ và để lộ một sự rối loạn ngôn ngữ nhất định, bởi tác giả của chúng, đôi khi có năng lực không thể bàn cãi trong địa hạt của mình, theo đúng nghĩa đen là những người thiếu hiểu biết và không biết dùng ngôn ngữ để truyền những kho báu về khái niệm mà họ nắm giữ. Biết cách diễn đạt, có được một ngôn ngữ phong phú và đa dạng, tìm ra những từ chuẩn cho mỗi ý hay cảm xúc mà người ta muốn thông giao, cái đó đồng nghĩa với việc được chuẩn bị tốt hơn để suy nghĩ, để dạy dỗ, để học, để đối thoại, và cả để tưởng tượng, mơ, cảm thấy và xúc động. Theo lối rất khó nhận biết, các từ vang lên trên tất tật những thể động của cuộc đời, ngay cả những gì dường ở rất xa khỏi ngôn ngữ. Ngôn ngữ, nhờ văn chương, càng tiến hóa, cho tới tận chỗ đạt đến một trình độ cao về tinh xảo và về sắc thái, nó càng nâng lên các khả năng về tận hưởng của con người và, ở địa hạt tình yêu, khiến thăng hoa những ham muốn và đưa hành động tình dục lên mức của sáng tạo nghệ thuật. Nếu không có văn chương, hẳn dục tình không tồn tại. Tình yêu và khoái lạc hẳn sẽ nghèo nàn hơn, hẳn sẽ thiếu mất đi sự tế nhị, sự quyến rũ cùng cường độ cao mà nó đạt tới được một khi đã được gọt giũa và mài sắc bởi sự nhạy cảm và trí tưởng tượng thuộc văn chương. Không hề quá lời khi bảo rằng một cặp yêu nhau từng đọc Garcilaso, Petrarca, Góngora và Baudelaire yêu và tận hưởng giỏi hơn một cặp yêu nhau khác được tạo thành từ hai kẻ mù chữ bị ngu muội hóa rất nhiều bởi những bộ phim truyền hình nhiều tập. Tại một thế giới không-văn chương, hẳn người ta sẽ không thể nào phân biệt được tình yêu và khoái lạc với sự thỏa thuê thú vật, hẳn chúng sẽ không đi quá được sự thỏa mãn thô thiển của các bản năng sơ khai: giao cấu và nhồm nhoàm.
Các phương tiện nghe nhìn cũng không có khả năng thế chỗ văn chương trong chức năng dạy cho con người việc dễ dàng và đầy tài năng sử dụng những khả thể rất phong phú của ngôn ngữ. Ngược hẳn lại, chúng hướng đến chỗ, và điều này là tự nhiên, đẩy các từ xuống hạng thứ yếu trong tương quan với hình ảnh, ngôn ngữ tiên quyết của chúng, và nhốt chặt ngôn ngữ vào biểu đạt nói của nó, vào sự tối thiểu ngặt nghèo, vào chỗ xa xôi hơn cả khỏi biểu đạt viết, bởi biểu đạt viết, dẫu là trên màn hình nhỏ hay màn hình lớn và trên sóng phát thanh, luôn luôn có một hiệu ứng gây buồn ngủ. Việc đánh giá là nhiều chất văn chương một bộ phim hay một chương trình là một cách thanh lịch nhằm coi nó là rất chán. Và chính vì thế các chương trình văn học, trên radio hay trên ti vi, hiếm khi thu hút nhiều công chúng: theo hiểu biết của tôi, ngoại lệ duy nhất cho quy tắc này từng là Apostrophes của Bernard Pivot, ở Pháp. Điều này thúc đẩy tôi tới chỗ nghĩ, chẳng phải là không có một số nghi ngờ, tôi công nhận, rằng không chỉ văn chương không thể thiếu đối với hiểu biết tốt và việc dùng ngôn ngữ dễ dàng, mà số phận của nó được nối một cách không thể gỡ bỏ khỏi số phận quyển sách, thứ sản phẩm công nghiệp mà nhiều người tuyên bố là đã lỗi thời đó.
Trong số họ, có một người quan trọng, mà loài người phải nợ rất nhiều trong địa hạt truyền thông, như Bill Gates, người sáng lập Microsoft. Cách đây vài tháng, ở Madrid, ngài Gates đã đến Hàn lâm viện Hoàng gia với đó Microsoft tạo cơ sở cho một sự hợp tác mà tôi dám hy vọng sẽ nhiều sức sinh sôi. Giữa nhiều điều khác, ông đã đảm bảo với các thành viên của viện ý định của ông về việc đích thân trông coi sao cho chữ "ñ" sẽ không bao giờ biến mất khỏi những cái máy tính, lời hứa đã khiến bốn trăm triệu người nói tiếng Tây Ban Nha chúng tôi, được phân chia trên năm châu lục, thở phào nhẹ nhõm: sự bỏ đi mất cái chữ then chốt ấy, trong không gian cyber, hẳn sẽ tạo cho chúng tôi những vấn đề xứng danh Babel. Thế nhưng, ngay sau sự nhượng bộ đầy dễ mến ấy trước tiếng Tây Ban Nha, và thậm chí còn chưa rời khỏi Hàn lâm viện Hoàng gia, Bill Gates tuyên bố, trong một cuộc họp báo, rằng ông rất hy vọng mình không chết trước khi có thể hiện thực hóa được dự đồ tham vọng nhất của ông. Dự đồ nào? Kết thúc với giấy và, do đó, với những quyển sách, theo ông là thứ hàng hóa có một sự lệch thời dai dẳng. Màn hình của những cái máy tính, ông Gates giải thích, đủ khả năng thay thế theo lối rất nhiều lợi thế tất tật các chức năng cho tới giờ vẫn được giấy thực hiện, và các thông tin cùng văn chương được truyền qua màn hình thay vì những tờ báo hay những quyển sách hẳn sẽ không chỉ dễ mang đi hơn, chiếm ít chỗ hơn, mà còn bớt tốn kém hơn, và thêm nữa lại có một lợi thế sinh thái học bằng cách chấm dứt việc phá các khu rừng, cái thứ tai ương gây ra bởi ngành công nghiệp giấy, xét theo mọi vẻ bề ngoài. Hẳn người ta sẽ vẫn tiếp tục đọc, tất nhiên, ông nói thêm, nhưng là trên các màn hình, và môi trường của chúng ta nếu vậy sẽ phong phú chất diệp lục hơn.
Tôi đã không có mặt ở đó - tôi biết những chi tiết này qua báo chí - nhưng, nếu mà có, hẳn tôi đã hét to phản đối Bill Gates vì đã tuyên bố tại đó, chẳng biết thẹn thùng là gì, ý định của ông trong việc bắt tôi bị thất nghiệp, cùng biết bao đồng nghiệp của tôi, tác giả của những cuốn sách. Màn hình có thể thay thế quyển sách ở mọi chỗ, như người tạo ra Microsoft nói, không? Tôi không chắc chắn lắm về điều này đâu. Tôi nói điều này mà không hề chối bỏ chút nào cuộc cách mạng khổng lồ đã thực hiện trong địa hạt truyền thông và thông tin bởi phát triển của những kỹ thuật mới, Internet, chẳng hạn, thứ ngày nào cũng mang tới cho tôi một sự trợ giúp vô song trong công việc riêng của mình. Nhưng, từ đó đến chỗ công nhận rằng màn hình điện tử có thể thay thế giấy cho những gì thuộc về các sự đọc văn chương, có một bước mà tôi không sao vượt qua nổi. Hết sức đơn giản tôi chẳng thể nào tự tạo cho mình cái ý theo đó một sự đọc được thực hiện trong một mục đích không hữu dụng hay thực dụng (tức là nhằm tìm kiếm một thông tin hay một sự thông giao có tính hữu ích ngay tức thì) có thể tương thích, trên màn hình một cái máy tính, với giấc mơ và sự nhấm nháp mà các từ tạo ra, và mang lại cảm tri về sự gần gũi, sự tập trung cùng sự cô lập về tinh thần mang tới bởi quyển sách. Có lẽ đó là một định kiến nảy sinh từ sự thiếu thực hành, từ sự đồng hóa đã dài, trong kinh nghiệm của tôi, văn chương với những quyển sách giấy, nhưng, nếu tôi sung sướng surfing trên Internet để tìm tin tức của thế giới, thì không hề nảy ra trong tâm trí tôi chuyện nhờ đến nó để đọc các bài thơ của Góngora, một cuốn tiểu thuyết của Onetti hay một tiểu luận của Octavio Paz, vì tôi biết hết sức rõ rằng hiệu ứng của sự đọc ấy hẳn sẽ không bao giờ giống hệt. Sự biến mất của cuốn sách hẳn sẽ giáng một đòn nghiêm trọng, có lẽ chết người, vào văn chương, tôi tin chắc như vậy, ngay cả khi không thể chứng minh nó. Chắc chắn, cái từ này sẽ không biến mất, nhưng nhiều khả năng nó sẽ được dùng để chỉ một típ văn bản cũng xa với những gì ngày hôm nay chúng ta gọi là văn chương y như các chương trình ti vi đầy ắp những ngồi lê đôi mách về các ngôi sao jet-set hay những reality-show cách xa khỏi các bi kịch của Sophocles hay của Shakespeare.
Một lý do khác để trao cho văn chương một vị trí quan trọng trong cuộc sống của các quốc gia, ấy là, nếu không có nó, tinh thần phê phán, vốn dĩ là động cơ cho thay đổi lịch sử và thứ đảm bảo tốt nhất cho tự do của các dân tộc, hẳn sẽ rơi vào một sự thoái hóa không thể chữa trị. Vì mọi văn chương tốt đều là một sự đặt thành vấn đề hết sức triệt để cái thế giới nơi chúng ta đang sống. Mọi văn bản văn chương lớn, và phần lớn thời gian tác giả chẳng hề biết điều này, chứa một sự sắp đặt từ trước cho nổi loạn.
Văn chương không nói gì với những người nào thỏa mãn với số phận của họ, với những người nào được đầy đủ với cuộc đời mà họ sống. Nó nuôi dưỡng các tinh thần quật khởi, rao giảng sự bất tuân phục và tạo dựng một chỗ trú ẩn trước các sự thiếu hoặc những quá đầy của tồn tại, cho phép không cảm thấy bất hạnh, thiếu đầy đủ hay bị phật ý trong các khao khát của mình. Cưỡi ngựa đi bên cạnh con Rossinate gầy nhom và kỵ sĩ loạn trí của nó băng qua các khoảng rộng của xứ Manca, vượt các biển đuổi theo con cá voi trắng cùng thuyền trưởng Achab, uống thạch tín cùng Emma Bovary hoặc biến thành bọ với Gregor Samsa, đấy là một cách thật diệu mà chúng ta đã tạo ra nhằm đền bù cho mình về những bó buộc và những xâm phạm của cái cuộc đời bất công này, thứ bắt chúng ta lúc nào cũng giống vậy, trong khi chúng ta mong sao mình được nhân lên thật nhiều để thỏa mãn các ham muốn cháy rực nơi chúng ta rơi vào.
Văn chương chỉ khiến bình ổn trong một chốc lát sự thiếu thỏa mãn sống còn kia, nhưng, trong cái quãng mầu nhiệm ấy, sự treo lại tạm thời của cuộc đời ấy, nơi ảo tưởng của văn chương giữ chúng ta - nó dường giật chúng ta ra khỏi lịch đại và lịch sử nhằm biến chúng ta thành những công dân của một tổ quốc phi thời gian, bất tử - chúng ta rất khác. Có cường độ cao hơn, giàu có hơn, phức tạp hơn, hạnh phúc hơn, sáng suốt hơn so với trong sự đều đều bức bối của cuộc sống thực. Lúc, quyển sách đã gập lại, chúng ta rời sự hư cấu của văn chương để tìm lại cái thường nhật và so sánh nó với lãnh thổ rực rỡ mà chúng ta vừa để lại, nỗi thất vọng mới lớn làm sao! Đó là sự nhận ra đầy khủng khiếp rằng cuộc đời được cuốn tiểu thuyết mơ tốt hơn - đẹp hơn và đa dạng hơn, dễ hiểu hơn và hoàn hảo hơn - so với cuộc đời mà chúng ta sống ở trạng thái thức, một cuộc đời chịu quy thuận trước những giới hạn cùng các quỵ lụy của thân phận chúng ta. Trong nghĩa này, văn chương tốt luôn luôn - ngay cả khi không hề muốn vậy và cũng chẳng hề nhận ra như vậy - có tính cách nổi loạn, bất tuân phục, quật khởi: một thách thức với tồn tại. Văn chương cho phép chúng ta sống trong một thế giới mà các luật vi phạm những nguyên tắc không suy suyển của cuộc đời thực chúng ta, nó giải thoát chúng ta khỏi nhà tù không gian và thời gian, dâng tặng sự không bị trừng phạt cho các quá đà của chúng ta và mang lại cho chúng ta một quyền lực tối cao không giới hạn. Làm sao mà lại có thể không cảm thấy bức bối, sau khi đã đọc Chiến tranh và Hòa bình hay Tìm thời gian mất, lúc thấy lại cái thế giới của vô số điều vặt vãnh, đường biên giới cùng lệnh cấm kia, những thứ rình đợi chúng ta từ mọi phía và, ở mỗi bước, làm các ảo tưởng của chúng ta mờ xỉn đi? Chính đó, có lẽ, còn hơn so với đóng góp trong việc duy trì sự liên tục của văn hóa và làm phong phú cho ngôn ngữ, đóng góp tốt đẹp nhất của văn chương cho tiến bộ con người: nhắc cho chúng ta (ở phần lớn các trường hợp không hề định làm thế) rằng thế giới được làm ra thật tệ, rằng những kẻ nào nói điều ngược lại đều nói dối - các kẻ cai trị nó, chẳng hạn - và lẽ ra nó có thể tốt đẹp hơn, gần hơn với những vũ trụ mà trí tưởng tượng của chúng ta và ngôn từ của chúng ta có khả năng chế tạo.
Một xã hội dân chủ và tự do cần các công dân có trách nhiệm và giàu phê phán, có ý thức về sự cần thiết phải thường trực xem xét thế giới nơi chúng ta sống nhằm tìm cách đưa nó lại gần - cái công việc luôn luôn đầy huyễn tưởng - với thế giới nơi chúng ta hẳn muốn sống; nhưng chính là nhờ sự bướng bỉnh của nó cứ khăng khăng đòi đạt đến giấc mơ bất khả xâm nhập đó - cưới thực tại vào các ham muốn - mà văn minh đã ra đời và đã tiến lên, dẫn con người quật ngã nhiều - không phải tất tật, dĩ nhiên - con quỷ từng quấy anh ta. Không có thứ men tạo sự không thỏa mãn khi đối mặt với cái thực đang tồn tại nào tốt hơn văn chương. Để tạo ra các công dân nhiều phê phán và độc lập, khó lòng giật dây, lúc nào cũng được huy động trên bình diện tinh thần và trí tưởng tượng luôn luôn tỉnh, chẳng gì sánh được với những sự đọc tốt.
Nói vậy thôi, việc cho rằng văn chương nhiều tính cách nổi loạn vì những hư cấu đẹp phát triển ở các độc giả của chúng một ý thức tỉnh về phần những gì thiếu hoàn hảo của thế giới thực hiển nhiên không đồng nghĩa, như các Nhà thờ cùng các chính phủ lập dựng sự kiểm duyệt nhằm làm giảm bớt hay hủy bỏ sức mạnh lật đổ của chúng nghĩ, rằng các văn bản văn chương gây ra những cú nổ xã hội ngay tức thì hoặc đẩy nhanh các cuộc cách mạng. Ở đây chúng ta đang bước vào một mảnh đất trơn, đầy chủ quan, nơi sẽ là phù hợp nếu đi thật thận trọng. Các hiệu ứng xã hội-chính trị của một bài thơ, một vở kịch hay một cuốn tiểu thuyết là không thể kiểm tra, bởi gần như chẳng bao giờ chúng vang lên trên tập thể mà là trên cá nhân, điều này muốn nói là chúng thay đổi rất nhiều từ người này sang người khác. Do vậy sẽ rất khó, nếu không muốn nói là không thể, lập ra những quy tắc cụ thể. Ngoài ra, những hiệu ứng đó, khi tác động của chúng là hiển nhiên đối với tập thể, thường chẳng có mấy điều gì chung với chất lượng cảm năng của văn bản tạo ra chúng. Đấy là trường hợp, chẳng hạn, của một cuốn tiểu thuyết tầm thường, Túp lều bác Tom, của Harriet Elizabeth Beecher-Stowe, cuốn sách từng đóng, dường như vậy, một vai trò thuộc vào hàng quan trọng hơn cả tại Mỹ trong sự thức nhận xã hội về các nỗi kinh hoàng của chế độ nô lệ. Nhưng việc những hiệu ứng ấy khó xác định rõ được không đồng nghĩa với chúng không tồn tại. Nói đúng hơn, chúng được biểu lộ, theo lối gián tiếp và nhiều vô số, xuyên qua các hành xử cùng các hành động của những công dân mà các cuốn sách đã góp phần khuôn định nên nhân cách.
Văn chương tốt, cùng lúc với việc nó giảm nhẹ trong giây lát nỗi thiếu thỏa mãn của con người, làm tăng nó lên và, bằng cách phát triển một sự nhạy cảm nhiều phê phán không theo thời trước cuộc đời, làm cho các con người trở nên giỏi thích ứng với bất hạnh hơn. Sống trong cảnh thiếu thỏa mãn, nhấm nhẳng với tồn tại, đó là cứ đi tìm cái không thể có và nghịch với lửa, tự kết án mình, theo cách nào đó, phải tiến hành cùng các trận chiến như đại tá Aureliano Buendía, trong Trăm năm cô đơn, dẫu biết rằng mình sẽ thua tất tật chúng. Điều này có khả năng đúng, nhưng cũng không kém đúng là, nếu không có sự thiếu thỏa mãn và sự nổi loạn chống lại cuộc đời tầm thường và nhơ bẩn, thì chúng ta, những con người, hẳn vẫn sống trong một tình trạng nguyên thủy, lịch sử hẳn đã dừng lại, cá nhân hẳn sẽ chẳng bao giờ được sinh ra, khoa học và công nghệ hẳn sẽ không phát triển, các quyền con người hẳn sẽ không được công nhận và tự do hẳn không tồn tại, bởi toàn bộ những thứ đó chỉ có thể ra đời khởi đi từ các thể động bất tuân phục chống lại một cuộc đời được tri nhận như là không đủ và không thể dung thứ nổi. Đối với một tinh thần từ chối cuộc đời như nó vốn dĩ, và tìm cách, với sự loạn trí của một Alonso Quijano, mà sự điên, chúng ta hãy nhớ lại điều này, nảy sinh từ việc đọc những cuốn tiểu thuyết hiệp sĩ, vật chất hóa giấc mơ cùng sự bất khả, văn chương đã cung cấp một thứ chất đốt phi thường.
Chúng ta hãy thực hiện một nỗ lực thật lớn, tái dựng lịch sử, và tưởng tượng ra một thế giới không có văn chương, một loài người không đọc cả các bài thơ lẫn những cuốn tiểu thuyết. Tại văn minh không chữ viết ấy, với tự vị nhỏ xíu, nơi chắc hẳn những gầm gừ cùng điệu bộ giống khỉ chiếm thế thượng phong so với các từ, hẳn người ta sẽ không tìm được một số tình từ được hình thành phát xuất từ những sáng tạo văn chương: quichottesque, kafkaesque, pantagruélique, rocambolesque, orwellian, sadique và masochist, đấy là mới chỉ kể một số. Hẳn sẽ có những người điên, các nạn nhân của chứng paranoid và điên loạn sợ bị hành hạ, và những người có sự háu ăn vô độ và có các quá đà khủng khiếp và, chắc chắn, những thể loại đi hai chân thích được nhận hoặc cho đi sự đau đớn. Nhưng hẳn chúng ta sẽ không học được cách nhìn thấy đằng sau những hành xử quá đà đó, vốn dĩ trái ngược với cái được cho là sự bình thường, những khía cạnh cốt yếu của thân phận con người, tức là của chính chúng ta, một cái gì đó mà chỉ tài năng sáng tạo của Cervantes, của Kafka, của Rabelais, của Sade hay của Sacher-Masoch từng hé lộ cho chúng ta. Khi Quijote được in, những độc giả đầu tiên chế nhạo cái kẻ mơ mộng kỳ quái đó, thật giống những nhân vật tiểu thuyết khác. Giờ đây chúng ta biết rằng sự bướng bỉnh của chàng Hiệp Sĩ Mặt Buồn trong việc nom thấy lũ khổng lồ ở nơi có các cối xay gió và trong việc cứ không thôi làm đủ mọi chuyện kỳ quặc trình hiện hình thức cao nhất của sự hào phóng, một cách thức nhằm phản đối các bần cùng của thế giới này và tìm cách thay đổi nó. Ngay cả ý niệm lý tưởng và lý tưởng luận, vốn dĩ thấm đẫm giá trị luân lý tốt, hẳn sẽ không phải là những gì chúng vốn dĩ - các giá trị ngời sáng và đáng kính - nếu chúng không được hiện thân nơi cái nhân vật tiểu thuyết ấy với sức mạnh thuyết phục mà thiên tài của Cervantes đã trao cho chúng. Và hẳn người ta sẽ có thể nói cùng điều đó về Quijote nhỏ bé đầy thực dụng và mặc váy, Emma Bovary - chắc chắn, bovarysme cũng sẽ không tồn tại - người cũng nồng nhiệt vật lộn để sống cuộc đời của rực rỡ, của say mê và của xa xỉ kia, mà nàng đã biết đến qua những cuốn tiểu thuyết, và bị thiêu cháy trong đống lửa ấy như con bướm bay lại quá gần ngọn lửa.
Giống những chế tác của Cervantes và của Flaubert, các chế tác của tất tật những nhà sáng tạo văn chương lớn, cùng lúc với việc chúng giật chúng ta ra khỏi nhà tù thực tại luận của chúng ta và dẫn chúng ta đi, đưa chúng ta dạo chơi ở các vũ trụ tưởng tượng, mở mắt cho chúng ta trước những khía cạnh chưa được biết tới và bí mật nơi thân phận của chúng ta, và trang bị vũ khí cho chúng ta hòng khám phá và hiểu hơn những vực thẳm của con người. Nói "borgian" là ngay lập tức tách đi khỏi thực tại lý tính đều đều và xâm nhập một xây dựng thuộc tâm trí huyền ảo, chặt chẽ và thanh lịch, gần như lúc nào cũng có tính cách mê cung, đẫm các quy chiếu cùng ám chỉ sách vở, mà sự dị thường thế nhưng lại không xa lạ với chúng ta, bởi chúng ta nhận ra ở đó những khao khát bị che giấu cùng những sự thật thiết thân của nhân cách chúng ta, những gì đã chỉ thành hình được nhờ các sáng tạo văn chương của một Jorge Luis Borges. Tính từ kafkaesque lẽ dĩ nhiên nảy ra trong tâm trí chúng ta, như lóe sáng của một cái máy ảnh xưa cũ ấy, mỗi lần nào chúng ta cảm thấy mình bị đe dọa, ở tư cách những cá nhân bị tước mất vũ khí, bởi các thứ máy móc nhiều áp bức và đầy sức tàn phá kia, chúng đã gây ra tại thế giới hiện đại biết bao nhiêu đau đớn, sách nhiễu và bất công: những chế độ hống hách, các đảng tổ chức theo chiều thẳng đứng, những Nhà thờ thiếu khoan dung, các nền quan liêu gây ngạt thở. Nếu không có những câu chuyện cùng những cuốn tiểu thuyết của cái người Do Thái sống ở Praha bị hành hạ ấy, người viết bằng tiếng Đức và lúc nào cũng sống trong cảnh hoảng hốt, hẳn chúng ta sẽ không có khả năng tri nhận một cách sáng suốt đến như chúng ta có thể, ngày hôm nay, cảm giác về sự yếu ớt và nỗi bất lực của cá nhân đơn lẻ, hoặc các thiểu số người bị đẩy ra ngoài lề và bị đuổi đi, đối diện với những quyền lực rất hùng mạnh có thể nghiền họ thành bụi và xóa bỏ họ đi mà thậm chí đám đao phủ còn chẳng cần phải thò mặt ra.
Tính từ "orwellian", người anh em họ gần của "kafkaesque", gợi ra nỗi hoảng sợ đầy áp bức cùng cảm tri về sự phi lý cực điểm mà các nền độc tài toàn trị của thế kỷ 20 sinh ra, những nền độc tài tinh xảo, tàn nhẫn và tuyệt đối nhất trong lịch sử, ở sự kiểm soát các thể động, các tâm lý và thậm chí các giấc mơ nơi những thành viên của một xã hội, của chúng. Trong hai cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của mình, Trại súc vật và 1984, George Orwell đã miêu tả, bằng các sắc lạnh giá và đầy ác mộng, một loài người quy phục trước sự kiểm soát của Big Brother, một ông chủ tuyệt đối, kẻ, nhờ sự kết hợp đầy hiệu quả giữa kinh hoàng và công nghệ hiện đại, đã loại bỏ tự do, sự bộc phát cùng bình đẳng - tại thế giới đó một số người "bình đẳng hơn những kẻ khác" - và biến xã hội thành một cái tổ toàn những ô tô mát người, được lập trình ở mọi điểm như lũ robot. Các hành xử không phải là những thứ duy nhất nghe lời các cách nhìn của quyền lực; cả ngôn ngữ cũng thế, Newspeak, đã bị trút bỏ khỏi mọi sự tô điểm cá nhân luận, khỏi mọi sáng tạo và sắc thái chủ quan, bị biến thành một chuỗi những sáo ngữ cùng cliché vô nhân xưng có tác dụng là củng cố sự nô lệ của các cá nhân trước hệ thống. Nhưng có còn nghĩa gì không nếu nhắc đến các cá nhân, khi mà đó là những sinh thể không cả tự trị lẫn cuộc đời riêng, những thành viên của một đàn bị giật dây từ khi còn trong nôi cho tới lúc nằm trong mộ bởi quyền lực của cơn ác mộng orwellian? Quả đúng là lời tiên tri hắc ám của 1984 đã không được vật chất hóa trong lịch sử thực, và nữa, như chuyện tương tự đã xảy đến với nền toàn trị phát xít và nazi, chế độ cộng sản đã biến mất khỏi Liên Xô, rồi bắt đầu suy yếu tại Trung Quốc và ở những nơi thật lệch thời như Cuba hay Bắc Triều Tiên. Nhưng danh xưng "orwellian" vẫn ở đó, có hiệu lực, nhằm nhắc chúng ta về một trong các kinh nghiệm chính trị-xã hội nhiều sức tàn phá hơn cả mà văn minh từng gánh chịu, mà những tiểu thuyết cùng tiểu luận của George Orwell đã giúp chúng ta hiểu ở các cơ thế bị giấu đi của nó.
Từ đó mà nảy sinh chuyện, sự phi thực và các dối trá của văn chương cũng là một sự chuyên chở quý giá cho hiểu biết về các sự thật sâu sắc của thực tại con người. Những sự thật ấy không phải lúc nào cũng mơn trớn; đôi khi khuôn mặt được họa ra trong tấm gương mà các tiểu thuyết cùng bài thơ bày ra cho chúng ta về chính chúng ta là mặt của một con quái vật. Chuyện là như vậy khi đọc những cuộc chém giết tình dục đáng kinh hãi được tưởng tượng ra bởi hầu tước thần thánh, hoặc những cắt gọt và hiến sinh u tối có đầy trong những cuốn sách bị nguyền rủa của một Sacher-Masoch hay một Bataille. Cảnh tượng thỉnh thoảng nhiều gây hấn đến độ nó trở nên không thể chịu đựng được. Và thế nhưng điều tồi tệ nhất, ở những trang đó, chẳng có gì chung với máu, sự nhục nhã và các tra tấn xấu xa cùng những quặn thắt khiến chúng lên cơn sốt; điều tồi tệ nhất, ấy là khám phá ra rằng bạo lực đó và sự vô chừng mực đó không xa lạ đối với chúng ta, rằng chúng chất đầy tính người, rằng các quái vật hau háu sự xâm phạm và quá đà kia ẩn núp ở nơi thiết thân hơn cả của con người chúng ta và, từ đáy sâu bóng tối của mình, chúng chỉ đợi dịp để hiện ra, áp đặt luật của chúng về các ham muốn thả hoang, bằng cách ấy đổ hồi chuông cho lý tính, cho sự tồn tại cùng nhau, thậm chí là cho tồn tại. Chính văn chương, chứ không phải khoa học, mới là thứ đã, lần đầu tiên, lục lọi những vực thẳm của hiện tượng con người và khám phá tiềm năng hủy diệt và tự hủy diệt đáng kinh hãi mà nó chứa đựng. Như vậy tức là, một thế giới không có văn chương hẳn sẽ bị mù một phần về các đáy khủng khiếp đó, nơi thường có những động lực cho các hành xử và cư xử kỳ quái và, do vậy, cũng bất công với người nào khác biệt hệt như các xã hội từng, trong một quá khứ chưa mấy xa xôi, nghĩ rằng những người thuận tay trái, những người mũi khoằm hay những người nói lắp bị quỷ ám, và hẳn vẫn còn thực hành, có lẽ, như mới gần đây thôi một số bộ lạc ở Amazonia, cái việc tàn khốc là dìm xuống sông những đứa trẻ sơ sinh mang các khiếm khuyết về thể chất.
Man rợ và thô lậu, thiếu mất đi sự nhạy cảm và kém về lời lẽ, vô tri và thô thiển, khép kín lại trước niềm say mê và dục tình, thế giới không văn chương trong ác mộng mà tôi đang thử phác họa hẳn chủ yếu sẽ được đặc trưng hóa bởi sự theo thời, sự quy thuận phổ biến của những con người trước trật tự đã thiết lập. Cũng trong nghĩa ấy, hẳn đó cũng sẽ là một thế giới thú vật. Các bản năng nền tảng hẳn sẽ quyết định những thói quen đều đặn hằng ngày của một cuộc sống bị đánh dấu bởi sự tranh đấu nhằm sống sót, nỗi sợ cái chưa biết, sự thỏa mãn các nhu cầu thuộc thể chất, chẳng hề có chỗ cho tinh thần và nơi sự đơn điệu đầy o ép của sống hẳn sẽ được đi kèm, giống một cái bóng hắc ám, bởi sự bi quan, bởi ấn tượng theo đó cuộc sống của con người là những gì nó phải thế, rằng nó sẽ mãi mãi như vậy, và sẽ chẳng ai có thể làm gì ở đây.
Tưởng tượng ra một vũ trụ như thế, người ta thấy bị cám dỗ ngay lập tức đồng hóa nó với thế giới nguyên thủy và hoang dã, với các cộng đồng ma thuật-tôn giáo nhỏ sống bên lề sự hiện đại ở Mỹ Latin, ở Oceania và ở châu Phi. Sự thật là phát triển phi thường của các phương tiện nghe nhìn vào thời chúng ta, thứ, một mặt, đã cách mạng hóa truyền thông bằng cách làm cho tất tật chúng ta, đàn ông và phụ nữ trên hành tinh, tham gia thời sự và, mặt khác, càng ngày càng độc quyền hóa thời gian mà những người sống dành cho sự rảnh rỗi và giải trí mà không đọc, cho phép hình dung, sẽ sớm thôi, một xã hội vô cùng hiện đại, tua tủa máy tính, màn hình và vòng rào, và không có sách, hoặc, nếu muốn nói hay hơn, nơi sách - văn chương hẳn sẽ giành được vị thế của giả kim thuật vào kỷ nguyên của vật lý: một sự kỳ quặc lệch thời, được thực hành tại các hầm mộ của văn minh médiatique bởi những thiểu số loạn óc. Thế giới cyber này, tôi e là vậy, mặc cho sự phồn thịnh và quyền năng của nó, những mức sống cao cùng các thiện xảo khoa học của nó, hẳn sẽ không có tinh thần, phi-văn minh và đờ đẫn một cách sâu sắc, loài người nhẫn nhục gồm các robot đã thoái vị khỏi tự do của mình.
Chắc chắn, còn hơn mức không thể, việc viễn cảnh đen tối ấy có bao giờ được hiện thực hóa. Lịch sử còn chưa được viết, không có số phận được định trước nào quyết định hộ chúng ta về việc chúng ta sẽ trở thành cái gì. Hoàn toàn phụ thuộc vào viễn kiến của chúng ta và ý chí của chúng ta, việc cái phi lai chết chóc kia được hiện thực hóa hay tan biến đi. Nếu chúng ta muốn tránh việc cùng chuyện văn chương biến mất, hay bị đẩy vào phòng áp mái chuyên chứa những thứ vô tích sự, cũng biến mất nguồn tỏa ra trí tưởng tượng và nỗi thiếu thỏa mãn kia, thứ làm sự nhạy cảm của chúng ta trở nên tinh xảo và dạy chúng ta nói năng chặt chẽ và hùng biện, và khiến chúng ta được tự do hơn, và cuộc đời chúng ta phong phú hơn và có cường độ cao hơn, thì cần phải hành động. Cần phải đọc những cuốn sách hay, dạy việc đọc cho những ai ở gần chúng ta - trong gia đình và ở lớp, trên các phương tiện truyền thông và ở tất tật những chốn của cuộc sống thông thường - và thúc đẩy đến với sự đọc, như là đến một hoạt động không thể thiếu, thứ thấm đẫm vào mọi hoạt động khác và làm chúng phong phú hơn.
Huỳnh Bất Thức dịch
Biện hộ nhỏ cho kinh nghiệm cảm năng