favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Xuân 2025
Next

Melville: Mardi (kỳ 3)

15/04/2025 12:07

Kỳ trước, Jarl và tôi đã liều lĩnh rời tàu Arcturion giữa đêm, lặng lẽ hạ thuyền trong lúc cả tàu còn chìm trong giấc ngủ. Màn đào thoát ấy đẩy hai người thẳng vào lòng đại dương. Kỳ này (chương VII–X), hành trình trôi dạt bắt đầu: từ người thuộc về một con tàu, họ bắt đầu thực sự trở thành kẻ phiêu lưu ngây ngất hãi hùng. Cái chết hiện ra như người bạn đồng hành câm lặng.

kỳ 1
kỳ 2

 

Mardi 

- Herman Melville


CHƯƠNG VII
MỘT KHOẢNG NGỪNG

           

Acturion yêu dấu! Con tàu mẹ, đã ru ta quá thường trong lòng gỗ sồi của mi, ta đau lòng xót thương mà rằng ta đã bỏ rơi mi giữa lòng biển khơi bao la làm sao. Ở quá xa quê nhà, với đoàn người tạp nham, quá nhiều dân đảo, mà những lúng ba lúng búng ngoại giáo của họ văng vẳng khắp thân tàu Ki-tô giáo của mi, hẳn đã xát nạo ác nghiệt trên mỗi xà trần.

Tàu thương! hồn ma lẻ loi của mi giờ đang giong buồm đi đâu? Bởi ta chưa từng nghe tin gì về Arcturion quả cảm, từ cái giờ tối tăm chúng ta đi khỏi những ván tàu định mệnh ấy. Vào giờ giông bão nhất nào những con mòng biển đã gào lên, những xoáy nước chết đuối làm phần việc của nó, chẳng cần biết kẻ người trần mắt thịt nào. Con tàu lặng lẽ chìm, bất lực, xuống những vực thẳm lặng yên của biển hè năm ấy, bị những lưỡi gươm cá kiếm tàn nhẫn sát hại? Những chuyện như vậy đã từng xảy ra. Hay là con tàu có số phận khá khẩm hơn? Bị đánh gục khi đang dũng cảm chiến đấu với gió lớn; các buồm bão đã giương xong; vô lăng lái đã có người cầm và mỗi thủy thủ đều ở đúng chỗ mình, như tàu Ong Bắp Cày đã chìm xuống, mang theo người của nó ở các boong tàu, trong một cơn bão xa xăm nào đó.

Nhưng phỏng đoán thôi thì không có căn cứ. Một con tàu lâu đời, hẳn nó đã đắm hoặc đặt hài cốt mình trên một rạn san hô nguy hiểm; nhưng cũng như mọi kẻ lang thang, số phận của nó là bí ẩn.

Cầu Trời, xin cho linh hồn con tàu biệt vô âm tín ấy lang thang ngoài biển qua những mù khơi đêm tối bão bùng - như một thủy thủ già có niềm tin vào những con tàu mất tích - sẽ không bao giờ ám lấy con đường tương lai của ta trên những ngọn sóng. Mong con tàu yên nghỉ dưới đáy đại dương; và các bạn tàu của ta sẽ ngủ   yên trong vùng nước sâu nhất, nơi những con cá mập rình mồi chẳng xuất hiện, những ngọn sóng cồn chẳng cuộn lên. 

Khi chúng tôi bỏ tàu Arcturion, Jarl và tôi bất giác lảng tránh một mộ phần thủy thủ. Chúng tôi có nghe về những sự giải thoát do ý trời. Phải nó chăng? Nhưng cuộc sống tất thảy ngọt ngào với tất cả ra sao thì cái chết lại khó khăn thế ấy. Và về phần tôi, tôi suýt bị cám dỗ đi treo đầu mình để thoát khỏi số phận của các bạn thuyền tôi; một điều gì đó như người từng đỏ mặt vì đã thoát khỏi cuộc tàn sát ác liệt tại Thermopylae.

Dẫu tôi không thể nén được cơn rùng mình khi nghĩ đến hồi kết của con tàu già ấy, tôi vẫn không thể nào tưởng tượng nổi việc chúng tôi rời bỏ nó lại có thể là nguyên nhân dẫn đến sự diệt vong của nó. Dẫu sao, tôi cầu Chúa cho Arcturion vẫn còn lênh đênh trên biển; để tôi được một lần nữa đặt chân lên những boong tàu quen thuộc của nó.

 

CHƯƠNG VIII

HỌ ĐUỔI THEO, VELIS ET REMIS[1]

           

Và bây giờ ta sẽ nghe kể, khi bị cám dỗ bởi ma quỷ hay thiên thần, cùng một ngàn dặm cách đất liền, chúng tôi đã bước vào cuộc hải trình hướng về phía tây ra sao.

Xin nhớ cho, lúc chúng tôi bắt đầu phiên gác thì đã là nửa đêm; và đến lượt tôi cầm lái thì dĩ nhiên phải tìm cách tránh. Dựa vào một cái cớ có vẻ hợp lý, tôi thuyết phục được gã đồng gác cô độc đảm nhiệm việc này; nhờ vậy tôi vừa được rảnh tay, lại vừa khéo sắp xếp cho gã khuất mắt. Vì là một gã béo ú, tọng “bánh nho khô” như hạm và vốn được cho là con trai một lão nông dân, tôi chắc chắn hắn sẽ theo lối cũ và khởi sự gật gù bên vô lăng lái. Và về phần đội trưởng của phiên canh - thợ phóng lao - hắn thừa kế đống khoác chẽn cũ mèm làm tổ ngủ cho mình, ở mạn phía gió của cột buồm lái, được người tiền nhiệm để lại cho thật ấm thật êm. 

 Trời còn tối hơn so với chúng tôi dự tính, chẳng có lấy một vết trăng; và làn khói tím thẫm, đôi khi bắt gặp lúc dạ vãn gần đường xích đạo, đã che khuất hờ những vì sao. 

Trong khi chờ tầm hai chục phút cho tới khi người cuối của phiên trước đi xuống, tôi ra hiệu cho Jarl, và chúng tôi cởi giày. Thế rồi ông tuột xuống boong mũi, và tôi thong thả đi từ đuôi tàu qua boong lái. Hết thảy đều tĩnh mịch. Ba lần tôi quơ tay trước mặt gã bị thịt đang say ngủ ngay vô lăng lái, và ngay giữa hắn và ánh đèn của la bàn từ. 

Mark, thợ phóng lao, thì không hề dễ ngủ. Tôi sợ lại gần hắn. Tuy vậy, hắn nằm yên lặng; nhưng dù là ngủ hay thức thì cũng không thể chậm trễ thêm nữa. Liều cũng phải làm, khi thời gian thúc bách. Và khi đôi tai chúng ta như tai của những con chó săn chỉ điểm để bắt âm. 

Chúng tôi vào việc, chẳng vội vàng nhưng nhanh gọn êm ru. Các trữ hàng nhiều loại của chúng tôi thì được kéo từ các chỗ giấu kín, rồi được đưa lên thuyền, treo trên mạn dưới gió của tàu, bên mạn hướng xuống biển, một điều không thể thiếu trong nỗ lực trốn thoát. Và dù vào lúc mặt trời lặn, con thuyền vẫn ở bên mạn xuôi gió nhưng, như chúng tôi đã lường trước, các buồm của tàu đã đổi hướng trong phiên canh đêm, cho nên mạn đã ở dưới gió[2].

Với nỗ lực khiêng thùng tô-nô nước đóng vụng và nâng nó lên thuyền, chúng tôi thấy, vì bị giàn dây níu cản trở, chẳng thể xong việc mà không gây ra tiếng động; đã vậy sẽ không tốt cho thuyền khi hạ thủy. Tuy vậy, vào giờ chót, một kế sách đã được nghĩ ra. Buộc một sợi dây dài vào thùng tô-nô, vốn đã được bịt kín hoàn hảo, chúng tôi thận trọng thả nó qua mạn tàu, thả đủ dây để đuôi tàu kéo theo nó cho chắc chắn, cũng để không bị va vào lớp đồng ở thân tàu. Đầu còn lại của dây thì chúng tôi cố định vào đuôi thuyền.  

May thay, chỉ còn làm mỗi việc này là xong; còn về thùng tô-nô thì làm cản trở cho đường đi của tàu dưới nước, ảnh hưởng bộ phận lái đến nỗi hất tàu lên thấy rõ trong gió. Và vì làm cho bánh lái hoạt động, điều này nhanh chóng đánh thức gã bị thịt đang đóng quân tại đấy, nếu hắn còn chưa tỉnh ngủ. Việc chúng tôi thả thùng xuống biển thực ra lại giúp ích rất nhiều: nó làm giảm tốc độ tiến của con tàu - mà vốn dĩ suốt đêm cũng không mấy nhanh, do gió nhẹ. Nếu con tàu mà tiến nhanh, thì mọi hy vọng trốn thoát mà không buộc nó phải dừng lại trước tiên hẳn đã là chuyện điên rồ. Sự thể đã vậy, việc táo bạo duy nhất đêm ấy cũng đã làm xong, đó là hạ thủy khi con tàu hãy còn rẽ làn nước mặn, nhưng chỉ ở mức độ vừa phải. 

Tất cả bây giờ đã sẵn sàng: các cần trục đung đưa, các dây buộc lỏng ra, và con thuyền treo lơ lửng; khi ấy, nắm lấy các đầu dây pa-lăng, chúng tôi lặng lẽ bước lên thuyền, mỗi người một đầu. Trọng tải của thùng tô-nô phía đuôi tàu giờ kéo con tàu theo chiều ngang, để cho các sợi dây pa-lăng của tàu căng cứng. Nó rung lên như một con cá heo. Song, chẳng sợ tiếng ùm văng lên khi con thuyền ào xuống nước, chúng tôi rời khỏi tàu gần như lặng lẽ như hơi thở rời khỏi thân xác. Nhưng việc này không bàn tới, và chúng tôi lập kế hoạch sao cho phù hợp. 

“Sẵn sàng hết chưa, Jarl?”

“Sẵn sàng.”

“Có người xuống biển!” Tôi gào qua chiếc la bàn; và những sợi dây thừng trượt như chớp khỏi bàn tay phồng rộp của chúng tôi cùng một cú lao mạnh con thuyền vỗ vào lưng biển. Một cú quay và lao giật, một lực kéo căng khủng khiếp trên các pa-lăng khi chúng tôi chìm vào rãnh sóng, được chiếc thùng tô-nô kéo giật lại, và con dao của chúng tôi cắt đứt các dây pa-lăng - chúng tôi không mạo hiểm tháo ròng rọc - các mái chèo đã sẵn sàng, và con thuyền đổi hướng, với mũi thuyền ở mạn dưới gió.

“Có người xuống biển!” bấy giờ có tiếng la từ mũi đến đuôi. Ngay lập tức chúng tôi nghe tiếng thình thịnh và la hét bàng hoàng của các thủy thủ, khi họ lao ra khỏi những cơn mơ vào bóng đêm bí hiểm. 

“Có người xuống biển! Có người xuống biển!” Lòng tôi cắn rứt khi nghe tiếng thét kinh sợ của con người văng vẳng từ vòm trời đêm.

“Hạ lái!” được thuyền phó nhanh chóng thốt ra. “Chằng lại xà buồm chính! Nhanh chóng ra thuyền! Chuyện này là thế nào? Một người xuống biển rồi? Được lắm! Cứ chờ đấy, lên các thuyền còn lại!”

Trong lúc đó các thủy thủ vừa gào vừa kéo căng các dây căng buồm.

“Cắt! Cắt hết! Hạ thấp xuống! Hạ thấp xuống! các thủy thủ mất bình tĩnh gào lên, những người đã vọt sẵn vào các thuyền.

“Dừng tàu, và giữ vững mọi thứ,” thuyền trưởng la lớn, rõ là vừa phóng lên trên boong. “Một thuyền đi theo đủ rồi. Phục vụ đâu! Soi đèn từ cột đỉnh buồm lái. Bớ thuyền! Bắt được tên đó chưa?”

Không có tiếng trả lời. Giọng ấy vang ra từ một đám mây; con tàu trông mờ mờ như một bóng ma. Chúng tôi đã thôi chèo, và lúc này tay liền tay kéo sợi dây thừng buộc chiếc thùng tô-nô, cũng được chúng tôi cũng nâng lên thuyền liền sau đó, chúng tôi trở lại với các mái chèo.

“Chèo đi! Chèo đi, các anh em! Và đưa hắn về!” lần nữa thuyền trưởng gào lên.

“Dạ, dạ, sếp ơi,” Jarl trả lời theo quán tính, “chèo cật lực hết sức sếp ơi.” 

Và chúng tôi đã chèo, đến chừng chẳng còn nghe thấy gì từ con tàu ngoài tiếng nhôn nhao rối ren; và, chốc chốc, tiếng gào khản của lão thuyền trưởng, đã quá xa để nghe ra.

Lúc này chúng tôi giương buồm đón làn gió nhẹ; thẳng vào bóng đêm và chết điếng ở mạn dưới gió, chúng tôi vừa chèo vừa giong buồm tới khi hừng đông ló dạng. 

 

CHƯƠNG IX

TOÀN BỘ THẾ GIỚI NƯỚC TRƯỚC MẮT 

           

Ở ngoài khơi cùng một chiếc thuyền không mui, và cả ngàn dặm cách xa đất liền!

Không lâu ngay sau lúc rạng đông, dưới làn ánh sáng xám trong, một đốm chấm bên mạn xuôi gió làm ngắt ngang đường chân trời. Chính là con tàu đang hướng về đông bắc. 

Giả như tôi không biết đến sự thờ ơ cuối cùng của các thủy thủ trước những tai họa như tai họa mà hẳn thủy thủ đoàn tàu Arcturion đã gán cho đêm hôm trước (trừ phi thuyền trưởng không ngờ được sự thật), hẳn tôi đã nhìn cái chấm nhỏ kia với bao áy náy trong lòng. Nhưng ngay cả trong hoàn cảnh như vậy, tôi cũng chẳng thấy tâm trạng mình được yên ổn cho lắm. Bởi lẽ ý thức rằng người ta tưởng mình đã chết cũng gần như cái cảm giác khó chịu tột cùng của việc chết thật. Người ta cảm thấy phần hồn mình dám ở trọ trái phép trong một cái xác quá cố. Ngay cả cái liếc của Jarl cũng mang vẻ kỳ quặc, đến mức tôi van ông nhìn đi chỗ khác cho.

Giờ đây đã hoàn toàn thoát khỏi mọi nỗ lực của thuyền trưởng nhằm cứu những kẻ mà ông hẳn tin là đã mất; và cũng hoàn toàn bị cắt đứt khỏi mọi hy vọng quay trở lại con tàu, ngay cả nếu chúng tôi có ý muốn thế đi chăng nữa, cái quyết tâm đã nâng đỡ tôi bấy lâu bắt đầu chịu thua cảnh cô độc khủng khiếp. Trước đó, tôi xem đại dương như một tên nô lệ, con chiến mã con chiến mã chở tôi đến bất kỳ đâu tôi muốn, và dù hùng mạnh, thường tỏ ra vô hại khi đối nghịch với cái khôn loài người. Vậy mà giờ đây lại thay đổi làm sao! Trên con thuyền yếu đuối của mình, tôi sẵn lòng lập bàn thờ kính Thần Hải Dương. 

Chúng tôi quả là một thứ đồ chơi nhỏ nhoi đối với những ngọn sóng dồi, đang giễu nhạo hích vai chuyền chúng tôi từ ngọn này đến ngọn kia, như tay chuyền tay những linh hồn mất tích có lẽ đã bị quăng dọc theo chuỗi xích vong hồn lia đường xuống vực Tartarus.

Nhưng đuối hay bơi thì lo lắng ta cũng cho xuống biển hết! Vui lên, Jarl! Ha! ha! vui thay, nhưng cũng ghê gớm thay, chúng ta giong buồm! Lên, lên - lên từ từ - ì ạch leo lên ngọn sóng vừa dài vừa lặng rồi thăng bằng trên đỉnh sóng chút đỉnh, như một tấm ván trên đường ray; và xuống, chúng tôi liều lĩnh lao vào vực thẳm xáo động cho đến khi bị chặn lại, rồi chúng tôi lại lướt lên. Và cứ thế chúng tôi đi. Khi ấy bị chôn trong những lòng chảo nước, buồm của chúng tôi lười nhác vỗ cánh rồi lại nâng lên - tấm bạt bọc đầy bụng gió, và ngắm nhìn chân trời xa nhất.

Nếu không nhờ đã quá quen thuộc với nghề săn cá voi khiến ta chai lì trước những chuyển động hoang dại ban đầu của con thuyền, hẳn chúng tôi sẽ là một cặp thảm thương. Nhưng cả ngày chèo theo mấy con cá voi khi con tàu bỏ lại phía sau hàng dặm và trọn những đêm đen trôi qua được buộc chặt vào những con quái vật, bị giết quá muộn màng để bị kéo về tàu cách xa mạn dưới gió: toàn bộ điều này và hơn thế nữa khiến người ta tập quen với những dị kỳ. Cái chết, chắc chắn, có miệng đen như miệng sói, và bị đẩy vào hai hàm của nó quả là một chuyện nghiêm trọng. Nhưng thực tình đúng là như thế - và tôi nói chẳng dựa vào lời người ta đồn - rằng với các thủy thủ nói chung, vị vua tàn bạo có vẻ không gớm ghiếc như với những ai chỉ thấy hắn từ trên bờ, và ở một khoảng cách tôn kính. Như những phàm nhân xấu xí, những nét của gã bớt dễ sợ khi quen biết; và khi gặp mặt xã giao thường xuyên - cách ngôn xưa giờ vẫn còn đúng - thì thân mật tạo ra sự coi khinh. Điều này cũng đúng với những người lính. Anh tân binh run sợ sau ba trận kích chiến đã thành lão pháo thủ dạn dày; kẻ từng co rúm trước miệng đại bác giờ sẵn sàng đem cả bộ ria đổi lấy một que chùi nòng.

Và quả thực, vì cái chết là địch thủ cuối cùng của tất cả con người, những linh hồn can đảm sẽ trêu chọc nó khi có thể. Nhưng thay vì vậy, những người khôn ngoan nên xem nó là người bạn cứng rắn, người mà, ngay cả khi trái nghịch với ý muốn của chính chúng ta, sẽ vui mừng thắng lợi giải thoát ta khỏi những sự dữ trong đời.

Và đây là đôi chút khác biệt trong cách chết. Chết thì ai cũng phải. Và cái chết đã luôn được can đảm đối mặt bởi những người chưa bao giờ nhìn thấy màu đỏ của máu, ngoại trừ màu lam hiện qua tĩnh mạch. Và hãnh diện giao nộp linh hồn, cùng hành quân khỏi pháo đài của mình với hết thảy những danh dự chiến trường, đấy chẳng phải là vấn đề cơ bắp và xương cốt. Dẫu có ngồi tù, Geoffry Hudson, anh lùn, vẫn chết anh dũng hơn cả Goliah, gã khổng lồ, và mong muốn cuối cùng của loài bướm làm hết thảy chúng ta hổ thẹn. Có những phụ nữ từng sống những cuộc sống cao quý hơn và chết những cái chết cao quý hơn so với đàn ông. Bị đe dọa đưa lên giàn hỏa thiêu, tổng giám mục Cranmer đã chối bỏ đức tin; nhưng qua nghị lực của nàng, góa phụ neo đơn thành Edessa vẫn chịu làn sóng bắt bớ của hoàng đế Valens. Chết với gươm trong tay, môi còn vênh vang, áo giáp che chắn toàn thân - ấy chẳng phải điều anh dũng gì to tát. Bởi vì ngay cả loài cá sấu cũng chết trong lớp thiết giáp của nó và loài cá kiếm chẳng bao giờ đầu hàng. Chỉ có cái chết êm ái, mắt hiền lành, trong chính giường của mình mới là cái chết siêu việt hơn cả cái chết của Epaminondas. 

 

CHƯƠNG X

HỌ THU XẾP CÁC TÁN DÙ VÀ CHỖ NGHỈ NGƠI VÀ CỐ GẮNG LÀM CHO MỌI THỨ DỄ CHỊU

Con thuyền nhỏ của chúng tôi sớm được đâu ra đấy. Từ dây neo buồm mang dư, chúng tôi làm thành giàn dây níu lên cột buồm và biến mấu thuyền thành thanh lèo tiện cho buồm tam giác. Căng rộng trước gió, chúng tôi giương lá buồm này ra hai bên tả hữu cùng lá buồm chính. Lá sau thì theo thể thức đi buồm của các thuyền săn cá voi thông thường, phối hợp với xà chéo và dây lèo. Nó có thể cuộn lại hoặc xếp gọn nhanh chóng. Các túi bánh mì thì chúng tôi đem giấu ở chỗ được che chắn kỹ gần banh nung hắc ín, mà giờ là một thứ phụ tùng vô ích nên đã được cất đi. Ban đêm thì Jarl lấy nó làm gối, bảo rằng khi thuyền nhấp nhô, nó mang lại một thú tiêu khiển êm dịu cho cái đầu. Chiếc thùng tô-nô quý giá thì chúng tôi buộc chặt giữa thuyền; theo cách ấy mà thuyền đi tốt hơn.

Bấy giờ, trước khi rời tàu, chúng tôi đã kiểm tra kỹ lưỡng, rằng thuyền chúng tôi được trang bị hết thảy những đồ dùng mà, theo điều lệ ngư nghiệp, một con thuyền săn cá voi luôn được chuẩn bị đầy đủ: dù đêm hay ngày, nổi hay treo. Treo dọc theo mép mạn phía trong là sáu cây lao, ba cây xiên và một con dao xén; tất cả đều bén như lưỡi lam và được bọc da. Ngoài các dụng cụ này, chúng tôi còn có dăm ba món lặt vặt, đôi két nước hai ga-lông, vài chiếc gàu, rìu nhỏ để cắt dây câu cá voi, hai dao phụ cho mục đích tương tự, và vài vật thứ yếu nhỏ, cũng được dùng để săn con thủy quái. Dây câu và ống dây câu, song le, thì ở trên mạn tàu.

Và ở đây có lẽ nên nhắc rằng, để khỏi bị căng khi thuyền treo bên mạn tàu, sợi dây câu cỡ lớn, dài trên hai trăm sải, và đường kính đâu đó hơn một inch, khi không dùng thì được giữ trên mạn tàu, cuộn lại như một con rắn vô tận nằm trong ống. Nhưng cái ống dây này thì luôn sẵn sàng được tải xuống thuyền. Giờ đây, chẳng có tác dụng gì cho dây câu của thuyền, chúng tôi cố tình để nó lại.

Nhưng chúng tôi đã điểm tra kỹ rằng món quan trọng nhất trong mớ đồ đạc trên thuyền săn cá voi đã được buộc chặt gọn vào đúng chỗ. Đó là cái két chống nước, hai đầu đậy chắc chắn, gồm một la bàn nhỏ, mồi lửa và đá đánh lửa, nến và rất nhiều cây bánh quy. Cái két này là để phòng ngừa khỏi điều rất hay xảy ra khi đuổi theo cá nhà táng - đi xa tàu quá lâu, để mất dấu tàu, hoặc chẳng bao giờ thấy lại tàu nữa, tới khi nhiều năm sau khi về lại tới nhà. Cũng chính cái két ấy tựa như đóng thùng luôn cả sự sống và cái chết, ít ra là với Jarl thực thà. Ngay khi chúng tôi thoát hẳn khỏi tàu Arcturion, thả mái chèo chốc lát, thì ông đã chộp nó ngay trong đêm.

Và khi ngày dần dần lên, chúng tôi đập vỡ nắp két bằng một chiếc búa và đục nhỏ luôn được gắn kèm theo cho mục đích đó và tháo chiếc la bàn lóng lánh như mắt người. Đoạn lấp chỗ còn trống bằng bánh quy, chúng tôi làm cho chặt, siết những đai két đến khi chúng không còn nhúc nhích nữa.

Ban đầu chúng tôi loay hoay sửa la bàn. Nhưng sau rốt Ông Giời rút dao và rạch một lỗ tròn ngay ván ngồi, hoặc là chỗ ngồi trên thuyền, tại đó lắp chiếc hộp đồng thau chứa kim nhỏ nhắn. 

Qua đuôi thuyền, cùng với tấm buồm cũ mà ông Viking của tôi đã lường trước mang theo, chúng tôi trải xẵng một kiểu mái hắt, đúng hơn là tấm phủ giường. Việc này, ấy vậy, cho thấy chẳng có một tí nào bảo vệ khỏi mặt trời trừng trừng vì việc điều khiển lá buồm chính đã ngăn cản đáng kể bất kỳ che chắn nào dựng lên. Và khi mát gió, chúng tôi sẵn lòng dỡ xuống cả thảy; vì gió từ đuôi thuyền thổi tới và luồn phía dưới tấm bạt suýt nữa đã bật đuôi thuyền nhẹ lên không trung, khêu gan tấm phủ giường như thể chiếc váy lót phụ nữ đang rẽ góc đường giông gió. Nhưng khi một làn gió thoảng nhỏ nhẹ làm biển gợn lăn tăn và mặt trời thì hừng hực nóng, thú nhất là được nằm lười trong lều tị nạn rợp bóng này. Nó giống như là được đem từ nướng rang sang để nguội trong chạn. Và Jarl, thứ dã cầm gai góc nhất, lại chan chứa hảo tâm cho người đồng bạn của ông, ban ngày tình nguyện ở yên phơi nắng nơi đằng lái gần cả hai tiếng so với một tiếng của tôi. Ông chẳng e dè đài các gì, ông già Viking ấy, làm hư hại nước da của ông, vốn đã sẵn mang sắc thanh đồng. So với độ rám da thông thường ở thủy thủ, ông dường như được một chiếc mũi lưỡi trai sơn mài che chắn, chi chít những tàn nhang, vàng quá đỗi, và tròn cân đối, đến nỗi chúng có vẻ như được một thấu kính rọi nắng xém cháy. 

Những khi tâm trạng bi-hỉ-ối-a lúc này lúc kia choán lấy mình, tôi thường nhìn lên Ông Giời nâu với vẻ tự mãn khôi hài. Nếu chạm trán bọn mọi ăn thịt người, tôi nghĩ, thì - hỡi người Bắc Âu đã được quay chín sẵn kia - liệu tôi có sống sót để khóc thương ông chăng, trong lúc chính tôi đang xoay tròn trên cái xiên nướng.

Nhưng về chuyện số phận, không cần phải nói lại rằng chúng ta đâu ai biết gì về tương lai.

 

Khương Anh dịch

 

[1] Tiếng Latin, nghĩa là hết tốc lực.

 [2]  Trong chương V và chương VI, ta đã biết con thuyền trong tầm ngắm của Taji là ở đằng mũi thuyền, bên mạn phải; vậy trong chương này, ban đầu mạn phải của tàu là mạn xuôi gió (thổi hướng lên trên), đến khi vào phiên canh đêm thì gió đã đổi hướng, cho nên lúc này mạn phải là mạn dưới gió (thổi hướng xuống biển).

Melville

Mái hiên (1849)
Melville và James (1850)
Jacket trắng (1850)
Ngắn (1853-1856)
Người 'Gee (1856)
Mardi (1856)

Nước Mỹ ấy

Hawthorne (1804–1864)
Edgar Allan Poe (1809–1849)
Thoreau (1817–1862)
Melville (1819–1891)
William James (1842–1910)
Henry James (1843–1916)
Edith Wharton (1862–1937)
Gertrude Stein (1874–1946)
Ezra Pound (1885–1972)
Philip Roth (1933 –2018)
Marilynne Robinson (1943)

 

phơi ơ tông
Đức cuối thế kỷ mười tám
Mỹ đầu thế kỷ mười chín 
Pháp giữa thế kỷ mười chín
Nga cuối thế kỷ mười chín
Anh đầu thế kỷ hai mươi
Mỹ giữa thế kỷ hai mươi
Việt Nam giữa thế kỷ hai mươi

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công