favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

Melville: Mardi (kỳ 18)

05/08/2025 11:32

Kỳ trước, sau khi bị dân đảo khiêng cả thuyền lẫn người vào rừng như vật tế, “tôi” bất ngờ được đón tiếp như một á thần. Dân chúng cung kính quỳ rạp. “Tôi” phải lấy hết can đảm để dựng lên hình tượng Taji thần thánh. Một vị vua tên Media, nhận mình là người có miếu thờ Taji tại đảo Odo, trịnh trọng mời đoàn về. Sau hành trình vượt đầm phá, họ đặt chân lên đất liền lần đầu sau nhiều ngày lênh đênh và được đưa vào đền thờ, ngồi vào thế chỗ mấy pho tượng và chè chén linh đình ở đó. Ngay sau đó là cuộc viếng thăm cung điện, nơi "tôi" được chứng kiến các nghi thức chặt chẽ của vùng này. Đêm xuống, Media đích thân sắp xếp nơi nghỉ cho đoàn, lật từng tấm thảm, chỉnh từng mép tua, rồi mới rút lui. 

 

CHƯƠNG LVII

TAJI TỰ NHỦ

 

            Cuộc giao thiệp ngắn ngủi với gia chủ của chúng tôi, đến thời điểm này đã đủ để tôi hình dung khá rõ về cách ông ta, cũng như những thần dân thông minh hơn của ông, nhìn nhận tôi.

            Phong tư phóng khoáng và ung dung của ông đã cho thấy rằng, dù chấp nhận vai trò á thần của tôi, ông không hề vì thế mà kính nể sợ sệt; quả vậy, ông đã đối xử với tôi không chút khách sáo, như thể tôi chỉ là một người phàm không hơn không kém, như nấm mọc sau mưa.

            Cảnh tượng trong đền, tuy vậy, đã giải thích rất nhiều về cách xử sự ấy của ông. Chính ông cũng là một á thần, mấy lời xưng nhận về phẩm giá tương đương của tôi đã chẳng làm cho ông giật mình kinh ngạc, cũng chẳng làm suy suyển lòng tự trọng của ông.

            Còn đối với bất kỳ điều gì xa lạ về phần tôi và sự thiếu hiểu biết về tập quán Mardi của tôi: toàn bộ chuyện này, thay vì gây ra mối nghi ngờ bất lợi, lại củng cố niềm tin về chúng. Trước đây đã có nhiều trường hợp tương tự, nhưng ở một phạm vi lớn hơn. Một nhà hàng hải nổi tiếng có nhắc đến trong chương trước, đã được người Hawaii tôn sùng như một á thần, đã trở lại trái đất sau một chuyến du hành vũ trụ. Và họ đã tôn thờ ông như thế, dẫu ông cứ luôn miệng hỏi họ xem mình là ai dưới ánh mặt trời này mà được thờ phụng như vậy; tổ tiên họ đến hòn đảo này ra sao; và liệu họ có thể tử tế cung cấp cho thuộc hạ của ông một lượng thịt heo dồi dào trong thời gian ông lưu lại hay không.

            Nhưng cũng xin góp một hai lời bàn về các tượng thần trong đền ở đảo Odo.Bên cạnh sự tôn kính dành cho Media với tư cách một vương giả thế tục, nơi đây người ta còn thờ phụng ông như một thực thể linh thiêng. Khi ông vắng mặt về thể xác, tượng của ông sẽ nhận mọi lễ vật dâng tiến. Và khi còn trẻ, được nghe về những truyền thuyết trong pho thần thoại Mardi, Media đã nảy sinh một niềm yêu thích mãnh liệt với Taji phi thường: vị thần mà ông thường tuyên bố là xứng đáng được một hốc tượng trong mỗi đền thờ hiện có. Thành thử ông đã dành một chỗ nơi miếu thờ đặc biệt của chính ông để tôn thờ bức tượng tôi, đặt nó sát bên tạc vật thờ phượng ông.

            Tôi cảm kích lời ca tụng. Nhưng được ở đó thân mật bầu bạn với bức tượng kia, tôi thật lòng lấy làm hổ thẹn lắm. Và tôi có lý do của mình. Và có lý do chính đáng: cái của nợ kia là tượng của một tay làm bánh chuối nay đã được phong thần, mới qua đời không lâu; người mà, khắp Quần Đảo, một nhân vật lừng danh khắp quần đảo vì tài nghệ trong nghề. Khi còn sống dưới trần, hắn từng phục vụ trong gia thất của Media, và vị chủ nhân biết ơn kia sau này đã thấy hợp lẽ khi tưởng thưởng cho hắn danh hiệu tối hậu này - một điều đáng buồn thay lại làm giảm hẳn phẩm giá của việc được phong thần. Ở đây ta cũng không được quên rằng trong vùng này của Mardi, các nghệ nhân ẩm thực được xem là những người đáng được trọng đãi. Bởi lẽ với người dân Odo, chuyện ăn uống được xem như chuyện sống chết. “Cứ việc kéo nữ hoàng khỏi vòng tay ta,” Tyty xưa đã nói khi đánh bại Adomma, “nhưng giữ lại đầu bếp cho ta.”

            Tuy vậy, giữa xứ sở Mardian này tôi cũng không đến nỗi đơn độc trong việc mang hình hài một vị thần. Đa phần các vua ở Quần Đảo, ngoài Media, cũng tuyên bố rằng họ đáng tôn thờ như là các á thần, và điều đó được bảo chứng bởi huyết thống: tia sáng thần linh có thể truyền từ cha sang con. Để minh họa, có thể kể đến việc người dân ở nhiều nơi đã gọi thánh thần tối cao Oro bằng chính những danh xưng họ vốn dùng để ca tụng các bậc quân vương trần thế.

            Phải, có những vị thần ở Mardi còn lớn hơn và cao hơn tôi: ngoài những bậc quân chủ hoàng gia đúng nghĩa, sống trong những lều thánh tròn tròn hay hay bằng đất sét nâu hay hay; và hội hè, và chè chén, và ra oai trong những lều thánh vàng bằng tre trúc. Những á thần ấy có đủ phương tiện để duy trì địa vị siêu phàm của mình. Khi cần, có thể nghiền nát tận gốc rễ lòng ngờ vực của bất kỳ kẻ nào dám không quy thuận. Và bằng sự hiệp nhất không tì vết của giáo hội và nhà nước, chúa và vua, các Cæsar tối cao đã đích thân cai trị linh hồn lẫn thể xác của thần dân họ.

            So với những đấng quyền thế hùng mạnh này, tôi và thần tính của tôi đã co lại chỉ còn không không. Trong các tiền sảnh vùng rừng của họ, các thần hạ đẳng được giữ lại chơi la cà. Xin cho hay rằng, có lúc chúng tôi gặp vài á thần đã mục ruỗng, vỡ nát:  những nhân vật từng một thời lẫy lừng, nay chẳng còn đền thờ nào để chiêu đãi người ái mộ hay tín đồ mộ đạo. Họ lang thang khắp nơi trong cô độc và không bạn không bè. Nhiều khi trong cơn tuyệt vọng vì chẳng có lấy một bữa ăn, họ đâm ra tham ăn tàn bạo, và chỉ mong béo lên nhờ gặm nhấm vẻ huy hoàng gia phả. Nhưng thật đáng thương! Họ chẳng khác nào đám quý tộc xứ Scotland rách rưới ở London thời vua James: đông đảo đến nỗi khiến mọi sự phân biệt đều thành vô nghĩa. Mà không có sổ địa tô để chứng minh sản nghiệp, họ chỉ còn biết than thở trong vô vọng.

            Xét cho cùng, các vị thần sống và thở ở Mardi đông đến mức khiến tôi chẳng còn mấy coi trọng thần tính của mình. Và được thấy một vị gia chủ thuộc hàng bất tử như vậy, và được nghe về vô số những vị khác, hoàn toàn thần thánh về bản chất, ám các khu rừng và suối nước, quan điểm thần học của tôi trở nên rối bời lạ thường; tôi bắt đầu nghĩ về người Do Thái đã bác bỏ sách Talmud, và nguyên tắc thấm nhuần rộng khắp của ông, mà Goethe và những người khác đã tán thành.

Thế là, thay vì tiếp tục kinh ngạc trước sự táo tợn của chính mình khi tìm cách tự nhận là một vị thần - chuyện ban đầu đã gây ấn tượng cho tôi, giờ đây tôi nhận ra rằng tôi có thể làm một vị thần tùy ý, thoải mái mà chẳng cần lo sẽ có ai vì thế mà kính sợ tôi hay ít nhất là vì riêng lý do đó mà nhảy dựng lên như cái đuôi sư tử bị kéo.

            Còn về sự đón tiếp của Media, sự niềm nở ấy không hoàn toàn xuất phát từ việc ông ta tin tôi là thần. Thần tính của ông, ông cũng xem như cùng một trật. Điều khiến ông yêu thích tôi là do một cơn hứng bất chợt, một nét thất thường trong tâm tính khiến ông xem tôi như một trong nhiều kẻ đồng đẳng, chứ không phải một đấng không ai sánh kịp.

            Song điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả sự thờ ơ của vua Media đối với thần tính của tôi, chính là thái độ thản nhiên không chút xúc động trước chuyến hành trình kỳ vĩ của tôi từ mặt trời; sự thờ ơ với chính mặt trời; và với tất cả những điều kỳ diệu hẳn phải gắn liền với cuộc rời bỏ ấy. Không biết có phải ông đã từng ở đấy nên mới hờ hững quá mức đối với một chuyến du hành từ mặt trời hay chăng, điều này gần như đã trở thành một câu hỏi trong trí tôi. Hiển nhiên, ông không cho tôi là một hiện tượng gì ghê gớm, nếu chỉ xem tôi là một du khách.

Sự sửng sốt của tôi lại càng tăng khi nhớ rằng với dân chúng quần đảo này, bản đồ Mardi chính là bản đồ toàn thế giới. Trừ một vài đảo khuất tầm mắt và ở một khoảng cách không xác định, họ chẳng biết gì cụ thể về bất kỳ hòn đảo nào ngoài các hòn đảo của mình.

            Và chẳng bao lâu sau, tôi lại có thêm lý do để ngưng thắc mắc vì sao câu chuyện của tôi lại được họ tin dễ dàng đến vậy. Bởi người Mardian đã quá quen với những điều kỳ lạ còn lớn lao hơn cả chuyện tôi kể; họ thật sự tin vào những phép lạ đủ loại. Chỉ cần một trong số đó thôi cũng đủ khiến những kỳ tích của tôi phải ngượng.

            Vậy thì coi chừng thái độ của mi, Taji ơi, tôi nghĩ bụng, cũng đừng có mà trèo cao quá. Đã hẳn, mi có nhiều người ngang hàng với mình hơn những kẻ thấp kém. Chung quanh mi ai ai cũng vượt trội cả. Giữ mình cho thận trọng và đừng có ra bề kiêu căng, Taji ơi. Mi mà lên mặt thì sẽ chẳng được ai cứu vớt. Tránh mọi bóng gió hợm mình về thế giới bên kia và các vị thần quý tộc mà mi từng cùng giao du. Áo quần của mi chớ có chưng diện lòe loẹt chỉ vì nó mới lạ ở Mardi; cũng đừng có khoe khoang về tốc độ chiếc Dê Biển của mi chỉ vì nó chẳng giống một chiếc xuồng. Chớ khoác lác về dòng dõi mi, Taji ơi; vì chính Media sẽ cùng mi đo phả hệ dài cả sải đường. Chớ có “trưởng giả học làm sang”, Taji ơi.

            Thế là, khi cân nhắc mọi việc cho kỹ lưỡng và bản thân tôi cho nghiêm khắc, tôi đã quyết nghe theo lời khuyên khôn ngoan của Cố Vấn, không nhận càn bất kì điều gì, cũng chẳng ăn bớt những khoản chính đáng mà giao thiệp thoải mái, hòa đồng, thẳng thắn giữa các vị thần, anh hùng, thượng tế, vua chúa và các đức ông, những người đã tạo nên hàng quyền lực thần thiêng của Mardi.

 

CHƯƠNG LVIII

MARDI BAN ĐÊM VÀ YILLAH BAN NGÀY
 

            Đêm hôm sau khi chúng tôi đến, hẳn đã có nhiều giấc mơ được mộng thấy tại Odo. Nhưng tôi thì trằn trọc thao thức. Và khi tất cả những người khác còn ngủ, tuân theo một sự thúc đẩy không yên, tôi đã lẻn ra ngoài ngồi dưới ánh sao huyền diệu. Có những kẻ, khi ở nơi đất lạ, chỉ thích ngắm nhìn nó vào ban đêm.

            Người ta kể rằng, khoảng trống giữa những rặng cây nơi thành phố của Media tọa lạc vốn cao hơn những đồng bằng xung quanh. Cho nên ở đó ta có thể bao quát được một phạm vi rộng lớn.

            Khắp nơi là tiếng nghỉ ngơi thổn thức sâu lắng của con người và tự nhiên. Các rừng cây bất động; và trên các cánh đồng, như những quỷ lùn, là những bóng tối tiến đến và rút đi. Trọn vẹn trước mắt tôi trải ra những hạm đội đảo Mardi, thả neo sâu dưới cảng san hô của chúng. Gần đó là một đảo, viền quanh bởi rạn san hô sủi bọt ánh sáng, nằm yên như Sao Thổ giữa các vành của nó.

            Từ mọi đỉnh của chúng, một làn khói trắng sữa bốc lên, như phát ra từ các lều Ấn Độ dưới ánh trăng trung thu mờ ảo. Và trôi đi, những làn hơi ấy quyện với màn sương mỏng,  tựa hơi nước từ một thác lớn vẫn lơ lửng trên lớp rạn san hô bao quanh. Ở xa hơn hết, tận cùng đêm, cuộn trào đại dương đen tuyền.

            Thế mà đầm phá rộng, phản chiếu những đốm cháy trên trời ấy mới yên tĩnh làm sao! Tia sáng nghiêng của sao Hôm đâm sâu vào tận đáy lòng của nó, như một mũi chùy ánh sáng xuyên thấu đến tận những mỏ Golconda huyền bí, nơi dường như có muôn vàn yêu tinh đang miệt mài đào bới. Bỗng chốc một cơn gió nhẹ gợn mặt nước, và trục sáng ấy chẳng còn thấy nữa. Nhưng lằn rẽ nước sáng của mặt trăng vẫn còn đó: một vệt bạc, nhón bước trên mọi đỉnh sóng trong đường đi của nó, đến khi mỗi đỉnh tựa như một con ốc anh vũ mũi nhọn cuộn ánh ngọc trai, nổi trên mặt nước cùng một đoàn yêu tinh nào đó.

            Từ dưới đất lên tận trời! Cao phía trên tôi là lùm cây tối của Đêm với Dải Ngân Hà vắt ngang như dây leo, trĩu nặng những chùm quả hoàng kim. Ôi những vì sao! ôi những ánh mắt đã nhìn thấy tôi bất kể tôi có rong ruổi nơi đâu: mãi luôn yên bình, chăm chú, bí hiểm, hỡi các Sybil hãy cho tôi biết, tôi là ai. Những thế giới phi thường phía trên những thế giới! Ô kìa, khắp quanh tôi, những bùa mê lấp lánh và ghê gớm: tất cả những chòm sao rực rỡ, vinh quang, các bạn là vương miện của Chúa! Nhờ các bạn, hỡi những vì sao, con người mới có được những khoái cảm vi tế nhất, những ý nghĩ không thể diễn đạt thành lời mà lại chan chứa niềm tin.

            Nhưng vẻ sáng ngời êm dịu của các bạn châm chích con tim nặng chứng báo điềm biết bao. Có phải ta là một kẻ giết người, hỡi các vì sao?

            Hàng giờ trôi qua. Cơn ngây ngất sao trời đã tan. Đợi đã lâu, bình minh lúc này ló dạng.

            Ban đầu, rạng dọc trên khuôn mặt đang thức, hé nhìn từ những mí mắt mê man, thế rồi tỏ lộ trong những ánh mắt nán lại lâu hơn, tới chừng, cũng như mặt trời, tinh thần trỗi dậy, và tỏa các tia sáng của nó khắp nơi.

            Cứ như thế Yillah của tôi rạng lên mỗi ngày, nàng làm cả thế giới của tôi rực rỡ lên; nhuộm hồng hơn nữa những cụm mây đã đượm hồng, lả lướt trên đôi gò má mùa hè của nàng, như mây bay trong vòm trời Ý.

           

CHƯƠNG LIX

BỮA SÁNG CỦA HỌ

 

            Không phải thế giới của ta chỉ toàn là những ngôi sao sáng và những đôi mắt sáng: vậy nên hãy quay lại câu chuyện của chúng ta.

            Một gia chủ chu đáo phải luôn thức dậy đúng giờ, hầu chăm sóc cho các vị khách quý của mình và đảm bảo rằng ngày mới của họ bắt đầu thật thuận lợi. Vua Media thông báo về sự xuất hiện của mặt trời bằng cách đích thân sột soạt trên mái hiên chòi lá của tôi.

            Bữa ăn đã được dọn ra dưới giàn cây kế bên, mà các gia đồng của Media đã dọn cho phẳng phiu để đón tiếp chúng tôi,  và các viên thủ lĩnh dưới trướng ông cũng đã có mặt. Nơi đây chúng tôi ngả mình trên những tấm thảm. Không khí ban mai dịu và mát; những làn sương vàng trên núi, dải lụa bạc trải trên cỏ và những chú chim đang đọc kinh sáng trong lùm cây - lông vũ sặc sỡ của chúng chớp nháy trong tầm mắt, chỗ này chỗ kia, như thể một cầu vồng nào đó đang núp mình trong tán lá.

            Bày ra trước mắt chúng tôi là những món ăn, được dọn trong những trái bầu nhuộm màu lạ mắt, hình dạng ngồ ngộ, không phải đồ sứ Pháp nhưng không hề kém thẩm mỹ; và cũng như đồ sứ thật, chúng đã được nung qua lửa. Khi còn xanh và mềm, người ta hái chúng từ trên cây rồi khoét bỏ ruột, rạch những nét bé chi li như nét chạm trổ. Mặt nền đã được chuẩn bị, các hình khác nhau được khắc tỉ mỉ. Và các đường viền được lấp đầy bằng những lỗ tinh tế, một số loại dầu thực vật nhất định được rót lên chúng, nhằm mục đích tạo màu. Được nhét đầy một loại đất đặc biệt, trái bầu ấy lúc này được đặt trong một lò nung dưới đất. Và đến khi nung xong thì được đào lên, trút những món bên trong ra rồi rửa sạch dưới suối, nó có một lớp vỏ nhuộm đậm, mỗi hình đều được vạch rõ và khó hiểu, nền thì trong mờ. Ở một số trường hợp, do được dùng nhiều loại chất nhuộm, mỗi hình là một màu riêng.

            Những cốc còn oách hơn cả những cốc uống rượu vang. Sức chứa lớn như be rượu, chúng hầu như thay thế cho các bình gạn.

            Giữa xứ nhiệt đới, trái cây cùng chút rượu nhẹ là bữa sáng lý tưởng. Và với những vườn ăn trái và vườn nho trong tầm mắt, kẻ nào - trừ tù trưởng Hetman dân Cossacs - có thể muốn hơn? Chúng tôi có thừa nước nho lên men. Nhưng chuyện ấy xin để sau - vẫn còn nhiều hầm rượu lâu năm và vô vàn tiệc vui đang chờ đón.

            Trong suốt bữa ăn, Media đã để ý đến y phục của chúng tôi lắm. Ông nài tôi xem xét chất vải tấm áo choàng chuẩn hoàng gia của ông chút đỉnh để thấy nó cao cấp hơn vải của tôi đến cỡ nào. Quả thật áo tôi phải tủi thẹn: áo của ông có những hình trang trí hiếm thấy bằng sắc đỏ và đen tinh tế, viền bằng lông chim nhuộm, và đính những tua rua bằng móng vuốt đỏ của loài chim nhỏ.

            Sau đó đến chiếc mũ Guayaquil của Ông Giời; hình dạng kỳ cục của nó khiến chủ nhà chúng tôi phá lên cười nhạo; rồi ngài đội một quả bầu lớn hình nón lên đầu một thị vệ, bảo rằng bây giờ hắn là Jarl rồi. Về điều này, cùng hết thảy những câu nói đùa tương tự, Samoa chắc chắn đã cười ầm lên không ai bằng, dẫu chuyện cười đùa không thuộc tạng người của chàng. Có lẽ chàng thấy hả hê vì cuối cùng cũng có cơ hội đem sự chế nhạo từng đổ lên mình - một kẻ mọi giữa người da trắng - mà quật lại chúng tôi.

            Những màn pha trò này kết thúc, Vua Media lấy lại vẻ đứng đắn, như thể để bù cho sự suồng sã trước đó. Ông đàm luận như vương đế với các tù trưởng của mình, gật đầu ra hiệu thiên ý với các gia đồng, gọi thêm một bầu rượu khác, trong mọi mặt đều mang cái vẻ vương quyền hùng dũng.

            Bữa ăn kết thúc, chúng tôi đi đến chái lá, nơi chúng tôi thấy chiếc thuyền Dê Biển nhỏ bé trong chuồng như một con chiến mã. Một cuộc cướp bóc đã xảy ra. Các mạn và đáy của nó đã trụi mất sạch những con hàu xanh nhỏ nhắn và cả tảo biển, mà như đỉa, đã từng bám chặt các ván thuyền của chúng tôi suốt hải trình dài hơi, biếng nhác.

            Người dân ở đây đã ăn sạch chúng như món cao lương mỹ vị.

 

CHƯƠNG LX

BELSHAZZAR NGỰ TOÀ THƯỢNG THẨM
 

            Media là vua Odo. Và vì sự giản dị trong cung cách của ông cho đến lúc này, lẫn thái độ thoải mái, thẳng thắn với chúng tôi, giả sử chúng tôi mà có dại dột nghi ngờ điều ấy, thì chẳng hoài nghi nào trụ nổi với bằng chứng sống động của nó, mà chính hôm nay chúng tôi được chứng kiến lúc ban trưa.

            Khi mặt trời đứng bóng, Media thường có thói quen khoác lên phẩm giá của ông bằng những biểu tượng chính quyền; và ngồi trên đi văng hoặc toà phán quyết, để nghe và xét xử mọi kiện tụng được dâng lên cho ông, cùng ban bố các pháp lệnh hoàng gia của ông.

            Đi văng ấy được nâng cao ở một đầu của một vòm lá rộng rãi, tạo thành từ một lối đi giữa những hàng cọ uy nghiêm, trong tư thế khảng khái, giữ trên cao tán cọ oai vệ của chúng.

            Vương miện của quốc vương hải đảo thuộc phong cách Đông Phương nguyên thuỷ; về hình dáng, có lẽ, tương đồng với các vương miện được thoải mái chưng diện như mũ săn của Vua Nimrod oai nghiêm thiêng liêng, người đã mau mắn chạy theo bầy chó săn của ngài. Đó là một chiếc khăn quấn đầu bằng vải bện tappa đỏ, xòe ra là những chiếc xương Cá Đuối nhọn, trắng, bóng. Những chiếc xương này rẽ ra từ một dải hoặc băng ngọc trai quý; được mang lên từ biển nhờ những nam nhân ngư chuyên lặn sâu nhất của Mardi. Từ giữa vương miện một mũi giáo ba lá dựng lên. Và một quyền trượng mũi giáo cho bàn tay phải của vua thêm trang trọng.

            Khi ấy, so với hết thảy lời huênh hoang của các nhà dân chủ của các bạn, thì một vị vua đẹp là một cảnh tượng rất đẹp để ngắm nhìn. Ông trông rất giống một vị thần. Chẳng trách sao các thần dân ngoan ngoãn của ông đã thề thốt quá đỗi, rằng vị chúa tể và chủ nhân tài giỏi của họ Vua Media là một á thần.

            Một vị vua trên ngai! A, tin tôi đi, quý vị Gracchi, quý vị Acephali, quý vị Leveler, chắc chắn, đây là một điều đáng xem; dẫu có được chiêm ngưỡng tại Babylon thành Vĩ Đại, khi vua Nebuchadnezzar lên ngôi; hoặc điện Scone xưa vào thời Macbeth; hoặc thành Rheims, giữa các Oriflamme, tại lễ đăng quang của Louis Đại Đế; hoặc Tu viện Westminster, khi vua George hào hiệp cở bỏ bộ lông hải ly đội lấy vương miện; hoặc dưới bóng cọ nhẹ nhàng trên một hải đảo ngoài khơi.

            Người cai trị trên người, người quỳ lạy trước người, là một cảnh tượng mà thiên thần Gabriel chắc sẽ du hành đến đây để chiêm ngưỡng; bởi ngài chưa bao giờ chiêm ngưỡng nó trên trời. Thế mà vua Darius ra luật cho dân Mê-đi và Ba Tư, hoặc nhà chinh phục xứ Bactria cùng gánh ngựa vua buộc vào cỗ xe ông, nhất định chẳng cao trọng cho bằng Beau Brummel phong nhã rung chuông gọi hầu.

            Một vị vua trên ngai! Chính là thần Jupiter gật đầu ra hiệu nơi hội nghị Olympus; chính là Satan, được nhận ra giữa những mũ miện dưới Địa Ngục.

            Một vị vua trên ngai! Chính là mặt trời trên đầu núi; mặt trời trên đỉnh Sinai ban bố lề luật; mặt trời của hệ chúng ta: các hành tinh, như công tước, tham dự vũ hội, và các chư hầu nam tước chờ lệnh.

            Một vị vua trên ngai! Suy cho cùng, chỉ là một quý ông tọa vị.

            Và vị chúa tể của chúng ta đã ngự trên toà như thế, đức Vua Media.

            Thời gian trôi qua. Và sau khi phân xử và bác bỏ những vụ nhỏ nhặt, Media đã gọi một số nhân chứng để làm chứng một án liên quan đến một Jiromo nọ, kẻ dại dột, đã ngu ngốc mưu phản vị quốc vương khi ấy còn đang ngồi xét xử và bồi thẩm hắn.

            Tội trạng của hắn đã rõ ràng. Khi đã nghe xong lời khai của các nhân chứng, từ một bó cọ dừa Media rút một lá, đặt vào tay một tùy phái hoặc phò tá, mà rằng, “Đây dành cho Jiromo, nơi hắn bị tống ngục; với lời khen tặng của nhà vua; rằng chúng ta ở đây chờ cái đầu của hắn.”

            Nó bị vứt bỏ như chiếc khăn xếp trước một thống chế Dey[1], rồi ngay sau đó được mang trở lại.

            Lúc này là đến mấy kẻ hầu mặt hóp, nghèo rách, cho nên trông thật ám muội, đang lầm bầm, lẻm bẻm và hiền như Gấu Nâu. Bọn họ đến và lảm nhảm về một số ẩn ngữ đẩu đâu về “tường thành,” “vách ngăn,” “đê quai,” “bảo hộ,” “hiến chương quý tộc,” “khiên,” “hộ mệnh,” “quyền tập ấm vĩ đại và vinh quang,” và mấy thứ lắp bắp vô nghĩa khác.

            Trong số các phò tá, có một số nhân vật xin hội kiến Media.

            “Đến, quỳ trước ngai,” là câu trả lời.

            “Xương bánh chè của chúng tôi bị nhức vì đau dây thần kinh toạ,” là lời đáp thấp khớp.

            “Một thứ mưu mẹo để các ông khỏi phải quỳ,” các phò tá nói.

            Và tiến lại họ chào salam, và xin Media tha qua cho mấy kẻ hầu mặt mũi hãm tài này. Thấy vậy chúa tể ra lệnh cho họ quỳ xuống bằng xương chày ngay lập tức, hoặc là trước nhà vua hoặc là trước đao phủ, bất cứ ai tùy ý họ.

            Họ ưa vế trước hơn. Vậy khi quỳ xuống, những người thính tai (vốn rất đông ở triều đình) đã uổng công vểnh tai lên, hầu nghe cho được những tiếng răng rắc kỳ lạ, khai hoả từ những đạn xương và hốc xương, vốn luôn xảy ra khi các triều thần bị thấp khớp quỳ gối.

            Thế rồi, thành một hàng, cũng chính những xương bánh chè ấy đã quỳ trước vua; người đã đưa mắt nhìn họ như những chim đại bàng trên trời đưa mắt nhìn những ngỗng con trên những đống phân; hoặc như những thợ săn, với chó săn đang khom lưng quanh những con thú non.

            “Lời cầu xin của ngươi?” Media nói.

            Đó là một kiến nghị, rằng sau này mọi khác biệt giữa người với người ở Odo, lẫn tất cả những xúc phạm viện ra để chống lại nhà nước, nên được mười hai người lương thiện xét xử và chấp thuận. Mười hai người này phải không khó chịu với bên hoặc các bên liên quan; các bằng hữu của họ; và trước đây không thiên vị khi đề cập đến vấn đề đang bàn. Thêm nữa, rằng bắt buộc phải có sự nhất trí giữa mười hai người để đưa ra phán quyết; và không dọn bữa tối cho đến khi nào họ nhất trí được với nhau.

            Vua Media khinh miệt cười một tràng thật lớn thật lâu.

            “Thẩm phán của các ngươi đấy,” ông kêu lên, lắc lư quyền trượng. “Gì cơ! Mười hai người thông thái thì thông thái hơn một? hay mười hai tên ngốc, hợp lại, thành một nhà thông thái? Mười hai người chân thực được chân thực hơn một? hay mười hai kẻ bịp sẽ bớt bợm hơn một? Và nếu, trong số mười hai, có ba khôn, ba dại, và ba thông thái, ba bịp bợm, và ba ngay thẳng, thì từ đấy làm sao đạt được nhất trí thật đây?

            “Nhưng nếu mười hai thẩm phán tốt hơn một, thì một ngàn hai trăm sẽ tốt hơn mười hai. Nhưng cứ lấy cả quần chúng là một thẩm phán, và các ngươi sẽ phải chờ rất lâu mới có được một lời phán quyết.

            “Nếu về một điều đáng ngờ, mà trong quan điểm trái ngược của một người đã khó mà nhất trí, thì làm sao có được nhất trí trong sự náo động của mười hai cái đầu rối trí? Dù cũng nhiều nhất trí trong mười hai chiếc bụng đói meo.

            “Các thẩm phám không khó chịu với bị cáo! Áp dụng nó vào một vụ hình sự xem. Ha! ha! nếu lỡ đâu một Cadi nọ không được chấp thuận, vì hắn đã thấy bị cáo phạm tội đang xét xử. Thì, đầu óc hắn sẽ thiên lệch: ở hắn sẽ không có sự công bằng! Hoặc người bị cáo bẳn tính của các ngươi biết đâu không ưa một người khác, vì cái mũi khoằm, hoặc con mắt lác hung ác thì sao.

            “Đúng là đần độn nhất trong mớ ý tưởng điên rồi! Các ngươi hãy bởi ta mà biết, rằng bạn bè đích thực chẳng đưa ra phán quyết đích thực. Jiromo là một tên nổi loạn. Nếu ta có xét xử hắn bằng bạn bè của hắn, thì ta đã xét xử hắn bằng những tên nổi loạn; và kẻ nổi loạn đã nổi loạn vì một mục đích nào đấy.

            “Cút đi! Vì công lý chính xác thì ở trong một thể hợp nhất, và vào thời sau hết một vị thẩm phán sẽ phán xét thế giới trước mọi khiếu nại; vậy thì — dẫu rằng công lý thường khó đạt được ở dưới thế gian này — nhưng con người cũng đã đến gần mục tiêu nhất, khi con người bắt chước gương mẫu thần thánh ấy. Cho nên, một thẩm phán tốt hơn mười hai thẩm phán.”

            “Và vì Công Lý, xét theo lý tưởng, thì luôn được phác họa cho trội trên đám đông; thế nên, bởi quyền cao của cấp bậc của mình, một vị vua chân chính là vị thẩm phán tốt nhất trong số những thẩm phán độc nhất ấy, tức là một cá nhân tốt hơn mười hai người. Và cho nên ta đây, Vua Media, là thẩm phán tốt nhất ở đất này.

            “Hỡi các thần dân! Chừng nào ta còn sống, một mình ta sẽ cai trị các ngươi và xét xử các ngươi. Và dù ngươi ở đây quỳ gối trước ta đến khi đã nằm dưới đất, và mọc rẽ ở đó, thì lời kiến nghị ấy sẽ không đươc chấp thuận từ ngai này. Ta là vua: các ngươi là nô lệ. Ta là để ra lệnh: các ngươi là để phục tùng. Và giờ đây ta ban sắc lệnh, rằng  từ rày về sau không được lắp bắp vô nghĩa về tường thành và vách ngăn trên đất này nữa. Vì một tường thành và một vách ngăn chết, để ngăn dấy loạn, là thứ mà ta sẽ giáng lên nó, kẻ nào chỉ cần cần thở ra những lời kềnh càng ấy một lần nữa. Thì này! Giáo mác! canh chừng những xương bánh chè ấy ở đây quỳ đến khi mặt trời lặn.

            Khi ấy đã quá trưa; và tháo vương miện, và đặt nó lên bục để những kẻ đang quỳ mà nhìn suốt cuộc sùng bái của họ, Vua Media rời khỏi nơi ấy, và một lần nữa lại trở thành vị gia chủ dễ thương.

 

Khương Anh dịch

[1]
Một quan cai trị thuộc Đế chế Ottoman ở Bắc Phi.

 

Melville

Billy Budd (1924)
Mardi (1849)
Jacket trắng (1850)
Hawthorne và Rêu của ông (1850)
Người 'Gee (1853)
Người kéo vĩ cầm (1854)
Pudding của người nghèo và mẩu vụn của người giàu (1854)
Jimmy Rose (1855)
Ngắn (1855-1856)
Cúc-cà-cúc-cu (1856)
Tôi và ống khói của tôi (1856)


Nước Mỹ ấy

Hawthorne (1804–1864)
Edgar Allan Poe (1809–1849)
Thoreau (1817–1862)
Melville (1819–1891)
William James (1842–1910)
Henry James (1843–1916)
Edith Wharton (1862–1937)
Gertrude Stein (1874–1946)
Ezra Pound (1885–1972)
Philip Roth (1933 –2018)
Marilynne Robinson (1943)

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công