Drei Frauen: Grigia
Tiếp tục Robert Musil: các novelle.
Những nỗi hoảng hốt của cậu học sinh Törleß là tiểu thuyết đầu tay, in năm 1906 ở nhà xuất bản Wiener (Vienna). Sau đó mười bảy năm, 1923, Grigia được in riêng tại Potsdam, nhà xuất bản Müller, và một năm sau được đưa vào tập Drei Frauen, xuất bản bởi Rowohlt ở Berlin, cùng “Die Portugiesin” và “Tonka”. Văn Bản sẽ đăng đầy đủ tập truyện này, do Phan Nhu chuyển ngữ.
Der Mann ohne Eigenschaften - bộ tiểu thuyết khổng lồ, chưa hoàn thành - phần 1 xuất bản năm 1930; phần 2 năm1933, còn lại được vợ xuất bản sau khi Musil mất. Chúng ta cũng sẽ sớm đến với nó.
Grigia
Có một quãng thời gian trong cuộc đời, ở đó nó chậm lại đáng kể, như thể chần chừ tiến lên tiếp hay như muốn thay đổi hướng đi. Khả dĩ rằng một bất hạnh xảy đến dễ dàng hơn với một người trong quãng thời gian ấy.
Homo có một người con trai nhỏ bệnh tật; chuyện diễn ra qua suốt một năm mà chẳng khá hơn cũng không nguy hiểm thêm, bác sĩ yêu cầu một chuyến điều trị tĩnh dưỡng, và Homo đã chẳng thể quyết định có đi cùng hay không. Với ông đã như là ông sẽ bởi thế mà bị tách khỏi chính mình quá lâu, khỏi những quyển sách của ông, những dự định và cuộc đời ông. Ông tri nhận sự phản kháng của mình như một ích kỷ to lớn, thế nhưng nó có thể thiên về một sự giải thoát hơn, bởi lẽ ông trước đó chưa từng dù chỉ một ngày bị chia rẽ khỏi người vợ; ông đã rất yêu bà và vẫn còn yêu bà hơn thế, tuy nhiên tình yêu này đã trở nên có thể bị chia rời bởi đứa con, tựa như một hòn đá nước chảy vào từng giọt, cứ đẩy ông đi tiếp ra xa. Homo rất ngỡ ngàng về bản chất mới này của sự có thể chia cắt, chẳng cần đến rằng có thể có gì đó từ tình yêu của ông sẽ mất đi cùng với ý thức và mong muốn của ông, và chừng thời gian của việc chuẩn bị cho chuyến rời đi lâu là thế, ông đã không muốn nghĩ đến việc mình sẽ một mình trải qua mùa hè tiếp theo ra sao. Ông tri nhận bất chợt một ác cảm đối với những địa điểm ven biển và vùng núi. Ông ở lại một mình và vào ngày thứ hai ông nhận được một bức thư mời tham gia vào một hội đoàn muốn kết nối lại với những mỏ vàng thuộc Venedig tại Fersenatal. Bức thư đến từ ngài Mozart Amadeo Hoffingott, người ông đã một vài năm trước quen biết trong một chuyến đi và trong suốt những ngày ít ỏi kết làm bạn.
Dẫu vậy trong ông chẳng hình thành một nghi ngờ khẽ khàng nhất rằng đó sẽ là một sự nghiêm túc và lớn lao. Ông gửi đi hai bức điện tín; trong một bức ông báo với vợ mình rằng ông đã rời đi và sẽ nhắn cho bà nơi ở của ông, với bức thứ hai ông nhận lời mời tham gia vào công việc khai hầm như một nhà địa chất và có thể cả với một khoản đóng góp lớn.
Ở P., một thành phố nhỏ khép kín giàu có của nước Ý, nơi trồng dâu tằm và sản xuất rượu nho, ông đã gặp Hoffingott, một người đàn ông cao lớn, đẹp, ngăm đen ở tuổi của ông ta, người luôn luôn di chuyển. Hội đoàn này nắm giữ, như ông được biết, những phương pháp vĩ đại kiểu Mĩ, và công việc sẽ có một kiểu cách lớn. Trước hết một đoàn thám hiểm gồm hai người họ và ba người tham gia sẽ đi vào thung lũng để chuẩn bị, ngựa đã được mua, dụng cụ đang được đón đợi và những người lao động đã được tuyển.
Homo không sống trong nhà khách mà, ông thực ra cũng chẳng biết tại sao, ở tại chỗ một người quen người Ý của Hoffingott. Ở đó có ba thứ khiến ông thích. Chiếc giường với sự mềm mại mát mẻ không sao nói thành lời trong màu gỗ gụ tuyệt đẹp. Một dải giấy dán tường với những họa tiết rối rắm vô vị, thế nhưng gần như rất lạ và để ngỏ. Và một cái ghế đu đưa bằng rơm; khi người ta nằm bên trong và nhìn vào giấy dán tường thì trọn vẹn cả người trở thành một rối tinh quăng lên rơi xuống của những tua cuốn, chúng chỉ trong vòng hai giây đã lớn lên từ thinh không thành một kích cỡ trọn vẹn và rồi lại quay ngược trở lại.
Một bầu không khí từ tuyết và phương Nam trộn lẫn trên các con đường. Đang là giữa tháng Năm. Buổi tối họ được thắp sáng bởi những chiếc đèn hình vòng cung treo rất cao ở dây cáp căng chéo khiến những con đường nằm bên dưới như rãnh núi của màu thiên thanh sẫm, trên cái nền tăm tối của chúng người ta buộc phải đi, trong khi ấy khoảng không vũ trụ bên trên là những mặt trời trắng sột soạt xoay mình. Ban ngày người ta nhìn vào vườn nho và khu rừng. Chúng đã trụ lại sau mùa đông, đỏ, vàng và xanh lá, bởi lẽ những cái cây đã không rũ bỏ lá rụng của mình đi mà cái tàn và mới quấn lại với nhau như trong những vòng hoa điếu, và những căn biệt thự đỏ, lam và hồng, còn trông rất rõ được, như những con xúc sắc khác số được đặt ở đó, trình diễn một quy tắc hình thức với họ là không hay biết, của riêng, vô cảm trước tất tật thế giới. Bên trên là khu rừng tối tăm và ngọn núi tên Selvot. Nó đeo phía trên khu rừng các đồng cỏ phủ tuyết, chạy dọc theo hướng triền thung lũng nhỏ sỏi đá và dốc dần lên trong một lượn sóng rộng và vừa phải, ở đó cuộc thám hiểm sẽ diễn ra. Đàn ông từ những ngọn núi này đến, để giao sữa và mua Polenta, thế rồi thi thoảng họ đem theo những khối đá pha lê hoặc thạch anh tím, chúng cứ mọc mơn mởn ở nhiều vách núi như hoa cỏ trên cánh đồng ở nơi khác vậy, và khung cảnh cổ tích đẹp rợn người này càng làm tăng thêm ấn tượng rằng, dưới vẻ ngoài của vùng đất le lói thân thuộc lối xa lạ đến thế tựa những ngôi sao trong đêm nào đó, chúng dường che giấu một thứ mong đợi khao khát. Khi họ đi vào lòng thung lũng và vào lúc sáu giờ đi qua Sankt Orsola, thì tại một khe núi nhỏ rậm rạp với một cây cầu đá bắc qua, họ va phải nếu không là một trăm thì hẳn hai tá chim họa mi; đấy là một ngày sáng trời.
Khi đã ở bên trong, họ đang ở một nơi kì lạ. Nơi đây treo trên sườn đồi; con đường mòn dẫn họ vào đích thị là nhảy từ một tảng đá phẳng lớn sang một cái tiếp theo, và từ đó chảy theo sườn núi và uốn quanh như những con suối, một vài ngách nhỏ dốc vào cánh đồng. Khi người ta đứng bên đường đi, thì chỉ có trước họ những ngôi nhà nông thôn hoang vắng và xập xệ, thế nhưng nếu người ta nhìn lên từ những đồng cỏ bên dưới, thì người ta thấy như bị đặt trở lại một vào một Pfahldorf xa xưa, bởi những ngôi nhà trụ hướng thung lũng trên những xà gỗ cao, và nhà cầu của họ lơ lửng đôi chút ở cạnh ngoài tách khỏi họ như một cái thuyền Gondeln từ những cái kiệu trên bốn thanh sào mảnh qua triền đồi. Đến cả phong cảnh quanh ngôi làng này cũng chẳng thiếu những đặc biệt. Nó hình thành từ một bờ kè cao hình bán nguyệt chạy quanh một chóp nón nhỏ phủ rậm đứng ở giữa, bên trên là những ngọn núi gồ ghề đổ xuống một dốc thẳng đứng, bởi thế toàn thể tựa như một thế giới hình khuôn bánh Bundt rỗng, từ nó một mảnh nhỏ bị cắt ra khỏi bởi dòng suối chảy sâu, khiến cho nó há hoác tựa vào triền dốc cao và cũng là cùng một dốc xuống của một vách núi, ngôi làng treo tại đó. Khắp quanh đây dưới tuyết là những lòng chảo với cây thông lùn và một vài con nai rải rác, trên đỉnh đồi con gà gô đen ở giữa đã kịp tán tỉnh, và trên những đồng cỏ của hướng mặt trời nở những bông hoa với những hình sao màu vàng, lam và trắng, chúng to đến mức người ta hẳn đã đổ ra cả một túi đồng Taler. Thế nhưng nếu người ta bước cao thêm chỉ khoảng một trăm bước phía sau ngôi làng, thì người ta đứng trên một khoảng nhô ra không rộng cho lắm, phủ đi cánh đồng, đồng cỏ, chuồng gia súc và những ngôi nhà rải rác, khi ấy một pháo đài nhô ra khỏi thung lũng phóng nhìn nhà thờ vào một thế giới mà trong những ngày đẹp trời nó nằm trước thung lũng xa như đại dương trước một cửa sông đổ vào; người ta hoàn toàn chẳng thể phân định được, phần nào còn là khoảng xa màu hoàng kim của vùng bình nguyên được ban phước lành và tại đâu những nền mây mong manh của bầu trời khởi sự.
Đó là một cuộc đời đẹp đã nhận lấy khởi đầu của nó. Ban ngày ở trên những ngọn núi, bên những cánh cổng đá dẫn vào đường hầm trong núi đã bị lấp đi và những lần khai thác, hoặc trên lối ra khỏi thung lũng, nơi một con đường rộng nên được trải; trong không khí khổng lồ đã mềm và căng tròn bởi đợt tuyết tan đang tới. Họ giũ tiền ra cho mọi người và cai trị như những vị thần. Họ thuê mướn cả thế giới, những người đàn ông và phụ nữ. Họ dựng nên từ những người đàn ông những đội lao động và chia họ vào các ngọn núi, tại đó họ phải ở lại hàng tuần liền, từ những phụ nữ họ nặn ra những đoàn người thồ hàng phía sau mang cho họ công cụ và thực phẩm dự trữ trên những đoạn dốc gần như không thể di chuyển được. Ngôi trường bằng đá đã được chuyển thành một tòa nhà kiểu thuộc địa nơi người ta chứa và trung chuyển hàng hóa; ở đó một tiếng đàn ông sắc lẻm vang lên khỏi những người phụ nữ đứng tán phét chờ đợi từng người một, và cái giỏ to rỗng đeo trên lưng được chất lên thật lâu, cho đến khi đầu gối khụy xuống và mạch máu cổ hằn lên. Khi một người phụ nữ trẻ xinh đẹp được chất hàng lên, thì một cái nhìn lồi khỏi con mắt và môi há ra; cô bước vào hàng, và những con vật đã trở nên câm lặng này đợi kí hiệu để khởi sự bước lên núi chầm chậm lần lượt trong những con đường ngoằn ngoèo dài dặc một chân trước chân kia. Thế nhưng họ thồ những món đồ đáng giá, quý hiếm, bánh mỳ, thịt và rượu vang, và với những chiếc máy bằng sắt thì người ta chẳng cần phải cư xử sợ sệt, đến rằng ngoài tiền công còn có cả thứ gì đó dùng được cho đồng áng, và bởi thế họ thích thồ chúng và còn cám ơn những người đàn ông đã mang phước báu đến những ngọn núi. Và đó là một cảm giác tuyệt diệu; người ta ở đây chẳng bị dò xét, như ở tất tật nơi khác trên thế giới, anh ta là một người thế nào, - liệu có đáng tin, đầy quyền lực và đáng dè chừng hay thanh lịch và ưa mắt, - mà dẫu người ta là một con người như thế nào và dẫu người ta nghĩ về sự vị của cuộc đời ra sao, người ta tìm thấy tình yêu, bởi họ đã đem đến phước báu; tình yêu chạy trước như một người đưa tin, nó ở khắp mọi nơi như một chiếc giường tinh tươm cho khách, và con người đeo trong đôi mắt món quà chào mừng. Các phụ nữ được phép để điều ấy chảy tràn, thế nhưng đôi lúc, khi người ta đi ngang cánh đồng, cũng cả một nông dân già đứng đó và vẫy bằng biểu cảm tựa một cái chết sống động.
Thêm nữa, có những người lạ kì sống ở cuối thung lũng này. Tổ tiên của họ vào thời kỳ quyền lực giáo hội Tridentine đã từ Đức đến như những thợ mỏ, và đến giờ họ vẫn ngồi được dậm vào như một hòn đá Đức góa bụa giữa những người Ý. Kiểu cách của cuộc sống cũ họ giữ một nửa và một nửa đã quên, và thứ họ còn giữ lại, chính họ cũng chẳng hiểu nữa. Những con thác cuốn phăng đất nền của họ đi vào đầu năm, có những ngôi nhà, đầu tiên chúng nằm trên một khoảng đồi và giờ thì ở rìa của một đổ sập, chẳng cần đến họ làm gì đó chống lại, và theo những con đường đổ ngược thời đại mới cuốn trôi đủ mọi thứ rác rưởi bẩn thỉu nhất vào những ngôi nhà. Ở đấy có những chiếc tủ đánh sơn rẻ tiền, những tấm bưu thiếp hài hước và những bức tranh in dầu, thế nhưng đôi khi là một món đồ nấu bếp ở đó, mà hẳn phải được dùng từ thời Martin Luther rồi. Họ là những người Tin lành; thế nhưng cả khi điều đó cũng chẳng là gì khác hơn ngoài một níu chặt dai dẳng vào đức tin đã bảo vệ họ khỏi đồng hóa, thì họ cũng vẫn không là người Thiên Chúa ngoan đạo. Bởi họ nghèo, nên gần như tất tật đàn ông đều bỏ người vợ của họ lại ngay sau đám cưới và đi đến nước Mỹ cho một vài năm; khi họ trở về, họ cầm theo một chút tiền tiết kiệm, những thói quen của nhà thổ thành thị và lòng ngờ vực, một tinh thần sắc bén của sự văn minh thì lại không.
Homo ngay ban đầu đã nghe kể một câu chuyện làm ông bận tâm khủng khiếp. Không lâu trước đây, khoảng đâu đã xảy ra trong mười lăm năm trước, một nông dân từng đi khỏi một thời gian dài đã trở về từ nước Mỹ và lại đặt mình xuống bên vợ anh ta trong căn phòng. Họ vui mừng suốt một thời gian vì họ đã lại đoàn tụ, và để sự trôi đi như thế, cho đến khi khoản tiết kiệm cuối cùng chảy biến đi. Khi khoản tiết kiệm mới đáng ra nên từ nước Mỹ tới tiếp, mãi vẫn chưa xuất hiện, thì người nông dân đứng dậy, như tất tật những nông dân vùng này đều làm - kiếm chi phí sinh hoạt ngoài kia thông qua việc bán rong, trong lúc ấy người vợ lại tiếp tục chăm sóc việc đồng áng chẳng đem lại gì. Thế nhưng anh ta không quay lại nữa. Ngược lại ít ngày sau một người nông dân từ Mỹ đi vào một trong những trang trại đã được dựng này, kể cho vợ anh ta chính xác đến tận ngày từ đấy đến nay là bao lâu và đòi được ăn món vào ngày của cuộc chia ly họ đã ăn, hẵng còn biết chuyện con bò, con vật ấy từ lâu rồi không còn ở đây nữa, và thích ứng được với đám trẻ trong lối đứng đắn, chúng đã san sẻ với anh một bầu trời khác với cái anh ta trước đó từng mang trên đầu. Cả người nông dân này sau một quãng của an ủi và sung túc cũng lại đi lang thang với đám đồ đạc và chẳng quay trở về. Chuyện này xảy ra trong vùng thêm lần thứ ba và thứ tư, trước khi người ta nghĩ đến chuyện đó là một kẻ lừa đảo đã cùng làm việc với những người đàn ông ở phía bên kia và đã dò hỏi họ. Hắn ta bị chính quyền bắt giữ ở đâu đó và bị giam lại, và chẳng ai còn trông thấy hắn ta nữa. Tất tật đều thấy tiếc, vì ai cũng muốn giữ hắn ta lại thêm vài ngày và đối chiếu hắn với ký ức của họ, để không phải bật cười; bởi ai cũng nhận ra ngay điều gì đó hoàn toàn chẳng khớp với trí nhớ, vậy nhưng chẳng ai bởi lẽ đó chắc chắn rằng, người ta đáng ra nên nghĩ đến chuyện này và làm khó người chồng vừa trở về của mình trong quyền của anh ta.
Những phụ nữ là vậy đó. Chân của họ đung đưa trong những búi lông màu nâu với đăng ten rộng bằng gang tay màu đỏ, xanh hoặc cam, và những chiếc khăn họ choàng trên đầu và vắt chéo qua ngực là thứ vải in rẻ tiền của những mẫu mã nhà máy, thế nhưng bởi thứ gì đó trong màu sắc hoặc sự phân bổ mà chúng dẫn về thời kỳ của tổ tiên họ. Nó còn cũ hơn cả trang phục nông dân truyền thống bởi nó chỉ là một cái nhìn, kéo qua suốt thời gian, muộn mằn, mờ mịt và yếu, thế nhưng người ta vẫn cảm thấy rõ rệt nó ngưng lại khi người ta nhìn vào. Họ mang những đôi giày hệt như những chiếc thuyền độc mộc được cắt từ một miếng gỗ, và để chống lại những con đường xấu họ có ở chỗ lót giày hai khung sắt sắc như dao mà họ đi trên nó trong những đôi tất dài màu xanh và nâu giống với các phụ nữ Nhật. Nếu họ buộc phải chờ, họ không ngồi xuống vệ đường mà trên nền đất phẳng của lối đi và co gối lên như bọn da đen. Và nếu họ cưỡi những con lừa của mình lên núi, điều đôi khi xảy ra, thì họ không ngồi trên những chiếc váy của mình, mà như đám đàn ông và với cặp đùi thiếu mẫn cảm trên gờ gỗ sắc của yên ngựa, lại co chân lên đầy hớ hênh và để được đưa đi bằng một cử động lắc lư nhẹ nhàng của trọn thân người trên.
Họ cũng còn sở hữu cả một sự hiếu khách thoải mái đầy hốt hoảng và sự đáng mến. “Mời ngài vào đây”, họ nói lịch thiệp như các nữ vương khi người ta gõ cánh cửa nông dân của họ, hoặc khi người ta đứng cùng họ một lúc và tán chuyện ngoài trời, bất chợt một người có thể hỏi với một lịch sự và khiêm nhường nhất: “Tôi có được phép cầm cho ngài chiếc áo chăng?” Khi Doktor Homo nói với một bé gái mười bốn tuổi rất xinh, “Đi vào chỗ cỏ khô đi”, - chỉ vậy, bởi cỏ khô bất chợt hiện ra với ông thật tự nhiên như đồ ăn với động vật vậy, - khi ấy khuôn mặt trẻ con dưới chiếc khăn chùm tóc dựng đứng của tổ tiên hoàn toàn không hoảng hốt, mà chỉ khịt mũi và mắt vui vẻ, mũi của đôi giày nhỏ của nó nhướn cao quanh bàn chân, và cùng một cái bồ cào trên vai nó hẳn đã gần như ngã vào cái chum đang lăn xuống rất nhanh, nếu tất cả không phải chỉ là một biểu cảm của ngỡ ngàng thiếu tế nhị đáng mến về dục vọng của một người đàn ông, như trong một vở nhạc kịch lố bịch. Một lần khác ông hỏi một nữ nông dân cao lớn, cô trông giống một góa phụ người Đức trong sân khấu, “nói xem, cô còn là trinh nữ không?”! và chạm vào cằm cô, - lại chỉ như vậy thôi, bởi lời đùa vẫn nên có mùi đàn ông chứ; cô ấy thế cứ để cằm mình yên trên tay ông và đáp nghiêm túc: “Có, đương nhiên rồi.” Homo gần như mất luôn sự làm chủ; “Cô vẫn còn là trinh nữ sao?!” ông ngạc nhiên thật nhanh và cười. Khi ấy cô cười khúc khích. “Nói nào!” ông giờ sấn gần hơn và đùa cợt đu đưa cằm cô. Rồi cô thổi vào mặt ông và cười: “Đã từng!”
“Nếu tôi đến chỗ cô thì tôi nhận được gì?” ông hỏi tiếp.
“Thứ ngài muốn.”
“Tất tật, điều tôi muốn ư?”
“Tất tật.”
“Thật là tất tật chứ?!”
“Tất! Tất!!” và đấy là một cuồng nhiệt vờ vĩnh tuyệt hảo và nồng cháy khiến tính thật của màn kịch ở sáu trăm mét trên cao làm ông rối trí. Ông không thoát khỏi được nữa, cuộc đời này, sáng và đẫm vị hơn cuộc đời trước đây, hoàn toàn không còn là hiện thực nữa, mà là một vở diễn lơ lửng trong thinh không..
Trong lúc ấy mùa hè đã đến. Khi ông lần đầu tiên nhìn thấy chữ viết của đứa con trai bệnh tật của mình trên bức thư vừa đến, thì với ông nỗi hoảng hốt của hạnh phúc và những nắm giữ bí mật đã chạy trong ông từ hai bắt xuống đến chân; họ đã biết chỗ ở của ông, điều này hiện ra với ông như một khẳng định khủng khiếp. Ông ở đây, ồ, người ta biết hết, và ông chẳng cần giải thích gì. Những cánh đồng màu trắng và tím, lục và nâu. Ông không phải là một hồn ma. Một khu rừng cổ tích của những gốc thông cổ thụ mọc lá xanh dịu, đứng trên đồi xanh lục bảo. Pha lê tím và trắng dường sống dưới lớp rêu. Con suối từng chảy giữa khu rừng, qua một hòn đá, khiến nó trông như một cái lược răng cưa lớn bằng bạc. Ông không hồi âm những bức thư của vợ ông nữa. Giữa những bí mật của tự nhiên thì sự thuộc về cũng là một trong đó. Có một bông hoa đỏ huyền mềm mại, chẳng có nó ở bất cứ thế giới người đàn ông nào, chỉ trong thế giới của ông, Chúa đã sắp đặt như vậy, trọn vẹn như một điều kỳ diệu. Có một vị trí trên thân thể được giấu kín và không ai được phép thấy nó, nếu người đó không chết, chỉ một người. Điều này đến với ông trong khoảnh khắc này thật tuyệt diệu ngớ ngẩn và bất tiện, giống như nó chỉ có thể là một tôn giáo sâu xa. Và ông giờ mới nhận ra điều ông đã làm, bằng việc tách mình ra cho mùa hè này và để mặc mình đẩy lên bởi cuộn tràn của chính ông đang túm lấy ông. Ông ngả xuống trên đầu gối giữa những cái cây với riềm râu màu lục sáng, giang tay ra, điều mà ông chưa từng làm trong cuộc đời ông, và ông dám, cứ như thể người ta đã trong giây phút ấy lấy ông ra khỏi tay vậy. Ông cảm thấy tay của người ông yêu trong tay của mình, giọng nói của cô trong tai, tất tật các vị trí của cơ thể ông như vừa mới được chạm vào, ông tự tri nhận như một hình thức được dựng nên bởi một thân thể khác. Thế nhưng ông đã đảo ngược cuộc đời của ông. Trái tim ông đã quỳ gối trước người tình của ông và trở nên khốn khổ như một kẻ ăn mày, trong ông cuộn lên những lời thề và nước mắt từ tâm hồn. Dẫu vậy đã là chắc chắn rằng, ông không quay trở về và, thật kỳ lạ là cùng với sự run rẩy của ông một hình ảnh được kết nối với những cánh đồng nở hoa bao quanh khu rừng, và mặc cho ham muốn về tương lai có một cảm giác rằng ông rồi sẽ nằm chết, ở đó, giữa hải quỳ, lưu ly, phong lan, long đởm và cỏ chua màu xanh nâu tuyệt diệu. Ông duỗi người ra bên thảm rêu. “Làm sao để đưa ngươi đến đó chứ?” Homo tự hỏi. Và thân thể ông thấy mỏi mệt rã rời như một khuôn mặt trân trân đã bị xóa đi bởi một điệu cười. Ông đã luôn luôn cho rằng mình sống trong một thực tế, vậy nhưng đó là thứ gì đó không thực tế hơn điều, rằng một con người là thứ gì đó khác đối với ông hơn là đối với những người khác ư? Rằng trong những cơ thể không thể đếm được kia có một thân thể mà con người bên trong của ông gần như lệ thuộc vào như với chính thân thể ông ư? Cái đói và mệt mỏi của nó, nghe và thấy của nó liên quan với cái của ông ư? Khi đứa trẻ lớn, cả thứ đó cũng lớn, như những bí mật của mặt đất luồn vào trong một cái cây nhỏ, trong lo lắng và tận hưởng trần gian. Ông yêu đứa trẻ của mình, tuy vậy như nó sống sót, nó đã giết chết phần dị thường sớm hơn nữa. Và ông bất chợt nóng rực bởi một chắc chắn mới. Ông không phải là một con người nghiêng về lòng tin, thế nhưng trong khoảnh khắc ấy cái bên trong của ông đã được chiếu sáng. Các ý nghĩ rọi sáng thật ít như những ngọn nến mập mờ trong ánh sáng lớn này của cảm xúc của ông, chỉ một từ tuyệt diệu được chảy tràn bởi sức trẻ: sự đoàn tụ ở đây. Ông mang nó theo mình cùng tất tật những vĩnh viễn, và trong khoảnh khắc ông trao mình cho suy nghĩ này, thì những méo mó bé nhỏ mà những năm tháng của nhân tình của ông thêm vào, đã được lấy khỏi nó, đó đã như là ngày đầu tiên vĩnh viễn. Mỗi quan sát xa rộng lại chìm xuống, mỗi khả dĩ của chối bỏ và không chung thủy, bởi không một ai sẽ dâng hiến một vĩnh viễn cho sự nhẹ dạ của một phần tư giờ đồng hồ, và ông lần đầu tiên biết đến tình yêu vắng tất tật nghi ngờ như một bí tích chốn thiên đàng. Ông nhận ra một tiền định cá nhân đã lái cuộc đời ông sang sự cô đơn, và cảm thấy như một kho báu không còn trần thế nữa, mà như một thế giới diệu kỳ được định dành cho ông nền đất với vàng và đá quý dưới chân ông.
Từ ngày đó ông đã được tự do khỏi một gắn kết, như khỏi một cái đầu gối cứng ngắc hoặc một cái ba lô nặng. Một kết nối vào Mong muốn sống thực, thoát khỏi sự bạo tàn trước cái chết. Đã không xảy ra với ông điều ông đã luôn tin sẽ đến, khi người ta trong trọn vẹn sức lực muốn nhìn thấy gần hơn kết thúc của mình, rằng anh ta đã hưởng thụ cuộc đời tuyệt hơn và thèm khát hơn, mà ông chỉ cảm thấy không còn vướng bận và trọn vẹn của một nhẹ nhõm lớn lao đã khiến ông trở thành vị Sultan của tồn tại của ông.
Việc khoan còn chưa tiến triển thêm, tuy vậy đó đã là cuộc sống của những người đào vàng bao quanh đó. Một thằng nhãi đã trộm rượu vang, đấy là một phạm tội chống lại lợi ích chung mà hình phạt của nó có thể phải tính đến sự khoan hồng, và người ta đưa nó đến với đôi tay bị trói. Mozart Amadeo Hoffingott chỉ thị, để làm một ví dụ thị uy, nó sẽ bị đứng buộc vào một cái cây cả ngày lẫn đêm. Vậy nhưng khi người điều hành khu mỏ đến cùng một sợi dây thừng, vì thích mà quăng qua lại nó lôi ấn tượng và treo nó trước hết trên một cái đinh, thì thằng nhãi run rẩy toàn thân, nó đã chẳng nghĩ gì khác ngoài rằng nó sẽ bị treo cổ. Điều hoàn toàn tương tự đã diễn ra dẫu cho thật khó để lý giải, lúc ngựa đến, chúng cho vài ngày được nhận chăm sóc, dự trữ từ bên ngoài hay gần như thế: chúng đứng thành cụm trên cánh đồng hoặc nằm xuống, thế nhưng chúng dường như cứ tụ lại chẳng trật tự gì theo chiều sâu xuống, khiến một cách nào đó theo một luật lệ mĩ học đã được thống nhất trông đích xác như một gợi nhớ đến những ngôi nhà nhỏ màu xanh lục, thiên thanh và màu hồng dưới ngọn Selvot. Khi chúng ở bên trên và được buộc qua đêm vào một lòng chảo nào đó, ba hay bốn con bên một cái cây bị đổ, và người ta đã tỉnh giấc vào ba giờ sáng trong ánh trăng rồi đi đến vào bốn rưỡi sáng, thì tất tật chúng quay lại nhìn người đi qua này, và người ta trong ánh sáng tinh mơ vô thực cảm thấy như một ý nghĩ trong một suy nghĩ rất chậm. Vì những vụ trộm và những sự bất ổn định nào đó đã xảy ra, người ta đã mua tất tật chó trong vùng để dùng chúng cho việc canh giữ. Quân lính đưa chúng đến theo những đàn lớn, hai hay ba con được dắt ở dây thừng mà không có vòng cổ. Bất chợt những con chó cũng nhiều như những người ở đây, và người ta nên tự hỏi, ai trong hai nhóm đó thực sự trên trái đất này được phép cảm thấy như người chủ trong chính ngôi nhà của mình, và ai chỉ như một người chung nhà được đón nhận. Trong số đó có nhiều chó săn, Dương xỉ vùng Venezia, như người ta thi thoảng ở vùng này vẫn gọi, chúng, người ta chẳng biết tại sao, từng hợp lại và gắn kết chặt, thế nhưng theo thời gian trong mỗi nhóm chúng lại giận dữ tấn công lẫn nhau. Một vài còn gần như chết đói, một vài thì bỏ thức ăn; một con nhỏ màu trắng thì lao vào viên đầu bếp ở tay, khi người này định đặt xuống cho nó một cái bát với thịt và súp, và cắn đứt một ngón tay. - Ba giờ rưỡi sáng trời đã hoàn toàn hửng lên, dẫu vậy mặt trời còn chưa trông thấy được. Nếu người ta ở những ngọn núi trên kia đi qua hồ Malgen, những con bò nằm trên cánh đồng gần đó nửa tỉnh và nửa ngủ. Chúng nằm trong hình dáng đồ sộ cứng đơ trắng tinh trên những cái chân co lại, thân sau tựa vào gì đó ngả sang một bên; chúng chẳng nhìn vào điều đang diễn ra lẫn nhìn theo, mà giữ khuôn mặt bất động theo ánh sáng được chờ đợi, và những cái mồm nhai nhồm nhoàm chầm chậm đều nhau dường có vẻ đang cầu nguyện. Người ta băng qua vòng tròn của chúng như một trong những tồn tại cao cả mù mờ, và nếu người ta nhìn lại từ trên xuống, chúng trông như nốt khóa son màu trắng được rải vào, thứ được vẽ nên từ một đường thẳng của xương sống hai chân sau và cái đuôi. Thực ra có nhiều biến động. Thí dụ như, một người bị gãy một chân và hai người khiêng anh ta trên tay. Hoặc bất thình lình gọi “Ch…áy….”, và tất tật chạy để tìm chỗ trốn, bởi cho việc xây đường một tảng đá to đã được cho phát nổ. Cơn mưa vừa lau ướt qua thảm cỏ bằng vệt đầu tiên. Lửa cháy dưới một bụi cây bên bờ suối khác, người ta quên mất nó bởi sự kiện mới này trong khi cho đến tận bây giờ nó đã từng rất quan trọng; như một người xem duy nhất, chỉ còn một cây bạch dương đứng đó. Ở cây bạch dương này một con lợn đen được buộc bằng một cái chân treo trong không khí; ngọn lửa, cây bạch dương, và con lợn, chúng giờ còn lại chỉ một mình. Con lợn này đã thét khi bất chợt một người riêng lẻ dẫn nó bằng một sợi dây thừng và nói rõ với nó hãy đi tiếp nào. Rồi nó thét lớn hơn khi nó trông thấy hai người đàn ông khác hớn hở chạy tới nó. Khốn khổ, khi nó bị túm lấy ở tai và bị kéo lên trước vắng sự nhẹ tênh. Nó phản kháng bằng bốn chân, vậy nhưng cái đau ở tai đã kéo nó lên trước trong những cú nhảy ngắn. Ở bên kia của cây cầu một người đã nắm lấy cái cuốc và đập nó vào trán bằng cái mũi cuốc. Từ giây phút này tất tật trôi qua trong im lặng hơn nhiều. Hai chân trước cùng lúc gãy, và con lợn bé nhỏ chỉ tiếp tục thét lên khi người ta đã chọc con dao vào họng nó; đấy là một tiếng trompet rạo rực tuyệt diệu, vậy nhưng nó chìm xuống ngay thành tiếng khò khè đã chỉ còn như tiếng phì phò tội nghiệp. Tất tật điều ấy Homo để ý lần đầu tiên trong cuộc đời ông.
Khi trời trở tối, tất cả đều cùng đến tòa nhà giáo xứ, tại đó họ đã thuê một căn phòng như một sòng bạc. Lẽ dĩ nhiên rằng thịt, thứ chỉ lên đến đây hai lần một tuần trên con đường dài, đã thiu đôi chút, và người ta hiếm khi gánh chịu một ngộ độc thịt vừa phải. Dẫu vậy tất cả đều đến, ngay khi trời tối, vấp phải những con đường vô hình với cây đèn treo nhỏ của họ. Bởi họ chịu đựng một cơ đơn và hiu quạnh nhiều hơn là ngộ độc thịt, dẫu rằng nó đã thật đẹp. Họ rửa nó đi bằng rượu vang. Một giờ sau khi bắt đầu một đám mây của nỗi buồn và điệu nhảy đã nằm ở căn phòng giáo xứ. Chiếc Grammophon quay vòng như một cái xe đẩy bằng thiếc được mạ vàng qua một cánh đồng mềm, được no bởi các vì sao tuyệt diệu. Họ chẳng còn nói với nhau nữa, mà họ nói. Họ nên nói gì chứ, một thầy giáo tư, một thương nhân, một cựu thanh tra nhà tù, một kĩ sư mỏ, một sĩ quan đã về hưu? Họ nói trong ký hiệu - dẫu vậy đó cũng là từ ngữ: của bực bội, của sự thoải mái tương đối, của ham muốn -, một ngôn ngữ loài vật. Họ thường tranh cãi nảy lửa chẳng cần thiết về một câu hỏi nào đó chẳng can gì đến ai cả, thậm chí cả xúc phạm lẫn nhau, và vào ngày hôm sau thì những lời thách đấu tay đôi cứ đi qua đi lại. Rồi được phát hiện ra rằng thực ra hoàn toàn chẳng có ai có mặt ở đó cả. Họ chỉ làm bởi họ buộc phải đập chết thời gian, và chẳng ai trong họ từng thực sự trải qua, thì với họ vẫn hoang dại như những kẻ đồ tể và tức giận với nhau.
Một định lượng đồng đều của tinh thần ở khắp mọi nơi: Châu Âu. Một bất bận rộn bất định, như nó vẫn thường là một sự bận rộn. Ham muốn về phụ nữ, trẻ con, sự thư thái. Và giữa lúc đó cứ luôn lại là chiếc Grammophon. Rosa, chúng mình đi về Lodz, Lodz, Lodz… và hãy vào căn chòi tình yêu của tôi…. Mùi thuộc về tinh tú của phấn, vải gai, và sương từ Varieté phía xa và tình dục kiểu châu âu. Những đùa cợt thiếu đứng đắn nổ tung thành những tràng cười và tất cả luôn lại bắt đầu bằng những lời: Một gã Do Thái từng đi tàu hỏa …; chỉ một lần một người hỏi: Người ta cần bao nhiêu cái đuôi chuột nhắt để từ trái đất đến mặt trăng? Thậm chí khi ấy đã câm bặt, và viên sĩ quan để chơi Tosca và nói đầy hoài niệm trong lúc chiếc Grammophon sắp quay tiếp: “Tôi đã từng muốn cưới Geraldine Farrar.” Rồi giọng của cô phát vào căn phòng từ chiếc phễu và dâng lên trong một cái ống dẫn, giọng phụ nữ được thán phục bởi những người đàn ông say xỉn, và cái ống dẫn đã cùng nó bay vút lên không trung, đến chẳng một đích nào cả, lại chìm xuống, bay lượn trong không khí. Váy của cô phấp phới trước chuyển động, cái lên và xuống này, cái lặng thinh nén chặt trong một thoáng này ở một nốt, và rồi lại lên vào và hạ xuống, và ở tất tật rung động này, và vẫn luôn được chạm vào bởi một cơn rùng mình mới, và tiếp tục dâng trào: là dục vọng. Homo cảm thấy, đấy là dục vọng trần trụi được chia ra mỗi người vào tất tật sự vị trong các thành phố, thứ chẳng thể phân biệt được nữa khỏi án mạng, ghen tuông, các thương vụ, đua xe, - ah, nó hoàn toàn không còn là dục vọng nữa, đó là ham muốn phiêu lưu, - không, không phải là ham muốn phiêu lưu, mà là một con dao rơi xuống từ bầu trời, một sứ thần chết chóc, một thiên thần của sự điên, một cuộc chiến ư? Từ một trong nhiều tờ giấy ruồi dài treo rủ xuống từ trần nhà, một con ruồi đã rơi xuống trước ông và nằm úp lưng trúng độc, giữa một tràng cười nào đó mà ánh sáng của cây đèn dầu hòa làm một trong những nếp gấp gần như không thể nhận ra của chiếc khăn trải bàn; họ đã thật buồn rầu chớm xuân, như thể sau trận mưa một cơn gió mạnh sẽ quét đi. Con ruồi tạo thêm một vài gắng gượng cứ tiếp tục yếu dần đi để đứng dậy, và một con ruồi thứ hai đang gặm ở khăn trải bàn thi thoảng chạy tới để xem sự vụ thế nào. Cả Homo cũng nhìn nó thật kĩ, bởi tại đây lũ ruồi từng là một dịch bệnh. Khi cái chết tiến đến, kẻ hấp hối co sáu cái chân bé nhỏ của mình lại thật nhọn và giữ như thế trên cao, rồi nó chết trong vệt sáng bợt bạt của mình ở chiếc khăn trải bàn như trong một nghĩa trang của câm lặng chẳng hề theo kích cỡ centimet và không cho đôi tai thế nhưng vẫn tồn tại. Ai đó vừa kể: “Một người đã thực sự tính toán rằng nhà Rothschild không có đủ tiền để trả một chiếc vé hạng ba lên mặt trăng.” Homo nói khẽ trước mặt: “Giết chóc, và vẫn cảm thấy Chúa; cảm thấy Chúa, và vẫn giết chóc ư?” và ông nhanh chóng bằng ngón tay trỏ búng bay con ruồi vào mặt viên sĩ quan đang ngồi đối diện ông, lại một vụ việc kéo dài đến tận tối ngày hôm sau.
Khi ấy ông đã quen biết Grigia từ lâu, và có thể cả viên sĩ quan cũng biết biết cô. Cô tên Lene Maria Lenzi; nó kêu như Selvot và Gronleit hay Malga Mendana, theo như thạch anh tím và hoa, ông vậy nhưng vẫn thích gọi cô là Grigia, với một chữ I dài và Dscha bị nuốt, theo tên một con bò cô từng có, và Grigia, con bò xám. Khi ấy cô ngồi với chiếc váy màu nâu violet và với một chiếc khăn chùm đầu điểm đốm, ở rìa bãi cỏ của cô, nhướn mũi đôi giày kiểu Hà Lan của mình lên cao, tay khoanh lại trên chiếc tạp dề sặc sỡ của cô, và trông đáng yêu tự nhiên như một chiếc nấm độc mảnh khảnh trong lúc cô thi thoảng đưa ra chỉ thị cho những con bò gặm cỏ bên dưới. Thực ra chúng chỉ tạo thành từ bốn từ “Đi ea!” và “Đi aua!”, dường có nghĩa chỉ như ‘Ra đây’ và ‘lên đây’, khi lũ bò đi xa quá; nếu màn trình diễn của Grigia thất bại, thì một tràng giận dữ kéo theo sau: “Cái gì, con khỉ kia, mày đi ra đây”, và như một biện pháp cuối cùng cô tự rầm rầm đi lên đồi cỏ như một hòn đá nhỏ, với ngay miếng gỗ tới đây trong tay mà cô sẽ từ khoảng cách xa phóng tới những con bò xám. Vì Grigia thế nhưng có một khuynh hướng rõ rệt cứ luôn tiếp tục rời xa hướng xuống đồi, nên điều vừa diễn ra lặp lại trong tất tật những phần của nó với sự đều đặn của một trọng lượng con lắc giảm xuống và rồi lại vụt lên. Bởi đã thật vô nghĩa lối thiên đàng, ông đã bằng điều đó trêu chọc cô, gọi cô là Grigia. Ông chẳng thể che giấu trái tim ông đập phập phồng khi ông từ xa tiến gần người đang ngồi như thế; nó đập là vậy, khi người ta bất chợt đi vào mùi thông và vào không khí đẫm hương tỏa lên từ một nền đất rừng chưa quá nhiều nấm. Luôn có gì đó Màu xám trước tự nhiên được giữ lại trong ấn tượng này, và người ta không được phép tự dối mình rằng tự nhiên chẳng là gì ít hơn tự nhiên; nó lấm đất, sắc lẻm, độc tính và vô nhân đạo trong tất tật nơi con người không áp đặt sự ép buộc lên nó. Có thể đấy chính là điều nối ông vào nữ nông dân, và nửa còn lại là một thán phục không mệt mỏi bởi cô rất giống một người phụ nữ. Người ta hẳn cũng sẽ ngỡ ngàng khi trông thấy giữa rừng gỗ một quý bà ngồi cùng một tách trà.
Làm ơn, Ngài hãy vào đây, cô cũng đã nói thế, khi ông lần đầu tiên gõ cánh cửa của cô. Cô đứng bên bếp và có một chiếc nồi trên ngọn lửa; cô đã không thể đi khỏi, cô chỉ ra dấu lịch sự vào chiếc ghế bếp dài, lúc sau cô mới cười lau tay vào chiếc tạp dề và chìa chúng cho những người ghé thăm; đấy là một bàn tay được tạo đẹp, mềm ráp như giấy nhám mịn nhất hay như đất vườn rỏ xuống. Và khuôn mặt thuộc về cô là một khuôn mặt chút ít giễu cợt với nét nghiêng tinh tế duyên dáng khi người ta nhìn cô từ một bên, và cái miệng khiến ông rất để ý. Cái miệng cong như chiếc cung của Cupidus, thế nhưng nó cũng cả mím chặt như khi người ta nuốt nước bọt, điều này với ông trong tất tật sự tinh tế của ông là một thô thiển đích thị, và sự thô thiển này cứ luôn luôn đưa lại một hơi hướm nhỏ của sự buồn cười hoàn toàn thích hợp với đôi giày mà từ nó hình dáng nhỏ bé lớn lên như những cái rễ thô dại. - Khi có việc gì để bàn bạc, và khi họ đi khỏi, thì nụ cười đã luôn ở đó, và có thể là bàn tay trong giây phút đó đặt yên trong tay ông lâu hơn khi tiếp đón. Những ấn tượng ở trong thành phố đã là vô nghĩa này, thì ở đây trong nỗi cô đơn nó là những rung chấn, không gì khác, như thể một cái cây muốn rung lắc những cành của nó theo lối qua không một cơn gió hay một con chim vừa bay khỏi nào có thể lý giải được.
Một thời gian ngắn sau ông đã trở thành người tình của một cô nông dân; sự thay đổi diễn ra với ông này, đã làm ông rất suy nghĩ, bởi chẳng nghi ngờ gì nó không phải là thứ gì đó xảy ra qua ông, mà là với ông. Khi ông đến lần thứ hai, Grigia đã ngồi ngay xuống cạnh ông trên chiếc ghế băng, và khi ông thử cô, xem ông được phép đi xa đến đâu, đặt tay lên đùi cô và nói với cô, cô là người đẹp nhất ở đây, cô để yên tay của ông trên đùi mình, chợt đặt tay của cô lên trên, và vậy là họ đã xong xuôi. Rồi ông hôn cô để niêm ấn, và đôi môi cô liếm thật nhanh như đôi môi thỏa mãn thoát khỏi một bể chứa, viền của nó cô tham lam giữ lấy. Ban đầu ông còn hoảng hốt chút ít về lối xấu xí này và hoàn toàn chẳng bực bội khi cô cưỡng lại một lấn tới tiếp theo của ông; ông không biết tại sao, ông ở đây hiểu hoàn toàn không gì hết về những tập tục và những nguy hiểm và để mình đầy tò mò được vỗ về vào một lần khác. Bên chỗ cỏ khô, cô đã nói, và khi ông đã đứng ở cửa và nói Hẹn gặp lại, thì cô đáp “hẹn sớm gặp lại” và cười với ông.
Ông còn đang trên đường về nhà, khi ấy ông đã hạnh phúc tột độ về điều vừa xảy ra; giống như một thức uống nóng bỏng lúc sau bất thình lình khởi sự tác động. Hình dung sẽ cùng nhau đi đến kho cỏ khô - ông mở cánh cửa gỗ nặng ra, ông nhìn vào, và trong mỗi ngóc ngách dò dẫm bóng tối cứ lớn thêm, cho đến khi ông ngồi xổm trên nền của một bóng tối màu nâu, đứng thẳng - ông mừng như một gian dối trẻ con. Ông nghĩ lại về những nụ hôn và cảm thấy nó liếm, như thể người ta đã đặt vào đầu ông một chiếc vòng phép thuật. Ông mường tượng ra những điều sẽ đến và lại buộc phải nghĩ tới lối nông dân ăn uống; họ nhai chậm, nhồm nhoàm, kính cẩn từng miếng cắn, họ cũng nhảy múa hệt như vậy, từng bước, và khả dĩ là tất tật những điều khác cũng thế; ông đã khụy dốc chân xuống trước hưng phấn ở những hình dung ấy, như thể đôi giày của ông găm gì đó trên nền đất. Các phụ nữ nhắm mi mắt lại và làm một gương mặt hoàn toàn trơ, một chiếc mặt nạ bảo vệ mà với nó ngươi ta không thể làm phiền họ bằng sự tò mò; họ gần như không bật ra tiếng rên nào, không hưng phấn hệt như những con bọ cánh cứng giả chết, họ tập trung tất tật chú ý vào điều đang diễn ra cùng họ. Và cũng xảy ra như thế; Grigia cào bằng góc của đế giày một chút cỏ khô mùa đông hẵng còn đấy lại thành một đống nho nhỏ và cười lần cuối khi cô cúi xuống viền váy của mình như một quý bà vuốt phẳng vòng tất đăng ten.
Tất thảy đó đã đích xác giản đơn và cũng bị mê hoặc như những con ngựa, những con bò và con lợn chết. Khi họ ở đằng sau những cột nhà và ở ngoài những đôi giày nặng chịch đi lại rầm rầm trên con đường đá, lướt qua và tắt dần, thì máu run bần bật trong ông đến tận cổ, thế mà Grigia dường đã đoán sang bước thứ ba, liệu những đôi giày muốn đi vào hay không. Và cô có những từ ma thuật. Nos, cô nói gần như thế, và thay gì chân của cẳng chân. Schurz là cái tạp dề. Khi cô đeo quá nhiều, cô thán phục, và tôi đã nằm nghỉ chút ít trong giường, cô làm dưới đôi mắt ngủ quên. Khi một lần ông dọa cô, ông sẽ không đến nữa, cô cười: “Tôi gõ cửa chỗ ông đấy!” và khi ấy ông chẳng biết liệu mình hoảng hốt hay hạnh phúc nữa, và cô hẳn phải để ý thấy, bởi cô hỏi: “Hối hận à? Hối hận nhiều à?” Đó là những từ như mẫu của chiếc tạp dề và cái chăn và những đăng ten sặc sỡ phía trên chỗ chiếc quần, một chút cân định với thực tại ngay từ độ xa của cuộc chu du, thế nhưng đầy những vị khách bí ẩn. Môi cô đầy bởi chúng, và nếu ông hôn nó, ông chẳng biết, liệu ông yêu người đàn bà này không, hay liệu một điều kỳ diệu sẽ chứng minh cho ông, và Grigia chỉ là một phần của cuộc món quà gửi đến gắn kết ông tiếp với người tình của ông trong vĩnh cửu. Một lần Grigia vừa nói với ông: “ông nghĩ điều hoàn toàn khác, tôi trông thấy trong ông”, và khi ông cần một chuyến dã ngoại, cô chỉ nói: “à, cái đấy rõ là một trò đùa”. Ông hỏi cô thế nghĩa là gì, nhưng cô không muốn nói ra cùng ngôn ngữ, và ông buộc phải trước hết tự nghĩ thật lâu, cho đến khi ông có thể hỏi từ cô nhiều đủ để đoán được rằng ở đây hai trăm năm trước cả những người đào vàng Pháp sinh sống và có thể nó từng có nghĩa là excuse. Tuy nhiên cũng có thể là cả một thứ rất hiếm gặp.
Người ta có thể cảm tri mạnh hoặc không. Người ta có thể có nền tảng, rồi đó chỉ là một câu đùa hoa mĩ mà người ta vừa mang theo. Hoặc người ta chẳng có nền tảng hoặc chúng có thể vừa xóa đi thứ gì đó, như trong trường hợp với Homo, khi ông đến nghỉ ở đây thì điều đó có thể xảy ra rằng, những hiện diện cuộc đời xa lạ này nắm lấy sở hữu từ thứ đã trở nên vô chủ. Chúng đưa cho ông không một cái Tôi mới, trở nên tham vọng với hạnh phúc và trần tục, mà chúng chỉ di dời đi trong những vết đẹp đẽ chẳng liên quan gì đến nhau vào vết rạn không khí của cơ thể ông. Homo cảm thấy ở một điều gì đó rằng ông sẽ sớm chết, ông còn chưa biết bao giờ và như thế nào. Cuộc đời cũ của ông đã trở nên vô trọng lực; nó trở thành giống một con bướm luôn yếu đi khi vào thu.
Ông đôi khi nói với Grigia về điều đó; cô có một kiểu riêng để hỏi theo: đầy tôn trọng như về một thứ cô đã quen thuộc, và hoàn toàn vắng sự vị kỷ. Cô dường thấy ổn khi tìm ra rằng đằng sau những ngọn núi của cô có những con người mà ông yêu nhiều hơn yêu cô, những người ông yêu bằng trọn cả linh hồn. Và ông cảm thấy tình yêu này không yếu đi, nó trở nên mạnh hơn, mới hơn; nó không nhạt nhờ đi, vậy nhưng nó đã thua, nó càng nhuộm màu sâu hơn thì những khả năng để ấn định ông trong một thực tại với điều gì đó hoặc để ngăn điều gì đó càng nhiều lên. Nó đã nhẹ bổng trong một lối kỳ diệu và tự do khỏi tất tật những gì trần thế chỉ nó biết, điều gì buộc phải kết nối với cuộc đời và được phép chờ đợi cái chết; nếu khi đó ông thật khỏe mạnh, thì một thẳng đứng xuyên qua ông như một người liệt bất chợt vứt bỏ cái nạng và cất bước.
Điều này trở nên mạnh hơn khi mùa thu hoạch cỏ khô đến. Cỏ đã được cắt và phơi khô, chỉ còn cần phải bó vào và đưa lên những cánh đồng núi. Homo nhìn theo xuống từ đồi cao tiếp theo, nơi này được đẩy cao và xa ra như một cú đu đưa của xích đu. Cô gái - hoàn toàn một mình trên cánh đồng, một con búp bê lấm chấm dưới cái chụp thủy tinh khổng lồ của vòm trời, tạo ra một bó to khủng khiếp theo lối chỉ có thể tưởng tượng. Khụy đầu gối xuống và kéo bằng hai cánh tay cỏ khô vào mình. Nằm, rất trực cảm, bằng bụng trên những cuộn cỏ khô và vươn mình sang cuộn tiếp theo. Cô nằm hẳn sang một bên và giang chỉ bằng một cánh tay, xa chừng người ta có thể duỗi ra. Bằng một đầu gối, bằng hai đầu gối bò lên. Homo cảm thấy có gì đó từ con bọ lăn đất, một con bọ. Cuối cùng cô đẩy cả người mình xuống cái bó được buộc quanh bằng một sợi dây thừng và bằng nó từ từ nhấc lên. Cái bó lớn hơn rất nhiều so với con người bé nhỏ mảnh khảnh sặc sỡ đang đeo nó - hay đấy không phải là Grigia?
Khi Homo, để tìm cô mà đi dọc theo một hàng dài những đống cỏ khô ở trên mà các cô nông dân đã đặt chúng theo mặt phẳng của triền núi, thì họ đang nghỉ; khi ấy ông gần như không thể kìm nén được, bởi họ ngồi trên những đồi cỏ khô của mình tựa như những bức tượng tạc của Michael Angelo ở Mediceerkapelle thuộc Florenz, một tay chống vào đầu và thân người nghỉ ngơi như trong một dòng chảy. Và khi họ buộc phải nói với ông và phun ra, thì họ làm rất kịch; họ nhổ bằng ba ngón tay một nắm cỏ ra, nhổ vào một cái phễu và lại nhồi cỏ vào: có thể làm bật cười ấy chứ: khi người ta thuộc về họ, như Homo, người đang tìm Grigia, người ta hẳn cũng bất thình lình hốt hoảng về phẩm cách hoang dã này. Thế nhưng Grigia rất hiếm khi ở cùng, và nếu ông cuối cùng cũng tìm thấy cô, thì cô đang ngồi xổm trên một ruộng khoai tây và cười ông. Ông biết, cô chẳng có gì mặc ngoài hai chiếc váy, đất khô cứng chạy qua những ngón tay mảnh thô ráp của cô chạm vào thân người cô. Thế nhưng hình dung này chẳng có gì lạ nữa với ông, nội tâm của ông đã thật kì lạ quen với nền đất chạm vào ra sao, và có thể ông cũng chẳng còn gặp cô ở ruộng này vào thời gian thu hoạch cỏ khô, tất tật đã sống lẫn cả vào.
Những kho cỏ khô đã đầy. Ánh sáng bạc len vào qua những khe hở của các cây cột. Cỏ khô phát ánh sáng xanh lá. Và một dải đăng ten dày màu vàng kim bên dưới cánh cổng.
Cỏ có mùi chua. Như đồ uống của người da đen được làm từ bã hoa quả và nước bọt người. Ông chỉ cần nhớ rằng mình ở đây sống giữa những kẻ hoang dã, thì đã hình thành ngay một ngất ngây trong cái nóng bức của căn phòng chật chội chất đầy cỏ lên men.
Cỏ chất ở mọi dạng. Ông bị giữ lại trong đó vừa nghi hoặc vừa đông chặt đến tận bắp chân. Ông ở trong đó như trong bàn tay của Chúa, muốn lăn lộn trong bàn tay của Chúa như một con chó nhỏ hay một con lợn con. Ông nằm nghiêng, gần như vuông góc như một vị Thánh bay lên trời vào những vầng mây xanh lá.
Đấy là những ngày cưới hỏi và những ngày Chúa lên trời.
Thế nhưng một lần Grigia tuyên bố: không tiếp tục thêm nữa. Ông không thể khiến cô nói tại sao. Nét sắc quanh miệng cô và nếp nhăn nhỏ thẳng đứng giữa hai con mắt cô thường chỉ gắng sức cho câu hỏi, căn chòi để cỏ khô nào sẽ là cuộc gặp tuyệt đẹp tiếp theo, vạch ra một bầu không khí xấu đang ở đâu đó gần đây. Họ bị người ta xì xào ư? Thế nhưng những người quen biết, họ có thể đã để ý thấy gì đó thật, tất tật đã luôn cười như với một chuyện người ta thích xem cùng. Từ Grigia chẳng gì thoát ra cả. Cô viện cớ, hiếm khi gặp được cô; vậy nhưng cô giữ chặt lời của mình như một người nông dân hoài nghi.
Homo từng gặp một tín hiệu xấu. Cái bọc chân bị tuốt xuống, ông đứng ở một hàng rào và buộc nó lại, khi một cô nông dân đi ngang qua và vui vẻ nói với ông: “Cứ để cái tất ở dưới, trời sắp tối rồi mà.” Đấy là khi ở gần chuồng trại của Grigia. Khi ông kể nó cho Grigia, cô làm một khuôn mặt cao ngạo và nói: “Người ta bàn tán, và đặt điều, kệ đi”; dẫu thế cô nhổ nước bọt và cùng các suy nghĩ ở một đâu đó khác. Khi ấy ông bất chợt nhớ tới một nữ nông dân kì lạ, cô có cái đầu như của một người tộc Aztec và luôn đứng trước cửa nhà của cô, tóc đen, dài tới qua vai, thả xõa, và được vây quanh bởi ba đứa trẻ phúng phính hát ca. Grigia và ông tất tật các ngày đều đi qua chẳng để ý, đó là nữ nông dân duy nhất ông không quen, và lạ là ông cũng chưa từng hỏi về cô, dẫu cho ngoại hình của cô khiến ông để ý; gần như là cuộc đời lành mạnh của các con cô và gương mặt bị quấy rầy của cô cứ luôn xóa bỏ lẫn nhau như những biểu cảm tới sự rỗng không. Như giờ ông đang là, bất chợt với ông đã chắc chắn rằng điều bất an chỉ có thể đến từ khi đó. Ông hỏi, cô ấy là ai, thế nhưng Grigia xốc vai giận dữ và chỉ thốt ra: “Cô ta chả biết gì thứ cô ta nói! Một lời đây, một lời về mấy ngọn núi!” Điều này đi cùng cô với một cử chỉ dữ dội của bàn tay vào trán, như thể cô buộc phải tức thì hủy bỏ giá trị nhân chứng của người này.
Bởi chẳng thể lay động Grigia tiếp tục đến một trong những nhà chứa cỏ ở quanh ngôi làng, Homo gợi ý cho cô hãy cùng ông lên cao hơn chỗ những ngọn núi. Cô không muốn, và mãi rồi cô thuận theo, cô nói với một nhấn mạnh hiện ra với ông rất mập mờ, “tốt thôi; khi người ta phải đi khỏi.” Đấy là một buổi sáng đẹp trời ôm lấy tất thảy thêm một lần; xa tít ngoài kia là biển của những đám mây và của con người. Grigia đầy lo lắng tránh tất tật những căn chòi, và trên cánh đồng trống, thường luôn bởi một lặng thinh hấp dẫn mà ở trong tất tật các dự định của chiến lược tình yêu của mình - cô trình ra sự lo lắng trước đôi mắt sắc lảnh. Khi ấy ông trở nên bồn chồn và nhớ lại rằng họ vừa đi qua một cửa hang nơi việc vận hành nó cũng sẽ sớm lại được mở bởi người của ông. Ông đẩy Grigia vào trong. Khi ông quay người lần cuối, tuyết phủ trên một đỉnh núi, bên dưới một cánh đồng nhỏ với những cành lúa buộc lại trong ánh mặt trời, và trên họ là bầu trời trong xanh. Grigia tiếp tục ra một chú ý, như một lập lờ, cô đã để ý thấy cái nhìn của ông và nói dịu dàng: “Màu xanh trên bầu trời chúng mình cứ để nguyên trên kia, để nó đẹp mãi”; điều cô thực sự muốn nói ông đã quên hỏi, vì họ đã với một cẩn thận rất lớn chạm vào trong một bóng tối cứ luôn chật hẹp thêm. Grigia đi trước, và sau một quãng khi cái hang mở rộng ra thành một cái buồng nhỏ, họ dừng lại và ôm choàng lấy nhau. Nền đất dưới chân họ đem lại một ấn tượng khô, họ nằm xuống, chẳng cần đến Homo nên tri nhận ham muốn của văn minh mà tìm cách nhìn nó bằng ánh sáng của một cây diêm. Grigia lại một lần chạy lướt qua ông như mặt đất khô mềm, ông cảm thấy cô đông lại trong bóng tối và cứng đờ bởi đê mê, rồi họ nằm cạnh nhau và nhìn theo cái góc vuông nhỏ xa xa mà trước nó, chẳng muốn nói ra lời, một ngày chiếu ánh sáng trắng. Trong Homo tua lại cuộc lên đây của ông, ông trông thấy mình cùng Grigia đi cùng nhau ở phía sau ngôi làng, rồi leo lên, ngoặt và leo lên, ông trông thấy đôi tất màu xanh của cô lên đến tận diềm váy màu cam dưới đầu gối, lối đi lắc lư của cô trên đôi giày buồn cười, ông thấy cô đứng yên trước cửa hang, nhìn phong cảnh với cánh đồng nhỏ vàng óng, và đột ngột ông trông thấy trong ánh sáng của lối vào hình ảnh người chồng của cô.
Ông chưa từng nghĩ đến con người bị quay lưng đi trong sự vị này; giờ ông nhìn thấy khuôn mặt sắc của kẻ săn trộm với đôi mắt đen xảo quyệt của kẻ đi săn và bất chợt cũng nhớ đến lần duy nhất ông nghe anh ta nói; đấy là sau một lần bò vào trong một hầm mỏ cũ chẳng ai dám, và từng lời là: “Tôi thấy từ màn kịch này sang màn kịch khác; quay lại thì khó đấy.” Homo nắm vội vào khẩu súng của ông, thế nhưng trong cùng giây phút ấy chồng của Lene Maria Lenzis đã biến mất, và bóng tối xung quanh dày đặc như một bức tường thành. Ông lần đi tới cửa ra, Grigia bám vào áo ông. Dẫu vậy ông tin ngay rằng tảng đá được đẩy đã lăn tới, thứ nặng hơn nhiều so với sức lực của ông để di chuyển nó; ông cũng biết cả rằng vì sao người đàn ông để cho họ nhiều thời gian đến thế, anh ta cũng cần nó để thực hiện kế hoạch của mình và để đi lấy một gốc cây làm đòn bẩy.
Grigia quỳ gối trước tảng đá và cầu xin và gào thét; thật kinh tởm và vô nghĩa. Cô thề, cô chưa từng làm điều gì không phải và không bao giờ làm lại điều gì đó không phải, cô gào lên như một con lợn và chạy lối vô nghĩa đập vào tảng đá như một con ngựa sợ sệt. Homo rồi cũng cảm thấy rằng đấy hoàn toàn là trật tự của tự nhiên, dẫu vậy, ông, một con người có học, ban đầu đã hoàn toàn không muốn làm gì chống lại sự nghi ngờ của mình rằng, thực sự điều gì đó không thể đảo ngược nên xảy đến. Ông tựa vào tường và nghe thật kĩ Grigia, hai tay trong túi. Sau này ông nhận ra số phận của ông; như mơ ông cảm nhận nó thêm một lần chìm vào ông, nhiều ngày, nhiều tuần và nhiều tháng, hệt như buộc phải nhấc lên một giấc ngủ đã kéo dài quá lâu. Ông quàng nhẹ cánh tay lên Grigia và kéo cô trở lại. Ông nằm xuống cạnh cô và chờ đợi gì đó. Trước kia hẳn ông có thể sẽ nghĩ, tình yêu phải tứa máu như vết cắn trong một ngục tù không thể thoát ra như thế này, vậy nhưng ông hoàn toàn quên nghĩ đến Grigia. Cô tách xa khỏi ông hay ông khỏi cô, cả khi ông còn sờ thấy đôi vai cô; trọn cả cuộc đời ông với ông như vừa tách đi rất xa,ông vẫn còn cảm biết nó ở đây, thế nhưng không bao giờ có thể đặt tay lên được nữa. Họ chẳng động đậy gì trong hàng giờ liên. Nhiều ngày dường trôi qua và các đêm, cơn đói và khát nằm lại phía sau họ, như một mẩu kích động rời xa, họ ngày càng yếu đi, nhẹ đi và khép mình hơn; họ mơ màng biển xa và canh gác hòn đảo nhỏ. Một lần ông va rất nhanh vào một tỉnh giấc nhỏ như thế: Grigia đã đi mất; một điều chắc chắn nói với ông rằng chắc chắn chỉ vừa mới đây thôi. Ông cười; chẳng nói gì với ông về lối thoát; muốn bỏ ông lại, để làm bằng chứng cho chồng của cô …! Ông ngã xuống và nhìn quanh, rồi ông cũng phát hiện một vệt sáng yếu, mảnh. Ông bò lại gần đôi chút, sâu tiếp vào trong hầm - họ đã luôn nhìn sang hướng bên kia. Ở đấy ông nhận ra một khe hẹp khả dĩ dẫn ra ngoài. Grigia có các chi nhỏ, thế nhưng cả ông, bằng sức thật mạnh, hẳn phải khả dĩ chui qua được. Đó phải là cửa thoát. Vậy nhưng trong khoảnh khắc ấy có thể ông đã quá yếu để quay trở lại cuộc đời, không muốn hoặc chăng đã bất tỉnh.
Cùng giờ đồng hồ đó, bởi người ta thấy sự thất bại của tất tật cố gắng và sự vô ích của công cuộc tìm kiếm, Mozart Amadeo Hoffingott đã ở bên dưới đưa ra lệnh chấm dứt.
Phan Nhu dịch
viết tiếng Đức
Gotthold Ephraim Lessing (1729–1781)
Georg Christoph Lichtenberg (1742–1799)
Johann Gottfried Herder (1744–1803)
Johann Wolfgang von Goethe (1749–1832)
Friedrich Schiller (1759–1805)
Jean Paul (1763–1825)
Novalis (1772–1801)
E. T. A. Hoffmann (1776–1822)
Heinrich von Kleist (1777–1811)
Arthur Schopenhauer (1788–1860)
Heinrich Heine (1797–1856)
Eduard Mörike (1804–1875)
Adalbert Stifter (1805–1868)
Georg Büchner (1813–1837)
Theodor Mommsen (1817–1903)
Jacob Burckhardt (1818–1897)
Gottfried Keller (1819–1890)
Paul Celan (1920–1970)
Friedrich Nietzsche (1844–1900)
Georg Simmel (1858–1918)
Peter Altenberg (1859–1919)
Gustav Meyrink (1868–1932)
Heinrich Mann (1871–1950)
Hugo von Hofmannsthal (1874–1929)
Karl Kraus (1874–1936)
Arnold Schönberg (1874–1951)
Max Scheler (1874–1928)
Rainer Maria Rilke (1875–1926)
Thomas Mann (1875–1955)
Alfred Kubin (1877–1959)
Robert Walser (1878–1956)
Martin Buber (1878–1965)
Robert Musil (1880–1942)
Franz Kafka (1883–1924)
Walter Benjamin (1892–1940)
Joseph Roth (1894–1939)
Ernst Bloch (1885–1977)
György Lukács (1885–1971)
Hermann Broch (1886–1951)
Paul Tillich (1886–1965)
Johannes Itten (1888–1967)
Martin Heidegger (1889–1976)
Ludwig Wittgenstein (1889–1951)
Franz Werfel (1890–1945)
Norbert Elias (1897–1990)
Theodor W. Adorno (1903–1969)
Ludwig Hohl (1904–1980)
Hugo Friedrich (1904–1978)
Elias Canetti (1905–1994)
Klaus Mann (1906–1949)
Fritz Hochwälder (1911–1986)
Hans Robert Jauss (1921–1997)
Friedrich Dürrenmatt (1921–1990)
David Bronsen (1926–1975)
Ingeborg Bachmann (1926–1973)
Günter Grass (1927–2015)
Carl Dahlhaus (1928–1989)
Thomas Bernhard (1931–1989)
W. G. Sebald (1944–2001)
Peter Handke (1942– )
Michael Haneke (1942– )
Yoko Tawada (1960– )
