favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Thu 2025
Next

Minima moralia (tiếp)

28/10/2025 23:20

Các châm ngôn của Adorno, tiếp tục từ kia

Cũng bắt đầu các châm ngôn Nietzsche, ở kia.

8

Khi bị ác nhân quyến rũ. – Có một thứ amor intellectualis đối với người làm bếp: đó là cám dỗ đối với những ai làm công việc lý thuyết hay nghệ thuật, muốn nới lỏng đòi hỏi tinh thần đối với chính mình, muốn hạ thấp mình, muốn chạy theo đủ loại sáo ngữ trong vấn đề lẫn trong biểu đạt, những thứ mà trong lúc tỉnh táo ta đã cự tuyệt. Vì không còn một phạm trù nào, thậm chí ngay cả Bildung (giáo dục, tu dưỡng) cũng không còn được quy định chặt cho trí thức nữa, và bởi cả nghìn đòi hỏi bận bịu khiến sự tập trung bị đe dọa, nên nỗ lực sản sinh một cái gì còn phần nào đứng vững (stichhält) trở thành quá lớn, đến mức hầu như chẳng ai còn đủ sức. Thêm vào đó, áp lực của đồng phục đè nặng lên mỗi người sáng tạo lại càng khiến họ hạ thấp đòi hỏi đối với chính mình. Trung tâm của kỷ luật tinh thần như một toàn thể đang bước vào kỳ phân rã. Những cấm kỵ (Tabus) cấu thành phẩm cấp tinh thần của một người - thường là những kinh nghiệm lắng đọng hay những sự biết không được nói ra - liên tục hướng ngược vào chính các xung động của bản thân, những xung động mà ta đã học cách kết án, nhưng chúng lại mạnh đến mức chỉ một thẩm quyền phán quyết tuyệt đối và không thể bị nghi vấn mới có thể chặn lại. Điều đúng với đời sống bản năng (Triebleben) thì cũng đúng với đời sống tinh thần: họa sĩ hay nhạc sĩ cấm mình dùng tổ hợp màu này hay hợp âm kia vì cho là rởm (kitschig), nhà văn thấy những cấu hình ngôn ngữ nào đó quá tầm thường hay quá câu nệ phản ứng mạnh như thế chính bởi trong họ cũng tồn tại khả thể bị quyến rũ về phía đó. Sự cự tuyệt cái tai ác đang thống trị văn hóa đặt trên điều kiện rằng ta đã tham dự đủ để cảm thấy nó run lên ngay đầu ngón tay mình, nhưng đồng thời từ sự tham dự đó đã rút ra sức mạnh cự tuyệt. Những sức mạnh ấy, vốn xuất hiện như sự phản kháng cá nhân, kỳ thực chẳng hề chỉ mang tính cá nhân. Lương tâm trí thức (intellektuelles Gewissen), nơi chúng tập hợp, cũng mang một yếu tố xã hội chẳng khác nào siêu ngã (Über-Ich) đạo đức. Nó được hình thành từ ý niệm về xã hội đúng đắn và công dân của nó. Nhưng một khi ý này suy yếu - và ngày nay kẻ nào còn có thể mù quáng tin cậy mà phó mình cho nó? - thì xung lực trí thức hướng xuống đáy sẽ mất sự kìm hãm, và toàn bộ rác rưởi mà văn hóa man rợ bỏ lại trong cá nhân được khuôn nắn nửa vời (Halbbildung), buông tuồng, thân mật thô thiển, vụng về - sẽ lộ ra. Thông thường, nó còn được hợp lý hóa như là cận nhân tình (Humanität), như mong muốn làm cho người khác hiểu được mình, như một sự chịu trách nhiệm từng trải thế giới. Nhưng việc hy sinh kỷ luật tinh thần lại quá dễ dàng đối với kẻ vồ lấy nó, đến mức không thể tin được rằng đó thực sự là một hy sinh. Điều này lộ rõ ở những trí thức có hoàn cảnh vật chất thay đổi: ngay khi họ tự thuyết phục mình rằng phải kiếm sống chỉ bằng viết lách và không gì khác, họ liền tung ra thế giới cùng một thứ rác rưởi - giống nhau đến sắc thái nhỏ nhất - mà khi còn được no đủ họ đã kịch liệt nguyền rủa. Giống hệt những kẻ lưu vong từng giàu có cuối cùng cũng có thể trở nên keo kiệt trên đất khách đúng như họ luôn khao khát ở quê nhà, những kẻ nghèo khó tinh thần cũng hồ hởi bước vào địa ngục, vốn chính là thiên đường của họ.

 

9

Trên hết là thế này, con ạ. – Sự vô luân (Unmoral) của lời nói dối không nằm ở chỗ nó xâm phạm sự thật thiêng liêng. Một xã hội vốn buộc những thành viên của nó phải phơi mình bằng ngôn ngữ chỉ để khống chế họ nhanh hơn không có quyền viện đến cái sự thật ấy. Sự giả dối phổ quát (universale Unwahrheit) không được đòi hỏi sự thật cá biệt, trong khi ngay lập tức đảo ngược sự thật đó thành chính đối nghịch của nó. Dẫu vậy, vẫn có cái gì ghê tởm bám chặt lấy lời nói dối; và cho dù ý thức về điều này từng bị roi vọt ngày xưa đánh vào, điều đó đồng thời cũng nói lên một cái gì về kẻ chúa ngục (Kerkermeister). Sai lầm nằm ở chỗ quá nhiều thành thật. Kẻ nào nói dối thì thấy xấu hổ, bởi trong mỗi lời nói dối, hắn phải cảm nhận sự nhục nhã của trật tự thế giới buộc hắn phải nói dối nếu hắn muốn sống, trong khi lại hát vào tai hắn bài ca “Üb immer Treu’ und Redlichkeit” [“Hãy luôn trung thành và ngay thẳng”, ca khúc do Mozart phổ nhạc]. Chính sự hổ thẹn ấy rút cạn sức mạnh của lời nói dối nơi những kẻ được khuôn tạo tinh tế hơn. Họ dối trá một cách vụng về, và chỉ bởi vậy mà lời nói dối mới thực sự trở thành vô luân đối với kẻ khác. Nó ngầm bảo rằng họ coi kẻ kia là ngu ngốc, và như thế tức là khinh miệt. Trong tay những phường ma mãnh ngày nay, lời nói dối từ lâu đã đánh mất chức năng thành thật của nó: nghĩa là che đậy một cái gì thật. Chẳng ai tin ai, ai cũng đã biết tỏng. Người ta chỉ nói dối để cho kẻ khác hiểu rằng họ chẳng hề quan trọng, rằng mình không cần đến họ, rằng mình chẳng quan tâm họ nghĩ gì. Lời nói dối, từng là phương tiện tự do của giao tiếp, đã trở thành một trong những kỹ thuật của sự trâng tráo, qua đó mỗi cá nhân gieo rắc cái lạnh lẽo, trong bóng che của nó họ sinh sôi phát đạt.

 

10

Tách biệt - hợp nhất. – Hôn nhân, mà sự vờ vĩnh nhục nhã của nó vẫn còn sống sót trong một thời đại đã rút bỏ nền tảng của quyền con người về hôn nhân (Menschenrecht der Ehe) ngày nay phần lớn là một mánh khóe của sự tự bảo tồn: ở bên ngoài, cả hai kẻ đồng mưu đều đẩy trách nhiệm về mọi điều xấu xa mình gây ra cho người kia, trong khi trên thực tế họ tồn tại cùng nhau theo một lối lầy nhầy ngầu đục. Hôn nhân duy nhất đúng đắn là hôn nhân trong đó cả hai đều có đời sống riêng, không phải sự hòa trộn theo kiểu cộng đồng lợi ích mang tính cưỡng chế về kinh tế mà là sự gánh vác trách nhiệm lẫn nhau xuất phát từ tự do. Hôn nhân như một cộng đồng lợi ích tất yếu đồng nghĩa với sự hạ nhục các bên tham dự, và cái giả trá trong cấu trúc thế giới (Welteinrichtung) nằm ở chỗ không ai, ngay cả khi biết rõ điều đó, có thể tránh khỏi sự hạ nhục này. Đôi khi người ta có thể nghĩ rằng chỉ những ai được giải phóng khỏi sự theo đuổi lợi ích - tức là người giàu - mới giữ được khả thể của một cuộc hôn nhân không ô nhục. Nhưng khả thể ấy hoàn toàn chỉ mang tính hình thức, bởi chính những kẻ đặc quyền đó lại là những kẻ mà việc theo đuổi lợi ích đã trở thành bản tính thứ hai - nếu không thì họ đã chẳng giữ nổi đặc quyền của mình.

 

11

Bàn và giường. – Một khi con người - ngay cả những người tốt bụng, thân thiện và có học - ly hôn, một đám bụi sẽ bốc lên, phủ trùm và làm đổi màu mọi thứ nó chạm vào. Như thể toàn bộ phạm vi của sự thân mật, sự tin cậy vô tư của đời sống chung đã biến thành một chất độc hiểm ác ngay khi những mối quan hệ vốn đặt nền trên nó bị phá vỡ. Sự thân mật giữa con người với nhau chính là sự bao dung, nhẫn nại, nơi nương náu cho những dị tính và khác biệt. Một khi bị lôi luột ra ánh sáng thì cái yếu trong nó tự khắc lộ rõ, và trong một cuộc ly hôn, sự phơi bày ấy là không thể tránh. Nó chiếm lấy toàn bộ hồ sơ của sự thân thuộc. Những thứ từng là dấu hiệu của chăm chút yêu thương, từng là hình ảnh của hòa giải, bỗng tách mình ra như những giá trị tự thân và phơi bày bộ mặt xấu xa, lạnh lẽo và tàn phá của chúng. Sau khi chia tay, các giáo sư xông vào nhà vợ cũ để cướp đi vài món đồ trên bàn viết; các quý bà sang trọng thì tố cáo chồng cũ trốn thuế. Nếu hôn nhân từng là một trong những cơ hội cuối cùng để xây dựng tế bào nhân tính trong cái chung phi nhân thì khi nó sụp đổ, cái chung ấy sẽ trả thù bằng cách chiếm lấy cái tưởng chừng là ngoại lệ, đặt nó dưới quyền lực của những trật tự xa lạ như luật pháp và sở hữu và chế nhạo những kẻ từng tưởng mình an toàn trước chúng. Những gì được bảo vệ bỗng biến thành đạo cụ tàn nhẫn của tình trạng bị phó mặc, bị vứt bỏ. Ban đầu càng rộng rãi, càng không tính toán sở hữu và ràng buộc bao nhiêu thì về sau sự nhục nhã càng khủng khiếp bấy nhiêu. Bởi chính trong lĩnh vực chưa được xác định về mặt pháp lý ấy mà cãi vã, vu khống và những xung đột lợi ích triền miên sinh sôi. Tất cả những thứ ám muội làm nền móng cho thiết chế hôn nhân - quyền định đoạt man rợ của đàn ông đối với tài sản và lao động của phụ nữ, sự áp chế tình dục cũng man rợ không kém - tất cả những thứ đó sẽ lần lượt bò ra khỏi hầm và móng nhà khi căn nhà bị phá hủy. Những người từng kinh nghiệm một cái chung tốt đẹp trong sự thuộc về nhau nay bị buộc phải xem chính mình như phường vô lại, phải nhận ra rằng họ chẳng khác gì cái chung hèn hạ tràn lan ngoài kia. Trong ly hôn, cái chung (das Allgemeine) hiển lộ như dấu ô nhục của cái đặc thù (das Besondere), bởi trong xã hội này, cái đặc thù - tức hôn nhân - không thể hiện thực hóa cái phổ quát đích thực.

 

12

Inter pares.[1] – Trong lĩnh vực ái tình, dường như một cuộc đảo ngược giá trị đang diễn ra. Dưới chủ nghĩa liberalism, cho đến tận thời chúng ta, những ông chồng thuộc giai tầng thượng lưu bất mãn với những bà vợ được giáo dưỡng nghiêm ngặt và luôn đúng mực thường bù đắp bằng cách tìm đến các nữ nghệ sĩ, các cô Bohémienne, những nàng đường mật (süße Mädel) và các cô cốt [Kokotte/ gái bao quý tộc]. Cùng với quá trình duy lý hóa của xã hội, khả năng về thứ hạnh phúc vô kỷ luật ấy đã biến mất. Cô cốt tuyệt chủng, còn những nàng đường mật có lẽ chưa từng tồn tại ở các xứ Anglo-Saxon và những quốc gia văn minh kỹ trị tương tự. Các nữ nghệ sĩ và tầng lớp Bohème ký sinh trên văn hóa đại chúng thì lại bị lý trí của chính nó thấm tận xương, đến mức kẻ nào chạy trốn tới xung năng vô trị trong nàng - tới khả năng sử dụng tự do thân thể nàng - thì lại có nguy cơ bừng tỉnh trước nghĩa vụ phải thuê nàng làm trợ lý hoặc ít nhất giới thiệu nàng với một nhà sản xuất phim hay biên kịch mà mình quen.  Những người duy nhất còn có thể tự cho phép mình một thứ tình yêu phi lý lại chính là những quý bà mà các ông chồng từng bỏ trốn và chạy đến Maxim [nhà hàng Paris trứ danh] để quên đi. Nếu với chồng mình - lỗi tại họ - họ nhàm chán chẳng khác nào các bà mẹ, thì với những đàn ông khác, họ vẫn có thể ban tặng ít ra là điều mà tất cả những người khác không mang lại được cho họ. Dạng phụ nữ trác táng từ lâu đã trở nên lạnh lùng nay đại diện cho thương trường; còn dạng phụ nữ đoan trang, được giáo dưỡng tốt, thì trở thành hiện thân của khao khát dục tình phi lãng mạn. Và thế là, rốt cuộc, các quý bà thượng lưu nhận về mình vinh dự của nỗi nhục - chính vào lúc không còn chẳng còn xã hội thượng lưu nào và cũng chẳng còn quý bà nào nữa.

 

13

Bảo vệ, giúp đỡ và lời khuyên. – Mọi trí thức sống trong cảnh lưu vong, không trừ ai, đều bị tổn thương, và nếu không muốn phải chịu những bài học tàn nhẫn phía sau cánh cửa kín mít của lòng tự trọng thì tốt hơn hết là nên sớm tự mình nhận ra điều đó. Họ sống trong một môi trường về cơ bản không thể xuyên thấu, dẫu họ thông thạo đến đâu các nghiệp đoàn hay giao thông. Họ bị kết án mãi mãi lạc. Giữa việc tái sản xuất cái sống của mình dưới độc quyền của văn hóa đại chúng và công việc gắn với trách nhiệm, mang tính chuyên môn tồn tại một hố ngăn bất khả điều hòa. Ngôn ngữ của mỗi người trong họ bị tước đoạt, và cái rễ lịch sử từng nuôi dưỡng năng lực nhận thức của họ đã bị nhổ phăng. Sự cô lập càng trở nên nghiệt ngã khi những nhóm khép chặt và kiểm soát chính trị hình thành, nghi kỵ chính thành viên của mình và thù địch với những kẻ bị coi là thuộc nhóm khác. Phần thặng dư xã hội được phân bổ cho người ngoài chẳng bao giờ đủ, khiến họ phải lao vào một cuộc cạnh tranh thứ bậc tuyệt vọng với nhau, ngay giữa cuộc cạnh tranh chung của xã hội. Tất cả điều đó hằn dấu lên từng cá nhân. Kẻ thoát khỏi nỗi nhục bị san phẳng thành mẫu số chung thấp nhất [Gleichschaltung: “đồng hóa/ san bằng” – khẩu hiệu tuyên truyền khét tiếng của Quốc xã] thì lại mang chính tình trạng ngoại lệ đó như một dấu hiệu riêng: một tồn tại hư ảo và không thực trong tiến trình sống của xã hội. Quan hệ giữa những kẻ bị ruồng rẫy còn nhiễm độc hơn giữa những kẻ đã an vị. Mọi thước đo đều sai lệch, mọi tầm nhìn đều mờ nhòe. Cái riêng tư chen lấn sai chỗ, hối hả, mang bóng dáng ma cà rồng - chính vì nó không còn thực sự tồn tại và co giật muốn chứng minh điều ngược lại. Cái công cộng thì bị giao nộp cho lời thề trung thành bất thành văn trên diễn đàn. Ánh mắt trở nên vừa cuồng loạn vừa lạnh lẽo trong nỗ lực chiếm giữ, nuốt lấy, chỉ huy ấy. Chẳng gì giúp được, ngoại trừ việc kiên định chẩn đoán chính mình và người khác, nỗ lực ý thức - không phải để lẩn tránh tai họa mà để tước khỏi nó sự bạo tàn nghiệt ngã của mù quáng. Người ta phải cực kỳ cẩn trọng khi chọn vòng tròn thân thiết của mình, trong chừng mực còn có thể chọn. Trước hết phải đề phòng việc tìm đến những người có ảnh hưởng, từ họ ta có thể “trông đợi điều gì đó.” Con mắt dò tìm lợi ích tiềm năng là kẻ thù không đội trời chung của mọi quan hệ xứng đáng với phẩm giá con người; dù từ những quan hệ ấy có thể nảy sinh đoàn kết và tương trợ, chúng không bao giờ có thể bắt nguồn từ những toan tính vụ lợi. Không kém nguy hiểm là những hình ảnh phản chiếu của quyền lực: những kẻ nịnh bợ, tay sai, đỉa bám - những kẻ tự làm mình dễ chịu trong mắt người có điều kiện tốt hơn mình, theo một cung cách cổ xưa đến mức chỉ có thể sinh sôi trong điều kiện kinh tế ngoài lãnh thổ của đời sống lưu vong. Dẫu mang lại vài lợi ích nhỏ nhoi cho người bảo trợ, chúng cũng kéo người đó xuống ngay khi được chấp nhận - một cám dỗ luôn rình rập, càng dữ dội hơn bởi chính sự bất lực vụng về của kẻ lưu vong. Nếu ở châu Âu, cử chỉ huyền bí đôi khi chỉ là cái cớ cho lòng vị kỷ mù quáng, thì trong lưu vong, khái niệm austérité (khắc khổ) tuy cũ mèm và chẳng mấy vững chãi, lại có vẻ là chiếc thuyền cứu nạn chấp nhận được nhất. Nhưng chỉ rất ít người có được nó với chất lượng đáng tin cậy. Còn đa số, một khi bước lên, chỉ đối diện cái chết vì đói - hoặc vì điên.

 

14

Le bourgeois revenant.[2] – Các chế độ phát xít nửa đầu thế kỷ XX đã, hết sức phi lý, củng cố một hình thức kinh tế lỗi thời và nhân gấp bội nỗi kinh hoàng mà hình thức đó cần để tiếp tục tồn tại, vào đúng lúc sự vô nghĩa của nó lộ ra ánh sáng. Đời sống riêng cũng phải mang dấu ấn của điều đó. Cùng với tầm với của bộ máy hành chính, trật tự ngột ngạt của cái riêng tư, chủ nghĩa lợi ích cục bộ (Partikularismus der Interessen), hình thức gia đình đã lỗi thời từ lâu, quyền sở hữu và phản chiếu của nó trong tính cách - tất cả lại được gia cố lần nữa. Nhưng kèm theo đó là cảm giác tội lỗi, ý thức về giả dối hầu như chẳng còn có thể che giấu. Những gì từng là tốt đẹp trong bürgerlich (tinh thần thị dân) - độc lập, kiên gan, biết lo xa, thận trọng - đều đã mục ruỗng đến cốt lõi. Bởi trong khi các hình thức tồn tại bourgeois được bảo vệ một cách ngoan cố thì điều kiện kinh tế cho tồn tại ấy đã không còn. Cái riêng tư (private) hoàn toàn trở thành cái privative (thiếu thốn, bị tước đoạt), vốn là bản tính bí mật của nó ngay từ đầu; và trong sự bám chặt ngu ngốc vào lợi ích riêng ấy đã hòa lẫn cơn điên giận bởi nhận ra rằng người ta đâu còn đủ sức nắm giữ nó nữa, rằng lẽ ra mọi thứ có thể khác đi, tốt đẹp hơn. Bürger (thị dân) đã đánh mất sự ngây thơ của mình, và chính vì thế càng ngoan cố, độc ác hơn bao giờ hết. Bàn tay gìn giữ khu vườn con con, chăm chút nó như thể nó vẫn chưa biến thành một lô bất động sản, nhưng lại sợ hãi xua đuổi kẻ lạ - đó chính là bàn tay chối từ cho người tị nạn chính trị một nơi trú ẩn. Bị đe dọa theo lối khách quan, giới tinh hoa quyền lực và tay chân của họ lại trở nên hoàn toàn vô nhân tính theo lối chủ quan. Đó là cách họ tự đi đến đúng bản tính mình và biến ý chí hủy diệt của tiến trình lịch sử thế giới thành của riêng. Bürger vẫn tiếp tục sống như những bóng ma gieo rắc tai ương.

 

15

Le nouvel avare.[3] – Có hai dạng hà tiện. Một là dạng cổ xưa, dục vọng không để cho mình cũng như người khác được hưởng gì, mà diện mạo đã được Molière lưu truyền mãi mãi và Freud gọi là tính cách hậu môn (analen Charakter). Nó kết tinh ở hình tượng miser, tên ăn mày bí mật sở hữu hàng triệu, cái mặt nạ khắc khổ của khalip ẩn danh trong cổ tích. Kẻ ấy có họ hàng với nhà sưu tầm, kẻ cuồng si hay người tình vĩ đại - như Gobseck với Esther [nhân vật trong Balzac]. Thỉnh thoảng ta vẫn gặp hắn như những chuyện lạ trên trang tin địa phương. Hà tiện ngày nay thì khác: chẳng gì là quá đắt với chính họ, nhưng với kẻ khác thì mọi thứ đều quá đắt. Họ suy nghĩ bằng các tương đương trao đổi, và toàn bộ đời sống riêng tư của họ nằm dưới luật này: cho đi ít hơn những gì nhận lại, nhưng bao giờ cũng vừa đủ để vẫn nhận lại cái gì đó. Mọi sự tử tế mà họ ban ra đều mang dấu ấn bất thành văn: “có cần thiết không?”, “có thật sự phải làm thế không?” Dấu hiệu chắc chắn nhất của họ là sự vội vã đáp lễ mọi ân cần đã nhận, nhằm không tạo ra khe hở nào trong chuỗi trao đổi có khả năng gây thiệt. Bởi với họ mọi thứ đều rational (hợp lý), đúng lẽ, nên khác với Harpagon hay Scrooge, họ không thể bị vạch trần, cũng chẳng thể được cải hóa. Sự tử tế của họ lại chính là thước đo cho sự không khoan nhượng của họ. Đến lúc cần, họ sẽ chứng minh mình đúng theo lối không thể bác bỏ và sẵn sàng đổi trắng thay đen, trong khi nỗi cuồng của kẻ hà tiện thời xưa vẫn luôn hàm chứa khả năng cứu chuộc: vàng cất trong két sẽ thu hút kẻ trộm, và dục vọng của họ chỉ được xoa dịu trong mất mát, hy sinh - giống như dục vọng chiếm hữu ái tình chỉ được thỏa trong sự tự hiến. Kẻ hà tiện mới thì không còn khổ hạnh như một hình thức thái quá nữa mà hết sức cẩn trọng. Họ đã mua bảo hiểm.

 

16

Về biện chứng của sự tinh tế. – Goethe, người rất ý thức được mối nguy của tính bất khả nơi mọi quan hệ con người trong xã hội công nghiệp đang ló dạng, đã cố gắng trình bày trong những truyện Wilhelm Meister rằng Takt (sự tinh tế) là lối thoát cứu rỗi giữa những con người bị tha hóa. Lối thoát ấy đồng nhất với sự cự tuyệt, với việc từ bỏ sự gần gũi trọn vẹn, cuồng nhiệt và hạnh phúc không sứt mẻ. Nhân bản, đối với ông, nằm ở sự tự hạn chế biến tiến trình lịch sử không thể tránh thành sự nghiệp của mình, biến tính phi nhân của tiến bộ - sự cằn cỗi của chủ thể - thành điều được cảm thông. Nhưng những gì đã xảy ra từ đó khiến ngay cả sự từ bỏ kiểu Goethe cũng trở nên như là viên mãn. Sự tinh tế và tinh thần nhân bản - vốn là một ở ông - nay đã đi đúng con đường mà theo niềm tin của Goethe lẽ ra chúng phải ngăn chặn. Bởi lẽ Takt có một thời điểm lịch sử chính xác. Đó là thời điểm thị dân được cá thể hóa thoát khỏi cưỡng bách quân chủ chuyên chế. Tự do và cô độc, nó bảo đảm cho chính mình, trong khi những hình thức tôn ti và kính trọng do chủ nghĩa chuyên chế phát triển, bị tước bỏ nền tảng kinh tế và sức đe dọa của chúng, vẫn còn đủ hiện diện để làm cho đời sống chung trong các nhóm đặc quyền còn có thể chịu đựng được. Giao thoa nghịch lý giữa chuyên chế và tự do ấy có thể cảm nhận khắp nơi - trong Wilhelm Meister, trong thái độ của Beethoven đối với các sơ đồ sáng tác truyền thống, và cả trong logic của Kant: sự tái lập đều đặn của Beethoven sau các đoạn triển khai dữ dội, việc Kant dẫn xuất các phạm trù kinh viện từ nhất thể của ý thức - tất cả đều “tinh tế” theo nghĩa cao nhất. Điều kiện tiên quyết của Takt là quy ước đã bị bẻ gãy nhưng vẫn còn hiện diện. Giờ thì quy ước ấy đã rơi vào cảnh không thể cứu vãn và chỉ còn sống trong sự nhại các hình thức, một phép tắc bịa đặt tùy tiện hoặc nhớ nhầm dành cho kẻ dốt nát, như những mục khuyên bảo chẳng ai mời trên tạp chí; trong khi sự đồng thuận từng nâng đỡ các quy ước ở thời điểm nhân bản của chúng đã chuyển sang sự tuân thủ mù quáng của chủ xe hơi và người nghe radio. Thoạt nhìn, sự tàn lụi của nghi lễ dường như có lợi cho Takt. Nó được giải phóng khỏi mọi cái dị biệt áp đặt bên ngoài, và hành xử tinh tế sẽ hoàn toàn dựa vào đặc điểm cụ thể của từng quan hệ người-người. Nhưng sự tinh tế được giải phóng ấy lại gặp đúng khó khăn mà chủ nghĩa danh xưng gặp ở mọi nơi. Takt không đơn giản chỉ là chuyện phục tùng các quy ước nghi lễ: chính các nhà nhân bản mới luôn đặt quy ước dưới bóng mỉa mai. Công năng của Takt cũng nghịch lý như vị trí lịch sử của nó. Nó đòi hỏi một hòa giải thực ra là bất khả giữa yêu sách không thể xác nhận của quy ước và yêu sách ngoan cường của cá nhân. Không thể đo Takt bên ngoài quy ước. Quy ước, dẫu bị làm loãng đến đâu, vẫn đại diện cho cái chung (Allgemeine), chính là nền tảng của yêu sách cá nhân. Takt là một sự xác định bằng sự khác. Nó tồn tại trong những sự lệch tự biết là lệch. Nhưng khi Takt đã được giải phóng đối diện với cá nhân như tuyệt đối, mà không còn cái chung nào để xác định sự lệch và khác, nó thất bại với chính cá nhân và cuối cùng phản bội cá nhân. Câu hỏi thăm sức khỏe, không còn được giáo dục quy ước, trở thành dò xét hoặc xúc phạm; im lặng về những chủ đề nhạy cảm trở thành sự thờ ơ rỗng tuếch ngay khi không còn quy tắc nào chỉ ra cái gì được phép nói và cái gì không. Các cá nhân bắt đầu, không phải không có lý, phản ứng thù địch với Takt: kiểu lịch sự khiến họ không cảm thấy mình được xem như con người mà đánh thức ở họ linh cảm về tình trạng phi nhân mà họ đang chịu đựng, và người lịch sự có nguy cơ bị xem là bất lịch sự vì anh ta còn sử dụng phép lịch sự như một đặc quyền lỗi thời. Cuối cùng, Takt thuần cá nhân, đã được giải phóng, trở thành thuần dối trá. Những gì Takt nhắm đến trong cá nhân ngày nay chính là điều nó cẩn thận giấu đi: quyền lực thực tế và hơn nữa là quyền lực khả thể mà mỗi người hiện thân. Đằng sau đòi hỏi phải đối diện với cá nhân như cá nhân, không tiền đề, theo lối tuyệt đối, là sự kiểm soát căng thẳng: rằng mỗi lời đều phải ngầm báo cáo xem người nghe tới chiếm vị trí gì trong hệ thứ bậc ngày càng cứng lại mà tất cả đều bị khép chặt vào, và cơ may của người nghe là gì. Chủ nghĩa danh xưng của Takt giúp cho cái chung trần trụi nhất - quyền lực định đoạt - chiến thắng ngay trong những cấu hình thân mật. Việc xóa bỏ quy ước như trang trí lỗi thời, vô ích và bề ngoài chỉ củng cố cái bề ngoài nhất: đời sống của sự thống trị trực tiếp. Sự mất đi hình bóng méo mó ấy của Takt trong thứ tình chiến hữu xô đẩy nhau như một trò nhạo báng tự do khiến tồn tại càng không thể chịu đựng nổi: thêm một dấu hiệu nữa cho thấy sự chung sống của con người trong các điều kiện hiện tại đã trở nên bất khả đến mức nào.

Anh Hoa dịch

[1] Tiếng Latinh: giữa những kẻ ngang hàng.

[2] Tiếng Pháp trong nguyên bản: bourgeois trở lại.

[3] Tiếng Pháp: Người hà tiện mới.

 

tiểu luận & châm ngôn

Tâm hồn và Hình thức

Lịch sử (ngắn) văn chương Đức

Nghĩ

Đoản luận: Văn chương

Đoản luận về Giáo dục

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công