Marilynne Robinson: Khi là một đứa trẻ, tôi đọc sách
Tiếp tục chuỗi bài về đọc, và cũng tiếp tục cuộc đi vào nước Mỹ ấy (kỳ mới nhất ở kia), lần này không phải bờ Đông mà là miền Tây - nhưng không phải là bờ Tây. Marilynne Robinson sinh ra ở Idaho, học đại học ở bờ Đông, lấy bằng tiến sĩ văn chương khi mới hơn ba mươi tuổi và bắt đầu viết văn khá muộn, trong khi vẫn duy trì việc giảng dạy và nghiên cứu. Sau cuốn tiểu thuyết thứ nhất, Housekeeping (1980), Robinson chờ hai tư năm mới cho xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ hai, Gilead (giành giải Pulitzer và National Book Critics Circle Award năm 2005), cả hai đều quay lại với cuộc sống miền Tây mà Robinson yêu quý. Ngoài tiểu thuyết, Robinson còn viết nhiều phê bình trên báo. Tiểu luận dưới đây rút ra từ cuốn sách cùng tên, xuất bản năm 2012.
Khi là một đứa trẻ, tôi đọc sách
- Marilynne Robinson
Khi là một đứa trẻ, tôi đọc sách. Tôi không đọc một cách tùy tiện. Tôi thích những cuốn sách cũ, dày và khó. Tôi thường lập danh sách từ vựng. Đáng ngạc nhiên là tôi cũng có bạn bè, một số người trong đó còn đọc nhiều hơn tôi. Tôi biết khá nhiều về Constantinople, về cách mạng Cromwell và tinh thần hiệp sĩ. Những điều này hầu như chẳng liên quan gì đến kinh nghiệm cuộc sống của tôi, nhưng các kệ sách ở bắc Idaho trĩu nặng những cuốn sách cũ kỹ âm u mà tôi thèm muốn, nên hẳn tôi chẳng phải là người duy nhất có niềm ham thích ấy.
Liên quan hay không, với tôi hoàn toàn không phải vấn đề. Tôi đi Galilee để tìm nghĩa và đi Spokane để chỉnh nha; ngoài đó ra, tôi thấy thế giới mình đang sống hoàn toàn đầy đủ.
Hẳn kỳ lạ khi bắt đầu một bài nói về miền Tây bằng những cuốn sách cũ kỹ chẳng hề liên quan đến miền Tây, bằng tưởng tượng ngây ngô về những thế giới khô khan, đầy uy quyền, chỉ đáp lại những hình dung đang nhen nhóm của một đứa trẻ về ý nghĩa và tầm quan trọng. Nhưng tôi nghĩ cảm giác không gắn bó cụ thể với bất kỳ quá khứ hay lịch sử nào, kinh nghiệm cái điều thường bị bỉ bôi là “mất gốc”, chiêm ngưỡng tự do và trân trọng bất cứ điều gì mình nhìn thấy mà không cần lý đến những phán xét tẻ nhạt như chuyện nó là “của mình” hay “không phải của mình” thực ra là điều đặc biệt miền Tây.
Hai mươi năm qua, tôi nhận ra rằng chuyện khó khăn nhất trên đời - có lẽ bất khả - là thuyết phục những người bờ Đông rằng lớn lên ở miền Tây không làm con người bị thui chột về trí tuệ. Khi biết tôi đến từ Idaho, không ít người đã hỏi: “Thế làm sao cô viết sách được?”
Đôi lần, khi cảm thấy cạn kiệt hay lười biếng, tôi đáp gọn: “Tôi học ở Brown,” nghĩ rằng điều đó có thể làm họ hài lòng - chỉ để nhận thêm câu hỏi: “Thế làm sao cô vào được Brown?” Một phụ nữ, khi biết nguồn gốc của tôi, đã nói: “Nhưng hẳn phải có tài năng ẩn đâu đó trong gia đình chứ.”
Theo một cách nào đó, Housekeeping [tiểu thuyết đầu tay của Robinson] biểu trưng cho văn hóa trí tuệ tuổi thơ tôi. Tôi muốn chỉ đưa vào đó những chuyện mà người kể chuyện, Ruth, sẽ biết nếu cô ấy là tôi ở cùng độ tuổi. Những hình ảnh kinh điển, như chuyện Carthage bị rải muối hay chuyện gieo răng rồng làm sinh ra một toán lính mà Ruthie xâu chuỗi lại đều xuất hiện trong sách giáo khoa tiếng Latin mà chúng tôi học ở trường Coeur d’Alene. Chính anh trai tôi, David, đã vác từ trường về nhà cái ý rằng Chúa là một hình cầu có tâm ở khắp mọi nơi và chu vi thì không đâu hết. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc hỏi anh ấy đọc điều đó ở đâu. Emily Dickinson và Kinh Thánh thì, may mắn thay, là những cuộc đọc không thể nào tránh được.
Trong Housekeeping không có nhiều tham chiếu đến các nguồn khác ngoài những mẩu như vậy, dù đây là một cuốn sách nối lại nhiều câu chuyện, bởi người kể chuyện phải vận mọi nguồn lực mình có để cố hiểu thế giới. Cô dùng những gì mình biết như dùng mắt và tay. Cô chiếm lấy tàn tích Carthage để phục vụ cho tưởng tượng của riêng mình. Những câu chuyện mà thầy cô rót vào tôi hẳn có vai trò tương tự.
Xã hội Idaho thời đó dường như thiếu ý thức về tầng lớp xã hội, thứ ở những nơi khác biến văn hóa thành một hệ thống ký hiệu và mật mã, phần lớn chỉ có vai trò xác định nhóm này hay nhóm kia. Tôi nghĩ chính sự thờ ơ với những mã hiệu này ở người miền Tây khiến người bờ Đông cho rằng họ không có văn hóa. Khác biệt dĩ nhiên chỉ là tương đối, và ở bất cứ nơi nào may mắn thoát khỏi những ngớ ngẩn rồ dại của con người, chúng ta cũng phải thấy rằng thời gian chẳng còn nhiều, và sự miễn nhiễm ấy sẽ sớm mất thôi.
Như một phần của đời sống trí tuệ thời thơ ấu, khi là một con mọt sách ở miền Tây xa xôi, tôi đã được trao những mảnh rời - Dido đau khổ trên chiếc giường rực lửa, Lewis và Clark vẽ bản đồ hoang dã - chẳng mảnh nào được tách hẳn ra như một cái gì cần chú tâm đặc biệt. Chúng tôi chỉ đơn giản được trao những mảnh ấy với sự đảm bảo rằng chúng có giá trị và quan trọng, dù không theo cách nào cụ thể. Tôi hình dung một thợ lặn ngọc trai tìm thấy một bức tượng dưới đáy Địa Trung Hải, miễn nhiễm trước sức ép của độ sâu dù nửa thân bị vùi trong cát, xanh xao vì lạnh, tảo biển bám đầy, đôi mắt trống rỗng ngỡ ngàng, đôi môi hé mở như muốn thốt lên một âm thanh bằng ngôn ngữ đã thất lạc, bàn tay giơ lên hướng về một thành phố từ lâu đã chẳng còn, mà không ai thèm vờ nhớ tới.
Người thợ lặn có thể xót thương khi tìm thấy một thứ quá đỗi con người ở một nơi lạnh lẽo dường ấy. Có lẽ anh ta được đặc quyền nhận rõ nó hơn bất kỳ ai trong thế giới đang sống, dù anh ta còn chưa từng nghe tên Phidias hay Myron. Những điều chúng tôi học cũng giống vậy: tất cả đơn giản được trao cho chúng tôi, để chúng tôi tự rút ý nghĩa ra từ chúng.
Ẩn dụ mở rộng này nảy ra nhờ bà Bloomsburg, giáo viên dạy Latin ở trường trung học của tôi, người đã dẫn năm hay sáu chúng tôi qua các tác phẩm của Horace và Virgil và dạy chúng tôi kiên nhẫn với thứ cấu trúc kỳ lạ gọi là so sánh hoành tráng (epic simile). Dạng so sánh cái vĩ đại với cái nhỏ bé này xuất hiện khá thường xuyên trong văn phong của tôi - tất nhiên đã được điều chỉnh cho mục đích riêng. Cũng chính bà Bloomsburg đã đưa chúng tôi vượt qua những câu dài bất tận của Cicero, các mệnh đề chồng lên mệnh đề, toàn bộ cấu trúc như được đỡ bằng những động từ giả định (subjunctives), nặng nề với sự mỉa mai đỉnh điểm. Tất cả những điều đó hoàn toàn vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng tôi. Chúng tôi chán nản nhưng vẫn kiên trì. Và cuối cùng, tôi nghĩ bất kỳ ai cũng có thể nhận ra rằng phong cách của tôi chịu ảnh hưởng từ Cicero nhiều hơn là từ Hemingway.
Tôi ngưỡng mộ Hemingway. Thật khôi hài khi Cicero, chứ không phải ai khác, lại là người mà tôi phải cự lại ảnh hưởng. Chuyện như vậy là vì tôi đã được giáo dục vào một thời điểm nhất định, tại một nơi nhất định. Khi đi học đại học ở New England, tôi nhận ra rằng chỉ có tôi và một vài cậu bạn được các thầy Dòng Tên đào tạo là chia sẻ những lợi thế kỳ lạ này. Khi trao chúng cho Ruth, tôi đã dùng cô để ghi lại văn hóa trí tuệ của miền Tây mà tôi từng kinh nghiệm.
Những đặc thù trong sự giáo dục thời thơ ấu chỉ là một trong những cái khác của việc lớn lên ở miền Tây. Một người đàn ông ở Alabama từng hỏi tôi cảm nhận miền Tây khác miền Đông và miền Nam ra sao, và tôi trả lời rằng ở miền Tây, “cô lẻ” là một từ tích cực. Tôi chắc chắn rằng lúc đó mình đã nói hay hơn, bởi cả anh ta và tôi đều cảm thấy nhận xét này rất đúng, và người Alabama - vốn nhạy cảm với ngôn ngữ - chắc chắn sẽ không hài lòng với một từ mơ hồ như “tích cực”. Nhưng tạm thời cứ để như vậy đã.
Tôi nhớ khi còn nhỏ, ở Coolin, Sagle hay Talache, tôi đã đi một mình vào rừng và cảm nhận sự tĩnh lặng xung quanh nhói lên như dòng điện, chạy qua cơ thể tôi với một cú giật làm tóc tôi dựng đứng. Tôi nhớ đã quỳ bên dòng suối chảy qua những tảng đá và cây đổ, nơi những mầm cây nhỏ bé và dịu dàng không sao tả xiết đã bắt đầu mọc lên từ những thân mục nát và nghĩ rằng: ở đây chỉ có một điều sai, đó là hiện diện của tôi, và đó cũng là sự xâm phạm nhỏ bé nhất có thể hình dung - cảm giác rằng sự nỗi cô lẻ của tôi khiến tôi gần như trở nên chấp nhận được ở một chốn linh thiêng đến thế.
Tôi nhớ những buổi chiều trong trang trại ông bà tôi ở Sagle, ban ngày chúng tôi đuổi theo những con mèo trong kho, đu đưa trên cánh cổng, gây những vụ lở tuyết bầm dập từ đống củi rồi nhìn bà tôi rải thức ăn cho gà từ chiếc tạp dề với những túi to, chịu đựng cảm giác thỏa mãn đầy mâu thuẫn của lũ trẻ thị thành khi được đưa về quê. Rồi lũ bò về chuồng, gió nổi lên, sao Kim rực cháy xuyên qua lớp khí mỏng manh và bóng tối cùng sự trống trải trùm lên ngôi nhà cũ kỹ như một mặc khải chẳng hề trông đợi.
Có lẽ chính vào một tối như thế, tôi đã nghe từ “cô lẻ” được thốt lên với giọng điệu khiến tôi hiểu rõ đặc quyền gắn với nó, một loại đặc quyền hết sức dân chủ, xuất phát từ sự xứng đáng giản dị. Tôi nghĩ rằng thật đúng khi nhìn nhận miền Tây như một khoảnh khắc trong dòng lịch sử lớn hơn nó rất nhiều. Ông bà tôi, giống những người như họ, thường treo một bức tranh trong nhà, bức tranh vẽ một con hươu đứng trên vách đá, ngắm nhìn mặt trăng sáng rực hoặc một thiếu nữ trong trang phục cổ điển đứng trên cùng vách đá đó, cũng đang ngắm mặt trăng. Đó là một mẫu vật của phong cách Victorian đã suy tàn. Vào thời ấy, tang thương, u sầu, nuối tiếc và cô quạnh được coi là những tình cảm cao quý, giống như trong các bài thánh vịnh, các vở kịch của Sophocles, những bài thơ Anglo-Saxon và cả Shakespeare.
Trong văn hóa hiện đại, những tình cảm này thường bị xem là bệnh - là xa cách xã hội và thiếu chân thực ở châu Âu, là kém thích nghi và trầm cảm ở Mỹ. Hiện tại, chúng dường như chỉ tồn tại trong các hình thức bình dân, chẳng hạn trong nhạc đồng quê Mỹ. Mặt trăng đã khuất sau mây, và tôi lẻ loi đến mức có thể chết đi.
Theo tôi, trong những giới hạn mà thời Victoria thường xuyên phá vỡ, việc tìm kiếm phẩm chất đáng quý trong những kinh nghiệm sầu muộn hay khiếp hãi lại là một chuyện rất tốt và có tác dụng ổn định tinh thần. Tôi vô cùng biết ơn rằng, bằng cách nào đó, tôi đã học được cách tìm thấy trong sự cô lẻ một niềm vui của tinh thần được làm cho bén nhạy và sáng rõ thêm, rằng cô lẻ còn gắn kết con người hơn mọi sự gần gũi vá víu. Có thể đó chỉ là kết quả của lịch sử, nhưng ngay khi tôi thấy một người đàn ông hay phụ nữ đứng một mình, họ liền hiện lên đầy bí ẩn với tôi, và trong khoảnh khắc ấy, tôi thấy thật rõ ràng một con người khác.
Tôi đang ca ngợi tinh thần cá nhân vốn gắn liền với huyền thoại miền Tây và nước Mỹ. Khi ca ngợi điều gì, tôi luôn đi từ giả định rằng những phân biệt mà chúng ta có trong thế giới này không phải là giữa cái tốt và cái xấu, mà là giữa cái xấu và cái xấu hơn. Những cộng đồng gắn kết chặt chẽ, nơi các thành viên dựa vào nhau để xác định bản thân, ý nghĩa và giá trị, thường què quặt và nguy hiểm, dẫu bề ngoài có bóng bẩy đến thế nào. Đối lập thường được đặt ra giữa chủ nghĩa cá nhân và trách nhiệm xã hội là một đối lập giả tạo, như tất cả chúng ta đều biết.
Những ai biết nhìn mọi thứ từ khoảng cách sẽ không bao giờ được hiểu đủ.
Nhưng các lập luận dựa trên tính hữu dụng không bao giờ đúc ra được tinh thần cá nhân chân chính. Sự tôn thờ cá nhân thuộc về cảm năng cái đẹp và tôn giáo. Ý nghĩa của mỗi số phận con người là tuyệt đối và bình đẳng. Những chuyển động của lương tâm, hoài nghi, chấp nhận, phản kháng là những điều thiêng liêng và không thể hiểu thấu. Trong chừng mực những ý này có thể chứng minh, tôi đã chứng minh được nó theo cách hoàn toàn thỏa mãn mình. Nhưng tất nhiên, chứng minh làm sao được.
Chỉ sự cô lẻ mới cho phép ta kinh nghiệm loại đơn độc tận gốc rễ này - phẩm giá và đặc quyền lớn nhất của mỗi người. Hiểu được điều này là hiểu được thơ thiêng của xa lạ, lặng im và cái khác. Hình thức bình dân của ý này chính là người anh hùng miền Tây, người mà ta chẳng bao giờ thực sự xuyên thấu được.
Vòng vèo như thế, tôi đã chạm đến câu hỏi về biên cương khai phá - mà theo tôi không phải là một địa điểm, một vật, một thời điểm hay một điều kiện lịch sử. Ở mức đơn giản nhất, nó là cuộc di chuyển của những người có nguồn gốc châu Âu vào một phần thế giới mà họ không có quyền hiện diện. Đến giữa thế kỷ XIX, đó đã là chuyện cũ. Điều tương tự đã xảy ra trên mọi lục địa, ngoại trừ Nam Cực.
Trong bối cảnh ấy, tốt nhất là tôi nhắc lại giả định chủ đạo của mình: lịch sử là biện chứng giữa cái xấu và cái xấu hơn. Lịch sử của văn minh châu Âu so với phần còn lại của thế giới, từ thế kỷ XV đến hiện tại, toàn những sự đáng kinh ngạc và khủng khiếp. Những khía cạnh tồi tệ nhất của quá trình khai phá và lập cư không phải là đặc thù của miền Tây nước Mỹ, nhưng một số khía cạnh tốt đẹp hơn có lẽ lại là di sản của nơi này. Một mặt, việc lập cư chủ yếu được thực hiện bởi các nhóm người tự chọn, những người hình dung sự bắt rễ lâu dài trên mảnh đất mà họ, với tư cách cá nhân hoặc cộng đồng, sẽ hoàn toàn sở hữu. Những thuộc địa tội phạm, thuộc địa bần cùng, hay những cuộc tàn phá đất đai đã làm cho lịch sử nhiều vùng thuộc địa trở nên tan tác ít xuất hiện ở đây. Ngược lại, có một xung lực phi lai (utopian) - hy vọng tạo ra một mô hình về trật tự loài người tốt đẹp - dường như đã đến cùng tàu Mayflower và phát triển mạnh mẽ xuyên suốt thế kỷ XIX. Theo các tiêu chuẩn áp dụng cho những sự kiện thuộc loại này, quá trình lập cư miền Tây có một nội dung tích cực rõ ràng.
Mấy năm gần đây, tôi đã nghiên cứu khá kỹ các bài viết thế kỷ XIX về những vấn đề xã hội và chính trị của nước Mỹ. Việc miền Tây có được khai phá hay không rõ ràng không đặt ra câu hỏi. Câu hỏi là bằng cách nào và bởi ai. Theo tôi, Đạo luật Trang trại gia đình (Homestead Act) đã được thiết kế nhằm củng cố chiến thắng của miền Bắc trong cuộc Nội chiến, bằng cách thiết lập một nền kinh tế dựa trên các trang trại nhỏ của các hộ gia đình, giống mô hình phổ biến ở miền Bắc, thay vì mô hình đồn điền ở miền Nam.
Nông nghiệp Anh rất gần với kiểu canh tác được thực hiện ở miền Nam nước Mỹ, chỉ khác là người lao động Anh, dù nghèo khổ đến kiệt cùng, trên danh nghĩa vẫn không phải là nô lệ hay tài sản của kẻ khác. Khi cố gắng chia đất miền Tây thành các lô phù hợp để các gia đình trở thành chủ sở hữu sinh kế của mình - và ngôn ngữ tôi sử dụng ở đây là ngôn ngữ Mỹ thế kỷ XIX, Lincoln, về cơ bản, đã ngăn chặn được chế độ nô lệ “ảo” phát sinh sau chế độ nô lệ "thực". Xét trong bối cảnh thời đại đó, những chính sách mở rộng miền Tây có thể coi là chu tất, đầy cân nhắc và nhân văn. Chẳng có gì ngạc nhiên khi người ta đặt nhiều hy vọng vào chúng đến thế.
Biên cương khai phá của nước Mỹ có ý nghĩa đặc biệt vì nó thể hiện một sự lạc quan đáng kể về bản tính và khả thể con người. Các nhà văn thời kỳ này cho rằng bản tính con người bị méo mó bởi công việc nặng nhọc, sự nghèo khổ, khinh miệt và tự khinh miệt. Họ bị ám ảnh bởi thực tế rằng phần lớn con người - bao gồm người da đen ở các đồn điền miền Nam và người da trắng ở các khu ổ chuột thành thị - sống những cuộc đời vô cùng không xứng với giá trị của họ.
Vì thế, đâu có gì ngạc nhiên khi những người anh hùng của họ sống ngoài vòng xã hội và không chịu đựng cũng chẳng gây ra những tổn thương mệt mỏi vốn là bản chất của đời sống thường nhật. Trong thơ của Whitman, người ngoài vòng xã hội là người có viễn kiến và khải thị. Trong hình dung của Thoreau, đó là nhà phê bình. Trong truyền thống bình dân của huyền thoại miền Tây, đó là người cứu rỗi và trả thù. Ở mọi hình thức, nhân vật này đều không thỏa mãn với xã hội. Do đó, cũng chẳng đáng ngạc nhiên khi anh ta được tạo ra bởi những thế hệ đã thực hiện các cải cách xã hội triệt để hơn bất kỳ thử nghiệm nào trước đây.
Quả thật là nỗi buồn chung của nhân loại khi xã hội, trong mọi hình thức từng tồn tại, luôn luôn ngăn cản và loại trừ những điều mà chúng ta thấy là đẹp và đáng quý nhất - ở người khác cũng như chính mình. Rousseau nói rằng con người sinh ra tự do, nhưng khắp nơi đều bị xiềng xích. Từ thời các nhà tiên tri Do Thái, vai trò của những kẻ ngoài lề luôn là nới lỏng những xiềng xích ấy hoặc kéo dãn chúng ra, ít nhất là truyền đi tin đồn về một đời sống khác.
Tuy nhiên, tôi cũng phải nói rằng xã hội loài người đối với tôi thật đẹp, nhất là trong những hình thức nhỏ bé và mong manh rất đặc trưng của miền Tây - những thị trấn cô lập, những ngôi nhà đơn lẻ đôi khi chỉ cung cấp tiện nghi tối thiểu: ánh sáng, hơi ấm, bữa tối, sự thân quen. Chúng ta đã thuộc địa hóa một hành tinh thù địch và chúng ta phải bịt kín mọi khe hở nơi mà cái lạnh và bóng tối có thể tràn vào, phá hủy những khí hậu giả tạo mà ta tạo ra, những mô phỏng nhỏ bé của những mùa đã bị lãng quên bên dòng Euphrates hoặc ở vườn Địa Đàng. Ở một mức độ nào đó, việc chăm sóc nhà cửa tạo ra một nhịp của những ân cần nhỏ bé, mà khi dồn lại, khiến thế giới trở nên lành mạnh, đậm đà và ấm áp. Những hành động mang lại sự êm ái gia đình, với tôi, mang tính thiêng. Nhưng đáng buồn là tính gia đình - cũng như sự sùng đạo - có xu hướng co lại, và ân sủng dễ tha hóa thành nghiệt ngã, còn sự bình yên thì thành buồn tẻ. Dẫu vậy, tôi vẫn nghĩ mình có lý do để coi Đạo luật Trang trại gia đình là văn bản pháp luật nhiều tính thơ nhất kể từ sách Đệ Nhị Luật (Deuteronomy), mà nó phần nào giống.
Nhiều năm nay, tôi đã thực hiện một cuộc khảo cổ chính suy nghĩ của mình, chủ yếu để thoát khỏi những giả định sẽ khiến tôi xấu hổ nếu tôi hiểu được nguồn gốc của chúng. Trong quá trình giáo dục lại này, tôi đã trở nên chắc chắn và hùng hồn đáng ngờ khi phát biểu ý kiến về những điều lẽ ra nên được để lại trong bóng tối những vùng vô thức. Cùng lúc, tôi cảm thấy mình đã tìm được một điểm neo ở miền Tây cho miền Tây của chính tôi và lý lẽ cho trực giác cả đời của tôi, rằng tinh thần của nơi này, như mọi tinh thần, là tuyệt đối bí ẩn, xa cách, và mê hoặc khôn cùng trong sự dịu dàng của nó. Về mặt lịch sử, nó - bên cạnh những điều khác - là đứa con mồ côi của một thế kỷ huy hoàng.
Tôi nghĩ sẽ công bằng khi nói rằng miền Tây đã đánh mất vị trí của mình trong trí tưởng tượng quốc gia bởi, qua một quá trình tiến hóa đáng buồn, cái ý về bản tính con người đã trở thành đối lập với những gì nó từng đại diện khi huyền thoại về miền Tây khởi phát. Giờ đây, những người ít bị định hình và ràng buộc bởi xã hội lại bị xem là què quặt và nguy hiểm. Đây là một tin xấu cho tinh thần nước Mỹ, một ý đầy khiếp hãi và phản dân chủ, đe dọa đóng kín mình trước mọi đổi thay. Tôi nghĩ sẽ thực sự tốt nếu miền Tây lại khẳng định mình theo những cách gây hào hứng, để cả đất nước lắng nghe và rồi lại lần nữa rung lên với những giấc mơ và dục vọng mà nó đã gạt bỏ và quên lãng quá dễ dàng.
Anh Hoa dịch
đọc thì
nước Mỹ ấy
Hawthorne (1804–1864)
Edgar Allan Poe (1809–1849)
Thoreau (1817–1862)
Melville (1819–1891)
William James (1842–1910)
Henry James (1843–1916)
Thorstein Veblen (1857–1929)
Edith Wharton (1862–1937)
Gertrude Stein (1874–1946)
Ezra Pound (1885–1972)
Philip Roth (1933–2018)
Marilynne Robinson (1943)