Melville: Mardi (kỳ 6)
Tiếp tục phơi ơ tông Mardi, kỳ đầu tiên ở kia. Sau quãng biển lặng dài và cuộc lênh đênh cùng cá mập chúa (kỳ 5) là cuộc gặp thực sự: chính ở đây ta thấy đối lập giữa Ông Giời, hậu duệ của nòi Viking vương giả và chàng trẻ tuổi mà ông phục vụ trong việc tiếp cận cái chưa biết. Cũng bắt đầu thấy dấu vết của Jonathan Swift trong hình dung tổng thể.
CHƯƠNG XIX
AI ĐÓ?
Mái chèo của Jarl đã đánh mười sáu khấc trên tay cầm, vào một buổi tối nọ, khi vầng mặt trời khuếch đại chạm vào vành đường chân trời, quan sát thấy những xà buồm cao nhất trên một con tàu, để vết như mạng nhện áp vào chiếc đĩa màu son tươi. Trông nó như một con tàu ở đằng xa đang bốc cháy.
Khi ngoài khơi thời tiết sáng sủa, một lá buồm, vốn vô hình giữa ban trưa ngập nắng, bỗng trở nên rõ rệt khi hoàng hôn. Đây là sự đảo ngược của buổi sáng. Trong tầm rạng đông xám, con tàu đằng xa, dù thực tế đang tiến gần, lại dần dần biến mất khỏi tầm mắt, khi mặt trời càng lúc càng lên cao. Điều này đúng không chỉ với tàu thuyền, mà còn với nhiều thứ xa xăm khác: càng rọi nhiều ánh sáng vào, bạn càng không thấy gì. Những lúc nhập nhoạng, lại có những mặc khải hiện ra rõ nhất.
Sự xuất hiện của người lạ khiến chúng tôi không khỏi sửng sốt. Nhưng Jarl thì bừng sáng lên như thể cuộc gặp là điều đã mong đợi từ lâu, nét mặt rạng rỡ và đầy hy vọng. Tuy vậy, ông nhanh chóng thay đổi thái độ khi nhận ra tôi đang quyết tâm tránh né cuộc chạm mặt ấy.
Ngay lập tức, chúng tôi hạ buồm; và Jarl - vẫn đang chần chừ, tôi đặt các mái vào cọc chèo; và, cả hai cùng chèo, chúng tôi đi chéo khỏi đường cũ.
Tôi đoán rằng con tàu ấy là tàu săn cá voi; rất có thể nhờ ống nhòm mà người canh gác trên boong đang dùng để quét ngang chân trời, họ đã trông thấy chúng tôi, nhất là khi chúng tôi đang ở hướng đông so với tàu, mà vào lúc hoàng hôn chính là hướng thuận lợi nhất cho việc nhận ra một đối tượng xa tít ngoài biển. Đã vậy, tấm buồm của chúng tôi còn trắng như tuyết và lồ lộ nữa. Nói cho đúng, chúng tôi không thể chắc đấy là loại thuyền nào; nhưng dẫu có là gì, riêng tôi không hề có ý định liều lĩnh đụng độ, bởi rõ ràng nếu người lạ tiến đến gần trong tầm gọi thì sẽ chẳng có phương sách nào khác ngoài phải móc nối tài sản của chúng tôi với nó, trong khi tôi chẳng mong được theo tàu nào ngoài chiếc thuyền Dê Biển. Còn về phần Ông Giời, ông cứ ngoái vai nhìn đăm chiêu, nhất định đang cầu Trời cho chúng tôi không thể thoát được thứ mà tôi gắng tránh.
Tuy nhiên, quan sát kỹ hơn, tôi khá chắc chắn rằng con tàu kia rốt cuộc đang đi theo hướng gần như chính tây - xa khỏi chúng tôi, chúng tôi lắp lại buồm; và khi màn đêm buông xuống, ông Viking của tôi khẩn nài, thêm trí tò mò của riêng tôi ủng hộ, xui tôi phải quay lại đường đi ban đầu để theo sau con tàu, để được nhìn con tàu rõ hơn, mà không có nguy cơ bị phát hiện. Thế là chúng tôi đánh liều giong buồm đi tới.
Nhưng con tàu đi không được nhanh lắm, mặc cho làn gió nhẹ (một hoàn cảnh thuận lợi cho chúng tôi: đuổi theo một con tàu, và chúng tôi chỉ là một chiếc thuyền), theo lời gợi ý của đồng bạn tôi, chúng tôi thêm sức chèo vào cùng sức buồm, sẵn sàng đưa chúng tôi theo đường cũ, mặc kệ cần lái.
Khi đến gần hơn, chúng tôi thấy rõ rằng con tàu không phải tàu săn cá voi mà là một con tàu nhỏ, hai cột buồm - nói gọn là tàu brigantine. Các lá buồm của nó ở trong tình trạng lộn xộn khó hiểu; chỉ có mỗi buồm mũi, buồm chính, buồm tam giác là được giương lên. Buồm mũi thì tả tơi quá; và buồm tam giác thì mới kéo được một nửa dây buồm, lười nhác phất phới, ngọn gió từ lan can đuôi tàu thổi tới. Nó liên tục đi chệch khỏi đường; lúc thì hầu như lộ ra mạn tàu của nó, lúc thì hiện ra đuôi tàu.
Trải buồm lần nữa, chúng tôi ngồi ở mái chèo và nhìn con tàu dưới ánh sao. Nó vẫn lắc lư qua lại, rồi tiếp tục lặng lẽ trôi đi.
Không chỉ khiếp sợ với cảnh tượng ấy, lão Jarl mê tín còn bóng gió xa gần rằng ấy hẳn là một con tàu săn vàng, bị ma ám. Nhưng tôi bảo ông rằng nếu quả đúng như vậy, thì dù là vàng hay ma quỷ, chúng tôi cũng phải lên boong. Tuy nhiên, trong lòng tôi bắt đầu nghiêng về giả thuyết rằng con tàu đã bị thủy thủ đoàn bỏ lại; hoặc giả, do bệnh tật, những người còn trên tàu không còn đủ sức điều khiển nữa.
Sau một cuộc thăm dò rất lâu và đầy lo sợ, chúng tôi vẫn lại gần, bằng mái chèo, nhưng phần Jarl thì rất miễn cưỡng, vừa chèo vừa ngoái lại sau vai, như thể sắp sửa đậu chiếc Dê Biển nhỏ bé lên lưng cá voi như ngày xưa. Quả thực ông có vẻ sốt sắng muốn rời xa con tàu kia không kém gì trước đó đã mong mỏi được lại gần nó.
Lúc chiếc brigantine im lặng ấy một lần nữa xoay ngang, tôi hô lớn gọi. Không ai đáp. Một tiếng nữa. Nhưng hết thảy đều im. Với vài cú đập mạnh, chúng tôi tới gần, lại hô lên một tiếng, trong khi để chiếc Dê Biển dọc bên mạn, tôi cột chặt vào bao lơn chính của tàu. Tức thì chúng tôi cảm thấy con tàu đang kéo mình đi. Buộc chặt con thuyền của chúng tôi bằng dây kéo, tôi nhảy phóc qua lan can tàu, theo sau là Jarl, người đã chộp lấy cây lao móc, khí giới ưa thích của ông. Từ lâu đã dùng thứ vũ khí ấy để đánh bại những con quái vật biển sâu, ông chẳng hồ nghi nó sẽ cho tỏ ra đắc dụng trong bất kỳ cuộc chạm trán nào.
Boong tàu chỉ toàn rác. Lăn long lóc nào những vỏ trai ngọc, sọ dừa, các thùng tô-nô và hòm rỗng. Cần lái không ai đoái tới thì bị buộc lại; giải thích cho chuyện con tàu đi chệch hướng. Nhưng chúng tôi không hiểu nổi làm sao, khi gió thổi xuôi như vậy, con tàu lại có thể tự điều hướng trong một thời gian dài mà không cần người điều khiển. Dù vậy, gió vẫn nhẹ và ổn định.
Giờ đây, thấy tay lái bị buộc như vậy, tôi không thể không nghi ngờ sự im lặng đang thắng thế. Tôi dấy lên cái ý nghĩ về những kẻ vô lại nấp bên dưới, đang toan tính chuyện gian trá; những kẻ phiến loạn không nể nang ai, những người Lascars, hoặc Manilla; những người sau khi giết hại các thủy thủ Châu Âu trong đoàn, hẳn sẽ không vừa lòng để người lạ ra đi yên ổn. Hay còn tệ hơn, toàn bộ đoàn thủy thủ đã chết sạch do một trận sốt, mà nguồn lây nhiễm của nó vẫn còn tẩm trong thân con tàu độc. Và dù suy tưởng đầu tiên cũng như cuối cùng chỉ là một sự phỏng đoán, chúng tôi vẫn thấy khôn ngoan hơn cả là nên niêm phong các nắp hầm; và thế là, tạm thời, chúng tôi dùng mái chèo của thuyền mình để chặn chúng lại. Xong việc này, chúng tôi đi khắp boong tàu tìm nước. Và khi thấy một chiếc thùng tô-nô kềnh càng thì uống một hơi dài, thả cửa, cho thỏa cơn khát lòng.
Gió lúc bấy giờ mát lạnh, và cánh buồm rách có nguy cơ bị gió giật khỏi cột, nên chúng tôi đưa con brigantine xoay đầu đón gió, cuộn buồm lại. Điều này để cho chúng tôi được tự do xem xét con tàu, dẫu, chẳng may, màn đêm bắt đầu mờ sương.
Tất cả sự việc này xảy ra khi thuyền chúng tôi vẫn còn đang được kéo dọc mạn tàu; và tôi sắp sửa bỏ nó ở đằng đuôi, thì Jarl, luôn thận trọng, tuyên bố để nguyên đấy thì an toàn hơn, vì nếu có người ở trên tàu thì họ hẳn là ở bên dưới cabin, và từ các cửa sổ trập của buồng lái, họ có thể gây tổn hại cho Dê Biển.
Chính lúc ấy, Jarl nhận ra con brigantine không có thuyền cứu hộ, một chi tiết bất thường của bất kỳ con tàu nào lênh đênh trên biển. Nhưng khi nhận thấy điều này, tôi hài lòng quá chừng. Chuyện có lẽ như tôi đã nghĩ, vì cớ này cớ nọ, con tàu chắc hẳn đã bị thủy thủ đoàn bỏ mặc. Và ở một mức độ lớn, điều này xua tan nỗi sợ bị chơi sau lưng và nỗi lo nhiễm bệnh. Được cổ vũ nhờ các suy ngẫm này, tôi quyết định đi xuống và khám phá cabin, dù nghịch lại với lời khuyên khẩn thiết của Jarl. Chắc chắn, như ông tha thiết nói, cái bậc thang ấy có thể để trời sáng rồi tính, nhưng chờ thì nhọc nhằn quá. Thế là tôi nhớ đến mồi lửa và mấy cây đèn cầy, tôi bảo ông ra thuyền lấy. Chẳng mấy chốc, hai cây đèn cầy đã được thắp lên; một cây thì Ông Giời buộc chặt ngay đầu nhọn cây lao móc để khi đi xuống thì mũi thép nhọn không ở xa quá, nếu có thằng hèn nào thổi tắt ánh đèn cầy.
Mở cửa thông cabin, chúng tôi bước xuống vào thứ sào huyệt chật chội và tối tăm nhất thế giới này. Dầm tàu giống như bàn thờ, phía trên là các cửa sổ trập ở đuôi tàu, cùng cửa sổ trần nho nhỏ mờ mờ trên đầu, và vẻ u tịch của mọi thứ chung quanh, làm cho không gian mang cái vẻ của một nhà nguyện dưới lòng đất nào đó, như Phòng Cầu Nguyện của Thánh Phê-rô Ẩn Sĩ chẳng hạn. Nhưng các cuộn dây neo, những súc vải buồm, những món áo quần và những rác rưởi bừa bãi chẳng ăn nhập gì với ấn tượng ấy. Hai cánh cửa, một cánh mỗi bên, dẫn vào các buồng nhỏ xíu, trong có các giường cũng đầy rác. Giữa đấy là một chiếc thùng lớn, được bọc sắt và kẹp chặt, gồm một két chứa thuốc súng, nửa thanh đoản kiếm cũ, một túi đạn và một va-li đựng kính lục phân - một thiếp đồng thau trên nắp với tên hãng chế tạo - London. Lưỡi thanh đoản kiếm gãy thì cùn và hen gỉ lắm và cán sắt thì cong oằn. Trông nó bi thảm đến độ tôi đẩy nó đi khuất mắt.
Tháo một cánh cửa sập, mở ra không gian bên dưới, được gọi là “đáy”, chúng tôi rọi thấy nhiều đoản kiếm và súng hỏa mai khác nhau, nằm một chỗ lần lượt sáu và bảy cây, như thể bị cất vội vào.
Đưa mắt liếc nhanh và hài lòng rằng qua vách cabin không có lối thông đến phần hầm tàu đằng mũi, chúng tôi gom lấy mấy cái khẩu súng hỏa mai và đoản kiếm, két thuốc súng và túi đạn, rồi gói chúng đưa lên boong, chuẩn bị kiểm tra đầu bên kia của tàu. Trước khi làm vậy, tôi đã nạp đạn một khẩu súng hỏa mai và nịt cây đoản kiếm vào bên hông. Nhưng ông Viking của tôi vẫn chuộng cây lao móc của ông hơn.
Ở trên boong mũi, sự hỗn độn tương tự ngự trị. Chỉ có một hang nhỏ kín đáo, nằm gọn vào một góc và được trang hoàng bằng một tấm thảm bằng cỏ và gối dựa, như những cái mà Dân Đảo các vùng biển này thường dùng. Cái hang nhỏ ấy đối với chúng tôi trông như thể một con báo nào đấy đã thu mình nằm bên trong. Và hóa ra chúng tôi không hề lầm. Xếp một bên trong hang này là một cái rương thủy thủ, được đóng chặt bằng một ổ khóa và lại còn nặng gớm. Bất chấp những lời khẩn nài của Jarl, tôi cũng xoay xở làm bật được nắp rương, từ đó lộ ra một tập hợp hổ lốn những mũ dành cho nữ và các đồ lặt vặt lạ lẫm đủ loại, cùng với tạp nhạp những chế phẩm thô từ vải calico, kiểu cắt kỳ quặc song vẫn mang một vẻ nữ tính nhất định, lại cả những mép váy báo hiệu chúng là y phục của một thụ tạo giống cái nào đó, nhiều khả năng nhất là thuộc loài người.
Cũng vẫn trong chiếc hộp cứng này là một túi vải bố, kêu leng keng những cúc áo hình chuông lâu ngày hen gỉ, những nút gài bằng đồng đã mục và đinh bọc, những đồng đô Carolus ẩm màu lục nhạt (đồng thật cả), ngoài ra còn những đinh vít sắt khác nhau, những cái đục dập méo và những đinh cọc tàu. Gõ lên nắp rương, các đồng đô kêu rõ như chuông tu viện. Jarl cẩn thận để riêng chúng sang một bên - chỉ cần thấy tiền thật là những nỗi nghi ngại mê tín của ông tạm tan biến. Trung thành với huyết mạch vương giả, ông yêu những đồng tiền thật dẫu rằng ngoài biển khơi, không có lấy một mảnh đất nào để tiêu tiền, thì số bạc ấy cũng chẳng khác gì than củi hay kim cương - tức là vô dụng. Các nhà hóa học nói rằng bạc và than gần như là một thứ; nhưng hãy thử nói điều đó với thủy thủ hay dân buôn đá quý mà xem. Đi đi, đi mà mua lấy một căn nhà, hoặc một con tàu, nếu có thể, bằng cục than của mày xem! Phải, hết thảy mọi khu rừng bên Canada hóa từ than xuống tro cũng chẳng đáng một viên kim cương Brazil trứ danh, dẫu chẳng lớn hơn một quả trứng chim bồ câu đưa thư. A! nhưng các nhà hóa học này nói dối, và Sir Humphrey Davy là một tay gian lận. Lắm kẻ tội nghiệp bị họ huyễn hoặc sa vào chuyện làm ăn than củi, những người hẳn đã có thể gầy dựng cả một gia tài với cái cuốc chim.
Dò dẫm bên trong rương lần nữa, chúng tôi moi ra được một thùng da nhỏ kỳ quặc, trơ trụi và lặc lìa. Ở mỗi góc là một cái kẹp sắt lớn, mà cân nặng của nó chắc chắn làm yếu đi cái hộp. Nó được bo bo đóng chặt bằng một móc khóa, to suýt soát cỡ cái hộp; vậy nên cái móc khóa gần như là một vấn đề, được dùng để bảo vệ cho cái hộp kia. Dốc sức nạy, cuối cùng chúng tôi cũng mở ra được; nhưng chẳng thấy đồng vàng moidores nào, đồng doubloon đỏ hây cũng không; chẳng có gì bên dưới gầm trời này ngoài ba cái cốc thiếc, những thứ ấy được dùng trong cabin tàu, vài đinh vít và đĩa bằng đồng, hẳn là của thước đo góc; cùng những hạt thủy tinh cả mớ và những nhẫn đồng thau trong khi, được dán ở lớp trong, một bản in màu nhỏ hình các gái điếm, những ả gái không biết thẹn mặt, đang đàn đúm với Đứa Con Hoang Đàng.
Lẽ ra cũng phải nói thêm rằng khi đang bận rộn ở boong mũi, đôi lần chúng tôi giật mình vì những tiếng động lạ bên trên. Và ngay sau đó, va mạnh vào thùng da nhỏ, một chiếc ròng rọc từ đỉnh cột buồm rớt xuống, xuyên ngay qua cửa sập, suýt nữa trúng đầu ông Viking của tôi, một vật rắn chắc hơn rất nhiều so với bất kỳ thứ mũ vàng nào mà thợ kim hoàn thời nay chế tác. Điều này khiến chúng tôi giật mình lắm; nhất là với Jarl, không ngoài dự đoán; nhưng vì tôi đã quen với những tiếng cót két và rò rè lạ lùng của những cột buồm và xà buồm trên các con tàu cũ và nhiều lần đã tránh được những ròng rọc rải rác chẳng may rơi xuống từ trên cao, tôi ít nghĩ về vấn đề này, dù ông bạn tôi dường như cho rằng những tiếng động ấy có phần khác với những tiếng mà ông từng nghe trước đây.
Sau khi lật giở thêm ít đống đồ lộn xộn trong khoang mũi và còn ngạc nhiên thêm vài phần nữa, chúng tôi đi lên boong chính; ở đó yên tĩnh đến mức, khi chúng tôi bước về phía đuôi tàu, Ông Giời bất giác chuyển sang thì thầm với tôi.
CHƯƠNG XX
NHỮNG TIẾNG ĐỘNG VÀ ĐIỀM BÁO
Tôi mong cho ngày đến. Vì dù lúc này có chiều tin rằng con tàu brigantine không có người, tôi vẫn khát khao ánh sáng mặt trời để xua tan hoàn toàn mọi nghi ngờ.
Trước khi lên tàu, tôi đã để ý thấy con tàu nằm khá thấp trên mặt nước, nên nghĩ cần thiết phải đo hầm tàu. Nhưng không có sẵn dây và chì dọi, tôi sai Jarl đi tìm trong rương đựng dụng cụ ở boong sau - chắc chắn phải có ở đó. Trong lúc ấy thì tôi đi tìm các “đập”, hay bơm tay, mà hóa ra gần đây có vẻ chẳng ai dùng - chúng được tìm thấy bị buộc dọc vào cột buồm chính.
Bỗng Jarl chạy về chỗ tôi, thì thầm rằng toàn bộ nghi ngờ đều đã bị xua tan; trên tàu có ma, chắc luôn. Ông đã vô tình nghe được một tiếng hắt hơi siêu nhiên. Nhưng lúc này tôi gần như đã tin chắc rằng chỉ có hai chúng tôi trên chiếc brigantine. Nếu có ai khác thì chẳng có lý do gì trên đời để họ phải trốn tránh hai thủy thủ đơn độc, những người mà nếu muốn, họ đã có thể dễ dàng khống chế. Vả lại, sự nhiễu loạn không khí trên cao do cái hắt hơi này, Jarl quả quyết đã xảy ra trên đài cột buồm chính, ngay chỗ tôi đứng bên dưới suốt nãy giờ mà chẳng nghe thấy gì. Thật đáng khen cho ông Viking của tôi về sự tinh nhạy vượt trội của hai vành lỗ nhĩ, tôi bảo ông thôi đừng phiền nhiễu bản thân ông bằng những hồn ma với cả yêu tinh giặc biển nữa, chúng làm gì xuất hiện ở đâu ngoại trừ trong trí tưởng tượng của ông.
Khi không tìm thấy dây câu và hòn chì; bằng đầu thừa của một đoạn dây chằng, chúng tôi trang bị thành một vật thay thế; và khi thám hiểm hầm, chẳng thấy có gì có thể làm cho chúng tôi hoảng hốt. Tuy nhiên, trong những tình huống nhất định, việc thám hiểm hầm tàu cũng đủ là một chuyện gây lo lắng. Nó giống như cảm thấy mạch đập của mình vào đoạn cuối cơn sốt.
Theo gợi ý của Ông Giời, chúng tôi quyết định cho tàu xoay đầu sang hướng gió đối diện. Trước khi trời sáng, chúng tôi muốn thay đổi vị trí của con tàu càng ít càng tốt, lo lỡ đâu gặp phải những rặng đá ngầm.
Và cũng nên nói thêm rằng, mặc cho bao linh cảm mê tín về con tàu, việc ông quy cho nó một thứ gì tương tự như ma, lão Jarl thực thà vẫn luôn vô cùng thực tế và dứt khoát trong mọi gợi ý và hành động liên quan đến nó. Theo cách ấy, ông giống như người bạn Đức Cha của tôi, Giám Mục Berkeley - quả thực là một trong những vị chủ chăn linh hồn - người mà, nói theo lẽ siêu hình, xem mọi đối tượng chỉ là những đánh lừa thị giác đơn thuần, tuy vậy lại cực kỳ xét thực trong mọi vấn đề liên quan đến bản thân vấn đề. Ngài vẫn cảm nhận được đầu nhọn của cây kim, và vẫn có khẩu vị biết thưởng thức bánh pudding mận: một câu đọc lên nghe như tiếng mưa đá rơi đồm độp.
Giờ đây, khi chúng tôi vào việc đặt mối nối quanh các xà buồm, Jarl thầm thì thấy phải quấy tôi lần nữa với những nghi ngờ chết tiệt của ông về yêu tinh trên tàu. Ông lấy cột buồm chính ra mà thề, rằng khi xà buồm mũi được xoay thì ông nghe thấy một tiếng rên nghèn nghẹt từ khu vực ấy, như thể con ngáo ộp của ông bị kẹt cái chân gió của nó. Tôi cười, nói bóng gió rằng yêu tinh chúng nó đâu có thân xác. Nhân đó ông van tôi đi đến giàn dây mũi tàu và tự mà kiểm tra xem. Nhưng lần này, lý trí trưởng thành đã thắng thế trước sự bốc đồng ban đầu. Tôi nhã nhặn từ chối. Vì dù sao thì, vẫn có khả năng - dù rất nhỏ - là có kẻ nào đó còn sống đang ẩn nấp ở đỉnh cột buồm mũi; và nếu tôi đang treo lơ lửng giữa không trung, tay đầy dây dợ, chân không chạm sàn, mà có một cánh tay vô hình đẩy tôi rơi khỏi sườn cột chéo nghiêng kia, thì tôi biết sẽ ra sao rồi. Vậy nên tôi giữ yên phần mình trong khi Jarl tiếp tục tuyên bố rằng mình đã quyết định xong về bản chất con brigantine này: nó là một con tàu giả hiệu trâng tráo, một cái bóng tàu, đầy hồn ma thủy thủ, và trước khi chúng tôi kịp hiểu chuyện gì, nó sẽ tan vào một cơn bão siêu nhiên, để lại hai chúng tôi trơ trọi giữa biển khơi. Nói gọn, Jarl, hậu duệ của những người Na-uy mê tín, đầy những tưởng tưởng Na-uy kỳ lạ cổ xưa và hết thảy tập quán của những kỳ quan Valhalla, bận trí đến vùng đất của những yêu tinh lẫn những cốc vàng. Chẳng trách rằng với tai họa sắp đến, ông lần nữa khẩn khoản cầu xin tôi bỏ con tàu xấu số này đi, đừng mang theo thứ gì khỏi thân tàu quỷ ma này. Nhưng tôi từ chối.
Ta chẳng thể thuật lại mọi thứ cùng một lượt. Khi đang ở trong cabin, chúng tôi gặp một “cây” bánh quy, và thấy nó chứa một món chất lượng vượt trội hơn loại của chúng tôi, chúng tôi bỏ đầy túi và lắm phen thấy mình ngang hàng vua chúa trong những đợt lùng sục. Giờ chúng tôi mang giỏ quà bánh biển khơi này lên boong. Và lần đầu tiên kể từ lúc chào vĩnh biệt con tàu Arcturion, sau khi được uống cho đã khát, khẩu vị của chúng tôi bỗng trở lại; và chẳng có gì hay ho hơn để làm cho đến khi trời sáng, chúng tôi đặt cây bánh giữa boong lái và bắt chéo chân trước nó, bao vây sát sạt, như vua Đại Thổ và Vizier Mustapha của ngài ngồi trước thành Viên.
Lâu đài của chúng tôi, cái Cây Bánh, thuộc loại thường thôi; một thùng gỗ sồi hình thuôn, bị móp méo và sứt mẻ quá, và như các Elgin Marbles, đầy những câu khắc và chạm nổi: những chiếc mỏ neo bẩn, những trái tim bị đâm xuyên, những niên lịch, Burton-blocks, thơ tình, những mắt xích, những quân Già, những lược đồ bí ẩn bằng phấn đủ loại, được các thủy thủ Phần Lan vẽ ra, trong khi đang đúc khuôn những tử vi và lời tiên tri. Các thủy thủ xưa của bạn là các tiên tri Daniel hết thảy. Cây bánh có một lỗ tròn ở một bên dùng để lấy bánh qua đó, mời mọc các thực khách cho tay vào.
Và vào đêm ấy, những cái đưa tay lấy bánh mới mạnh mẽ làm sao; đồng thời là những cái liếc nhìn báo hiệu của ngài Mustapha theo mỗi một tiếng cót két bất chợt của những xà buồm hoặc dây chằng. Hệt như Belshazzar, ông Viking vương giả của tôi ăn với nỗi lo sợ và run rẩy lớn lao; chốc chốc lại ngừng để canh những bóng hoang lướt dọc mạn tàu.
CHƯƠNG XXI
CÓ NGƯỜI!
Chầm chậm, chập chờn, buổi sáng đã rạng ở đằng Đông, lộ ra con tàu hai cột buồm tiêu điều dựng nặng nề qua làn nước, uể oải chịu thụi bên dưới mũi tàu. Khi tung vó từ biển này qua biển kia, chiếc Dê Biển trung thành của chúng tôi, như một chú chó trung thành, vẫn nhảy nhót sát bên, bị cột vào bao lơn chính bằng dây buộc thuyền của nó. Thi thoảng nó tụt một đoạn xa phía sau rồi lại được đẩy nhờ một ngọn sóng như chớp dội tới, cho đến khi được thắng dây cương, trở lại theo sau.
Khi làn ánh sáng xám nổi lên, chúng tôi lo lắng nhìn kỹ các đặc điểm của con tàu, từng chút từng chút một chúng hiện ra rõ ràng hơn. Mọi thứ giờ dường như kỳ lạ hơn lúc chỉ thấy mờ mờ trong màn đêm tối xỉn. Các cột chống sườn tàu hoặc các trụ ở hai bên mạn là những cọc thô, vẫn còn vỏ cây. Thành tàu chưa sơn, làm từ một loại gỗ sẫm màu, trông thật dị giáo và xa lạ. Cần lái là một cành cây to vẹo cổ, gấp khuỷu, thọc xuyên qua boong lái, như thể tự thân cây đã nhanh chóng đâm rễ dưới hầm tàu. Hộp la bàn thì được che chắn hai bên bằng thảm thô vàng. Dây neo buồm - dàn dây níu, các dây nâng buồm vân vân - thì làm từ “Kaiar” hay xơ dừa; và chỗ này chỗ kia thì các lá buồm được vá bằng những tết bấc.
Nhưng chưa hết. Người nào dò mò, người ấy phải có đèn soi vào chỗ ngờ vực. Liếc qua bên mạn, trong đường của mỗi lỗ thoát nước, chúng tôi thấy một vết ố đỏ, đã mờ, mà Jarl quả quyết là máu. Nhưng giờ đây ông chẳng lộ ra một chút run sợ nào, vì thứ ông nhìn thấy chẳng phải thứ gì ma quỷ và mọi nỗi lo sợ của ông đến nay đều là sợ thứ siêu nhiên.
Thật vậy, khi ngày mới vừa lên, người Viking của tôi bỗng trở nên gan góc như sư tử; và chẳng mấy chốc, với bản năng của người thủy thủ lành nghề, ông đưa mắt nhìn lên cao.
Ngay lập tức, ông đụng tay tôi, “Nhìn kìa: cái gì động cựa ở bao lơn chính vậy?”
Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, ở đó có thứ gì đó còn sống.
Chụp hai bàn tay, chúng tôi nhìn nó; khi trời sáng dần, thấy một kẻ lạ đang nép mình.
Giơ súng, tôi hô bảo hắn trèo xuống hoặc là bị bắn. Một khoảng lặng kéo dài, rồi một khẩu súng trường đen sì thò ra, nhắm thẳng vào đầu tôi. Ngay lúc ấy, cây lao móc của Jarl đã chuẩn bị găm một cú: hai chọi một; và tôi lại hô lên lần nữa. Nhưng vẫn không có tiếng đáp.
“Ngươi là ai?”
“Samoa,” một tiếng rõ, chắc.
“Xuống khỏi dây neo buồm. Chúng ta là bạn.”
Một khoảng lặng khác; thế rồi trỗi dậy, kẻ lạ chầm chậm leo xuống, một tay giữ dây neo buồm, vì tay hắn chỉ còn một tay; cây súng hỏa mai của hắn một phần thì quàng sau lưng, một phần thì kẹp chặt bên dưới mẩu tay tật.
Hắn đáp xuống độ sáu bước cách chỗ chúng tôi đứng; và giữ vũ khí của mình cho cân, giương mắt nhìn can đảm như hoàng tử Cid.
Hắn là một Dân Đảo tướng cao, đen, trông rất dữ, diện váy và khăn xếp theo lối rất kịch; váy vải calico họa tiết sặc sỡ, khăn đỏ vải lụa Tàu. Cổ hắn lúc lắc những xâu râu.
“Trên tàu này còn ai khác nữa?” Tôi hỏi trong khi Jarl - từ nãy đến giờ vẫn chĩa vũ khí vào kẻ lạ mặt - giờ hạ nó xuống boong.
“Kia kìa: Annatoo!” hắn đáp bằng thứ tiếng Anh bập bõm, chỉ lên đài cột buồm mũi. Thì này! Một phụ nữ, cũng là một Dân Đảo, tém các lớp váy, vận lối rất giống Samoa, trèo xuống.
“Còn nữa không?”
“Hết rồi.”
“Vậy các người là ai; và cái tàu này là gì?”
“À, à - ngươi không phải ma; nhưng ngươi có phải bạn ta?” hắn kêu lên, vừa tiến lại vừa nói; trong khi người phụ nữ, đã xuống boong, cũng đến gần; ngóng liếc.
Chúng tôi đã bảo chúng tôi là bạn, rằng chúng tôi chẳng cố hại ai nhưng muốn biết con tàu này là gì và cái họa gì đã ập xuống đây; vì có điều không may đã xảy ra, chúng tôi chắc chắn.
Tới đây, Samoa trả lời rằng quả thực có điều khủng khiếp đã xảy ra và rằng chàng sẽ vui lòng kể lại tất cả cho chúng tôi nghe, cho chúng tôi biết sự thật. Và chàng khởi sự mà rằng.
Giờ đây, câu chuyện của chàng được thuật lại theo lối dụng ngữ pha trộn của thủy thủ Polynesia. Cùng đôi ba suy ngẫm hú họa, nó sẽ được tìm thấy trong sáu chương kế tiếp.
Khương Anh dịch
đã kịp có thêm một cuộc đọc Melville và một người Mỹ nữa: Hawthorne (Gia Hải dịch)
Melville
Mardi (1849)
Jacket trắng (1850)
Người 'Gee (1853)
Người kéo vĩ cầm (1854)
Jimmy Rose (1855)
Ngắn (1855-1856)
Cúc-cà-cúc-cu (1856)
Tôi và ống khói của tôi (1856)
Nước Mỹ ấy
Hawthorne (1804–1864)
Edgar Allan Poe (1809–1849)
Thoreau (1817–1862)
Melville (1819–1891)
William James (1842–1910)
Henry James (1843–1916)
Edith Wharton (1862–1937)
Gertrude Stein (1874–1946)
Ezra Pound (1885–1972)
Philip Roth (1933 –2018)
Marilynne Robinson (1943)