Tiệc vườn
237 trang
13,5 x 18,2 cm
Mười lăm truyện ngắn trong Tiệc vườn khắc hoạ những khía cạnh vô cùng vi tế của đời sống thường nhật, rất giản dị bên ngoài nhưng chứa đựng những mâu thuẫn bùng nổ, những nỗi đau không thể gọi tên ở tầng sâu. Cái nhìn thấu thị của Mansfield đã không bỏ sót bất cứ yếu tố nhỏ nào có khả năng gây choáng váng cho độc giả.
Tiệc vườn có thể xem là bông hoa trong giai đoạn viết đỉnh cao của Katherine Mansfield và cũng là cuốn sách ra mắt độc giả Việt Nam của bà.
*
"Hãy còn sớm quá. Mặt trời chưa lên, cả Vịnh Lưỡi Liềm vẫn chìm khuất trong hơi biển trắng mờ. Những quả đồi rậm rì phía xa như bị cán phẳng - chẳng thể nhìn rõ chúng kết thúc ở điểm nào, và những bãi cỏ cùng bungalow bắt đầu từ đâu. Con đường cát cùng các bungalow và vườn phía bên kia đã thất tung, cả những đụn cát trắng phơ phất cỏ hồng đằng xa cũng không còn thấy; chẳng còn dấu hiệu nào phân biệt đâu là biển, đâu là bãi. Sương dày tràn. Cỏ chuyển màu lam. Những giọt nước nằng nặng ngoan cố đu trên các bụi cây, nhất định không sa xuống; từng vạt toi-toi lấp loáng ngất ngư trên những cái cuống dài, mao lương cùng cẩm chướng trong các vườn bungalow cũng bị hơi ẩm cán rạp. Hoa vân anh lạnh run, ướt sũng; trên những lá sen cạn, những hạt sương ngọc trai rung rinh. Cứ như thể trong êm tĩnh mịt mù, biển đã âm thầm dịu xuống, như thể một làn sóng khổng lồ đã lặng lẽ lan ra, lan ra, không biết đến bao giờ. Nếu choàng tỉnh giữa đêm, có khi ta sẽ chớp thấy một con cá thật to đang quẫy tanh tách ngoài cửa sổ rồi vụt biến…
A… A! Biển mơ màng ngái ngủ. Từ những bụi cây vẳng ra tiếng nước thầm thì - từng dòng len lỏi giữa những tảng đá nhẵn trơn, òa vào những vũng dương xỉ rậm rì để rồi âm thầm tiếp tục; những giọt nước lớn vỡ tung trên mặt lá rộng dày, và còn nữa - một âm thanh nào - một cái gì đang cựa mình rất khẽ, một cành cây gãy, rồi tuyệt lặng, như thể ai đó đang lắng nín thở lắng nghe.
Ở một góc Vịnh Lưỡi Liềm, giữa những khối đá đùn lên ngất ngưởng, đàn cừu đang dấn tới. Chúng tụm thành một khối len bồng bềnh, những cái chân gầy líu ríu vội vàng như bị cái lạnh và sự tịch mịch làm cho khiếp hoảng. Đằng sau, một con chó chăn cừu già, chân ướt sũng, lấm cát cũng đang cắm đầu chạy nhưng lơ mơ hờ hững như thể đang trông ngóng điều gì. Và rồi sừng sững giữa cổng đá, người chăn cừu hiện ra. Đó là một ông lão gầy gò, lưng thẳng tắp; trên chiếc áo frieze dày cộm, vô số giọt nước li ti đã kết thành một cái mạng mờ mờ; bắp vế ông ta quấn ghệt nhung, dáng vẻ tinh tường, cái mũ lớn buộc khăn tay màu lam quanh vành gọn ghẽ. Một tay ông xách thắt lưng, tay kia cầm chắc cây gậy đã lên nước vàng óng. Ông bước thong thả, tiếng huýt sáo khe khẽ vừa nhẹ nhõm xa xăm, vừa buồn bã dịu dàng. Con chó già chạy loăng quăng nhấm vài bông bạch hoa rồi thình lình rụt lại, như tự thấy xấu hổ về sự nông nổi của nó; nó quay lại theo gót chủ, bước những bước chắc nịch nghiêm trang. Đàn cừu vẫn líu ríu chạy và bắt đầu kêu be be; từ biển cũng vọng lên tiếng đáp như của những đàn ma quái. “Be! Beee!” Họ cứ đi mãi mà như chẳng đi đâu - xung quanh chỉ thấy mịt mù hun hút. Cuối cùng cũng hiện ra thấp thoáng con đường cát dài phía trước, hai bên là những bụi cây ướt sũng giống hệt nhau, những hàng rào mờ mờ giống hệt nhau. Rồi bỗng nhiên hiện ra một cái bóng rợn người: một tên khổng lồ râu tóc bờm xờm, hai tay vươn rộng. Đó là cây bạch đàn vĩ đại trước tiệm bà Stubbs; mùi bạch đàn thoảng đưa khi họ đi ngang. Trong sương bỗng lóe lên những đốm sáng lớn, lung linh. Người chăn cừu ngưng huýt sáo. Ông dụi cái mũi đỏ ửng và bộ râu ướt nhẹp vào ống tay áo cũng đã ướt nhẹp, nheo nheo mắt nhìn về phía biển. Mặt trời đã mọc. Kỳ diệu làm sao - màn sương dày thoắt đã chỉ còn lưa thưa, bốc hơi khỏi dải bình nguyên nông choèn, cuộn lên từ những bụi cây và vội vã lủi đi như chạy trốn; những cụm len trắng mờ tụ lại, chen nhau trong những chùm sáng bạc dần tỏa rộng. Bầu trời xa xăm - một màu xanh sáng tươi, thuần khiết, lấp lánh trong những vùng nước đọng, những giọt nước còn bơi dọc các cột điện báo vụt hóa thành những nguồn sáng chói ngời. Mặt biển nhấp nhô sáng lòa tới nhức nhối con ngươi. Người chăn cừu rút từ túi áo ra một cái tẩu - nõ tẩu chỉ to bằng quả trứng cá; ông lần tìm mẩu thuốc lá lốm đốm, gạt vài sợi thừa rồi cẩn thận nhét vào nõ. Ông già thật đẹp, thật nghiêm trang lẫm liệt. Ông châm lửa, làn khói xanh tỏa ra, cuộn thành một vòng hoa quanh đầu; con chó nãy giờ vẫn chăm chú quan sát chủ thoáng ngây ra vì hãnh diện.
“Be! Beee!” Đàn cừu bắt đầu túa ra như một cái quạt xòe rộng. Chúng lướt qua khu nghỉ mát mùa hè trước khi người đầu tiên kịp thức giấc. Tiếng kêu của lũ cừu vọng vào giấc mơ của lũ trẻ con. Chúng đưa cả hai tay ra mà kéo, mà ôm ghì những con cừu non yêu dấu trong cơn mơ màng. Rồi cư dân đầu tiên xuất hiện: ả mèo Florrie nhà Burnell, đã tót lên cột cổng ngồi - hôm nào nó cũng dậy quá sớm để ngóng cô giao sữa. Nhác thấy con chó chăn cừu già, ả vội bật dậy, uốn lưng, rụt cái đầu lốm đốm, ra bộ cáu kỉnh. “Chao! Người đâu mà thô lậu!” ả thầm nghĩ. Con chó chăn cừu già không thèm ngước lên, chỉ đủng đỉnh lướt qua, nhưng một bên tai giật giật chứng tỏ nó đã thấy ả mèo và nghĩ thật là một mụ đàn bà ngớ ngẩn.
Làn gió sớm chao qua bụi cây, mùi lá và mùi đất đen ẩm ướt hòa với mùi biển gắt nồng. Chim chóc đua nhau hót. Một con chim kim oanh liệng qua trên đầu người chăn cừu rồi đậu xuống đỉnh vòi phun nước; nó hướng về phía mặt trời, đám lông nhỏ trên ngực xù cả lên. Giờ thì họ đã đi qua túp lều của người đánh cá, qua cả gian nhà lụp xụp nơi cô vắt sữa Leila sống với bà ngoại già nua. Đàn cừu có vẻ mất phương hướng khi đến đồng cỏ vàng sũng nước, và Wag, con chó chăn cừu - với những bước êm gọn - lập tức chạy đến quây chúng lại, hướng chúng về con đường đá hẹp và dốc dẫn ra khỏi Vịnh Lưỡi Liềm, nhằm hướng Vũng Ngày. “Be! Beee!” Tiếng kêu yếu ớt vẳng lên khi lũ cừu lừ đừ bước trên con đường đang khô đi theo từng nhịp mặt trời. Người chăn cừu cất tẩu thuốc, thả nó vào túi áo ngực, cái nõ tẩu la đà bên ngoài túi áo, và lập tức tiếng huýt sáo nhẹ nhõm, xa xăm lại cất lên. Wag chạy lần theo một mỏm đá - nó vừa đánh hơi thấy một mùi kỳ lạ. Một chốc nó quay lại, mặt tỏ rõ vẻ kinh tởm. Cứ thế, vừa xô, vừa huých, đàn cừu líu ríu vòng qua khúc quanh, bóng người chăn cừu phía sau cũng dần mất hút."
("Vịnh lưỡi liềm")
“Chính tôi cũng không tin được,” anh lại nói.
“Thật ư?” Anne khẽ hỏi. Nàng cúi người, lăn đầu điếu thuốc quanh chiếc gạt tàn màu lục. Trông nàng mới kiều diễm làm sao! Và thật nhỏ bé trên chiếc ghế mênh mông. Tim Reginald tràn ngập dịu dàng, nhưng giọng nàng, giọng nói nhẹ như gió của nàng, lại khiến anh run sợ. “Sao tôi thấy như thể anh đã ở đây rất nhiều năm,” nàng nói.
“Coo-roo-coo-coo-coo,” một chuỗi âm thanh vọng lên từ lặng yên thăm thẳm.
(“Ông bà Bồ Câu”)
Sau Ở nhà trọ Đức, Tiệc vườn là tập truyện thứ hai của Katherine Mansfield mà chúng tôi in, và chắc chắn sẽ không phải là tập cuối cùng. Độc giả có thể đọc thêm các bài báo, thư từ của Mansfield cùng một số truyện rút ra từ Tiệc vườn cùng Ở nhà trọ Đức tại đây.