favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

Melville: Mardi (kỳ 17)

29/07/2025 09:59

kỳ trước

CHƯƠNG LIV

MỘT ĐẤNG TỪ MẶT TRỜI

 

            Trước đây tôi chưa bao giờ được thấy tán lá rậm của những vùng rừng có xuồng đi qua. Thế mà chúng đã đi xuyên qua lá; hai xuồng sóng hàng được đặt trên vai mấy người đàn ông; trên mỗi xuồng là một tù trưởng, được đưa đi dọc theo cuộc diễu hành nhịp nhàng của những người khiêng xuồng trên vai, mái chèo cắp ngược bên sườn. Khi họ xuất hiện, dân chúng tỏ nhiều tôn kính. Độ chừng tám hoặc mười bước thì đoàn người dừng lại: các vua này được hạ xuống đất.

            Họ là những người đàn ông đẹp mã, ăn vận nhiều kiểu y phục. Hiếm có thay những lông vũ nhuộm màu, những trang sức cùng những món đồ điểm trang khác. Oai phong thay những tấm áo nhuộm phất phơ trong gió.

            Phong thái vương giả của các nhân vật này, sự tôn kính mà dân chúng dành cho họ và toàn bộ sự điềm tĩnh của họ chẳng mảy may khiến tôi ngạc nhiên. Thật là ngớ ngẩn khi cố gắng phô ra một vẻ cao sang thần thánh trước mặt những bậc quyền quý đích thực của cõi trần. Á thần Taji dường như tuột dần khỏi mấy đầu ngón tay tôi. Nhưng can đảm lên! và vuốt cho thẳng lông vũ trên đầu, tôi ra sức thể hiện từng li từng tí cái vai diễn mà tôi đã quyết định khoác lên mình.

            Một lúc lâu, gần như không thể đoán được các thủ lĩnh đang nhìn tôi với cảm xúc gì. Họ không thốt một lời.

            Nhưng lấy hết can đảm, tôi đặt thanh đoản kiếm lên ngực, và tay đặt lên cán, nói với các Đấng Quyền Cao Chức Trọng ấy như sau. “Hỡi dân Mardi, ta từ mặt trời mà đến. Khi sáng nay nó mọc lên và chạm đầu sóng, ta đã đẩy chiếc thuyền sà lúp của mình từ bãi biển hoàng kim và từ đó dong buồm đi trước những tia nắng ngang trời của nó. Ta là Taji.”

Tôi còn định thêm vài câu nữa, nhưng tôi đã ngừng vì tác động của đoạn mào đầu của mình.

            Lùi một hai bước, các tù trưởng hăng hái trò chuyện.

            Lấy thêm dũng khí, tôi tiếp tục tiến công, cố hết sức gieo vào họ đúng những ấn tượng mà tôi cho là đáng mong muốn. Nàng Yillah dịu hiền là một thiên thần từ mặt trời; Samoa thì tôi đã rước lên thuyền từ một rạn san hô trên đường đi từ quả cầu ấy; và còn về phần Ông Giời, phải rồi, như cái tên ông đã ngụ ý, ông từ trên ấy mà xuống. Tắt một lời, chúng tôi ai cũng là các vị thần đang trên đường du hí.

            Tiến về phía chiếc Dê Biển, một người  thuộc số các vua, một ông già trầm tĩnh, bấy giờ nói với tôi thế này: “Ngài đây có thật là Taji? Là đấng, xét theo truyền thống, sẽ trở lại cùng chúng tôi sau năm ngàn kỳ trăng? Song le hạn kỳ ấy còn chưa đến. Điều chi đã đưa ngài đến đây, hỡi Taji, trước thời điểm của ngài? Truyền thuyết có kể rằng vốn ngài chỉ là một á thần quen thói sinh sự, tự thuở ngài còn sống cùng cha ông chúng tôi. Nhưng bởi đâu mà ngài đến, hỡi Taji? Thật tình, ngài sẽ sẽ làm gián đoạn việc thờ cúng các tượng thần của chính ngài, và chẳng có ngài thì chúng tôi vẫn còn bao nhiêu thần thánh khác. Nhưng ngài đến để giao chiến? Chúng tôi có lắm giáo mác, và chẳng ham giáo mác của ngài. Ngài đến để sống ở đây? Nhà cửa đất Mardi này nhỏ bé lắm ru. Hay ngài đến để bắt cá ngoài bể? Xin cho chúng tôi biết, Taji.”

            Toàn bộ là những câu khó trả lời, đã vậy còn tạo ra tiền lệ tọc mạch trong việc đón tiếp các á thần lạ mặt khi họ trên đường du hí không bao cũng chẳng bị, đồng thời cũng cho thấy cái lối xưng hô thân tình mà những vị vương giả này dành cho các đấng bất tử. Tôi buồn bã không ít vì đã chẳng chịu chuẩn bị kỹ hơn cho vai diễn của mình, và không chịu học cho ra ngọn ngành về thân thế tiền kiếp của mình ở xứ sở này.

            Thế nhưng chẳng có gì can đảm cho bằng gánh vác nó.

            “Nghe đây. Taji đến, ông già kia, bởi lẽ ngài thích. Và Taji sẽ khởi hành khi ngài thấy thuận ý. Hãy hỏi bóng hồn tổ tiên các ngươi xem, có phải Taji từng chào đón họ một cách thô lỗ như thế, khi họ lừng lững bước vào cõi linh hồn, nơi Taji trị vì? Không hề. Taji thết tiệc. Ngài cởi áo choàng cho họ. Ngài đốt lửa để xua đi cái ủ dột. Ngài đã chẳng nói, ‘các ngươi đến để chiến đấu ư, thứ sương mù và hơi nước các ngươi? các ngươi đến để sinh sống ư? hay là các ngươi đến để bắt cá ngoài bể?’  Thôi được, vậy thì cứ thế đi, hỡi các vua xứ Mardi!!”

            Nghe vậy, ông vua già ngã ngửa; và ông được một tù trưởng sang trọng, phong thái phóng khoáng, thẳng thắn đỡ cho. Nhanh chóng tiến lại thuyền, ông kêu lên: “Ta là Media, con trai của Media. Tam bận đón mừng, Taji. Trên đảo Odo của ta có một bàn thờ kính ngài. Ta xin mời ngài đến làm khách quý nhà ta.” Thế rồi ông nhắc nhở những người còn lại rằng những người lạ đã đường xa trẩy đến và cần được nghỉ ngơi. Ông đề nghị hộ tống họ ngay tức thì về lãnh thổ của ông, nơi mà, ngày hôm sau, ông sẽ lấy làm vui mừng được tiếp đón hết thảy các vị khách quý.

            Và đúng như lời, ông ra lệnh cho thuộc hạ xếp hàng dưới chiếc Dê Biển. Nhảy khỏi mũi thuyền, người Upoluan được Jarl nối gót, để lại Yillah và Taji ngồi trong thuyền, được đưa ra khơi.

            Chẳng mấy chốc, một lần nữa chúng tôi lại lênh đênh; bên chúng tôi, Media ngồi thoải mái; sáu tay chèo của ông, ngồi trên mép mạn, cùng nhanh tay chèo đưa chúng tôi lướt qua đầm phá.

            Chuyển từ rừng cây ra biển khơi chỉ trong chớp mắt. Mọi thứ dường như là một giấc mộng.

            Nơi chúng tôi đang hướng đến còn ở xa, và khi chúng tôi vòng qua hết đảo này đến đảo khác, kích thước bao la của quần đảo hiện ra ngày một rõ rệt.

 

CHƯƠNG LV

TIỆC TRƯA TRONG ĐỀN

           

Khi gần đến Odo, bề ngoài của nó có phần khiến tôi thất vọng. Một hòn đảo nhỏ, độ nâng vừa phải.

            Nhưng ta chớ dò xét cao thấp ngôi nhà dọn tiệc đãi mình.

Trên bãi biển có mấy người bản địa xếp hàng đón khách, họ nâng Dê Biển, đưa chúng tôi vào bờ.

            Xuống đất, khi họ đang đưa chúng tôi đi cùng thì Vua Media, chỉ định một chái lá[1] gần đó, ra lệnh đem thuyền của chúng tôi đặt vào trong. Việc ấy xong xuôi, chúng tôi bước chân lên đất liền. Đây là mảnh đất đầu tiên chúng tôi giẫm lên sau rất nhiều ngày. Điều này đã truyền một sự rung động đồng cảm qua cơ thể chúng tôi.

            Trở bước vào trong nội địa, Media ra hiệu cho chúng tôi theo sau.

            Chẳng bao lâu, chúng tôi đã đến một khu vực xây theo kiểu hàng rào, được ngăn bằng một bức vách đồ sộ. Tại đây, có hiệu lệnh dừng lại, và người bản xứ liền hối hả gỡ một phần tường đá xuống. Khi đã mở lối, chúng tôi được ra hiệu bước vào pháo đài - như được giông bão đưa đến. Trên một ụ đất nhân tạo, đối diện một lỗ thủng, là một công trình nhỏ bằng tre, mở phía trước. Bên trong là một bệ dài, như một trường kỷ, đặt dưới ba bức tượng cũng bằng gỗ và cỡ ngang vóc người và cũng mang một nét giông giống loài có bản chất sống động ấy. Trước các tượng thần này là một bàn thờ, và ở dưới nền có nhiều thảm đẹp.

            Bước vào đền, như thể được thoải mái nơi nhà mình, Media bày những tấm thảm ấy để làm thành một chỗ nghỉ ngơi tử tế, nơi ông kính cẩn khẩn mời Yillah đến ngả lưng. Đoạn khoan thai cất bức tượng đầu tiên, ông ra hiệu bảo tôi an toạ vào chỗ của nó. Đặt bức tượng ở giữa sang bên, ông lặng lẽ thay nó mà ngồi vào. Những vật vô giá trị bị dời đi ấy đứng sừng sững trước mặt chúng tôi, và những khuôn mặt vô cảm của chúng nhìn vào sự kiện này với biểu cảm bất thường. Đến giờ, vẫn chưa ai nói ra một lời nào về ý nghĩa của cái lối đối xử bất kính với các vị thần bằng gỗ.

            Giờ đây, chúng tôi bình thản chờ đợi những điều kế tiếp sẽ xảy ra, và tôi thành tâm cầu nguyện rằng, nếu đây thật sự là một hành vi phạm thánh, thì xin cho cơn thịnh nộ của thần linh đừng giáng xuống kẻ vô tri như tôi - dù kẻ cầu xin đó vốn đến từ thế giới bên kia.  Không gian giữ một sự im lặng tuyệt đối: Jarl và Samoa đứng phía ngoài điện thờ; người trước trông bình tĩnh, nhưng đồng bạn của ông thì đưa những cái liếc mắt băn khoăn vào màn phong thần thân mật của tôi cùng với Media.

            Khi ấy tình cờ nhìn thấy bức tượng cuối cùng được cất đi, tôi đã chẳng mất bao lâu để phát hiện ra sự tương đồng nhất định giữa nó và vị chủ tiệc của chúng tôi. Cả hai đều được điểm trang cùng cách, nét khắc trên tượng tuyệt đối khớp với vết xăm của ông vua.

            Ngay sau đó, sự yên lặng bị phá vỡ bởi tiếng động phía ngoài: một quản gia bước tới, lảo đảo dưới sức nặng của một mâm gỗ khổng lồ mà, với tư thế cúi rạp, ông đặt lên bàn thờ trước mặt chúng tôi. Cái khay ấy được chất đầy như xe mùa gặt, chồng chất bao nhiêu là hoa trái đủ loại: nào mít bột, nào dừa, nào chuối táo quạ, nào ổi; và hết thảy đều ngon mắt, và hứa hẹn một sự ngon miệng sánh ngang.

            Khi được bày trước mắt những của ăn này, sau một thời gian dài xa cách với niềm thỏa mãn trọn vẹn những món xanh tươi, ngay lập tức tôi cứ tự nhiên mà lấy thức ăn cho Yillah và cho mình, tới khi, như chớp, một câu hỏi không mời mà đến giáng lên tôi. Các vị thần có ăn uống không? Và trở lại trong trí tôi cái điều Media đã tuyên bố về miếu thờ của tôi ở Odo. Liệu đây có phải nó chăng? Tự phạm thánh á thần cái thằng tôi đây, có phải tôi có sắp phàm ăn tục uống chính những lễ vật ấy, được đặt trước mặt tôi nơi đền thiêng miếu thánh của chính mình? Ý tứ đến cách ăn nết ở của mi, ôi Taji, kẻo mi sẩy chân và sai lối.

            Nhưng ngay đấy, chúng tôi đã thấy gì, ngoài vẻ uy nghiêm dửng dưng của thần Odo đang lặng lẽ khởi sự dùng bữa trong đền?

            Bây giờ thì sao? Có phải cả Media cũng là một vị thần? Thần Egad, chắc là vậy rồi. Nếu không phải thì tại sao tượng của ông lại ở nơi đền miếu này, và vị thần nguyên bản thì hoàn toàn ung dung, với đôi chân cỡ đại thu vào thoải mái bên dưới chính cái bàn thờ ấy. Điều này đánh bay hết thảy lo lắng kinh hãi của tôi về việc cần phải nhịn đói để giữ cho được cái vỏ thần thánh. Thành thử chẳng phải bày vẽ chi thêm, tôi cứ thế mà tự nhiên cả hai tay, cùng chăm sóc Yillah cho chu đáo, người đã bồi dưỡng nét đẹp ửng hồng của nàng bằng những trái ngon mọng nước, theo đó mà truyền lên đôi má nàng hương ổi ngọt bừng.

            Chúng tôi đã khuây cơn đói, và Media ra hiệu bằng cách giơ tay ở tầm ngang bụng, rồi chúng tôi chuẩn bị rời khỏi khuôn viên. Nhưng khi đến bức vách có lỗ thủng thì kìa, chẳng còn thấy lỗ thủng nữa. Nhưng rồi tường lại sụp xuống lần nữa, và thế là chúng tôi bước ra ngoài.

            Xin được nói thêm: việc phá sập tường như thế là một cử chỉ kính trọng dành cho các nhân vật tôn quý trong vùng này của Mardi. Nó dường muốn tỏ rằng một ông quý phái dường này hễ đi đến đâu là tạo ra ấn tượng đến đó, thậm chí trên cả những chất liệu cứng nhất.

            Nhưng ta trở lại với bữa trưa mỹ vị.

            Cứ việc lý tưởng hoá, tuỳ bạn, cái ý niệm rằng chúng ta là các thụ tạo thuần trí tuệ; nhưng không người nào biết suy nghĩ mà lại không việc ăn uống có thể mang lại niềm thỏa mãn to lớn. Hơn nữa, trong bữa ăn chắc bụng có cả hương vị của sự sống và bất tử. Như bong bóng, chúng ta cũng chỉ là những chiếc vỏ rỗng nếu không được làm đầy.

            Biết rõ điều này, tự nhiên đã cung cấp cho chúng ta cái mâm tròn phơi phới ấy, địa cầu của chúng ta, trong cuộc xoay vần bất tận những đợt và những vụ, đãi một bữa đại tiệc mãi không vơi. Dẫu vậy, cũng như hầu hết những yến tiệc chung, khách dự tiệc không hề ít, và lắm kẻ đã chết đói vì thịnh soạn.
 

CHƯƠNG LVI

VUA MEDIA GIA CHỦ

 

            Đi vào rừng cây, độ chiều tà chúng tôi đã ở giữa một không gian dễ chịu, quang đãng và thấy một nơi dân cư đông đúc trong rừng.

            Ở chính giữa hết thảy, như một rạp vải thống soái giữa các lều, là một công trình đồ sộ hơn hết số còn lại. Đây là nơi ở của Vua Media.

            Phân bố chung quanh một khu vực chừng năm chục thước vuông là nhiều thân cọ được cắm chặt trong đất. Cỡ chiều cao của một người tính từ đất lên, những cột ấy đỡ cho vô số thân cây nằm ngang, trên đó đặt một sàn cây râm bụt. Cao vượt bục này nhưng nằm trên những cột chống biệt lập bên trên là một mái có đầu dốc cách đất một khoảng ngắn.

            Nơi ấy chính là cung điện.

            Chúng tôi bước vào qua một lối vào hình vòm, rợp bóng cây, nằm ở một đầu mái lá cọ của công trình. Nhưng các Dân Đảo không đi qua lối vào đặc biệt ấy; hạ mình khom lưng, họ tìm lối vào dưới mái hiên rũ. Một tập quán đã có từ xưa và đã được trù liệu kỹ càng hầu nhắc nhở tất cả những thần dân ngoan cố về sự tôn nghiêm của nơi mà họ đang bước vào.

            Ba bậc đưa đến đỉnh bục, nơi những chồng thảm mềm và những chiếc gối dệt cỏ rất nhẹ, được nhồi bằng những lông tơ vàng của cây kế dại đang mời gọi những kẻ thích chậm rãi tìm đến ngả lưng.

            Ánh hoàng hôn ùa vào dưới mái hiên thấp, chỗ chúng tôi đang ngồi phía trên, mới thật dễ chịu làm sao. Và lúc này thiết kế của mái hiện ra thật rõ ràng. Chẳng có bóng râm nào đầy cảm kích và trọn vẹn hơn; chẳng bóng râm nào êm dịu và hoàn toàn hơn thế; ánh mặt trời chói chang bị chặn lại bên ngoài, như một tên hầu kiên nhẫn đợi lệnh bên thềm.

Nhưng ai ở góc kia, đang há hốc miệng nhìn chúng tôi như một lão bộc lâm vào thế bí? Vị thần giữ nhà của Media, đội lốt một con quái vật dư đầy, cái đầu to tướng của nó ngửa ra sau, và cái mồm rộng há hốc nhét đầy những trái cây tươi 

và lá xanh. Quả thật, giả như tượng thần này có một linh hồn bên dưới mấy chiếc xương sườn nhiều mấu của nó thì thật trêu ngươi làm sao khi có một cái miệng hiển hách mà không có khả năng nuốt. Còn tệ hơn cả chứng khít hàm vô phương cử động, thứ không cho thực hiện công đoạn sửa soạn hầu nuốt cho trôi.

            Cái bức tượng Thổ Công ngồ ngộ ấy là một loại thần linh bậc thấp, vị thần của Vui Mừng, và thường thì sau đó, chúng tôi thấy cái miệng tròn vui vẻ ấy tại nhiều nơi khác ở Mardi. Ngày ngày, mấy cái hàm của nó được người ta làm cho đầy lên, như một bình hoa vào mùa hè.

            Nhưng liệu á thần Media có chấp nhận một vị thần bậc thấp mãi như vậy chăng? Liệu ông có tỏ lòng tôn kính nó? Nhưng thần thoại vùng Mardi ta sẽ bàn sau, qua đó làm sáng tỏ cái điều có vẻ bất thường vào lúc này.

             Lịch thiệp đưa chúng tôi vào cung điện, Media làm tròn vai chủ nhà bằng cách mời các vị khách ngả lưng nghỉ ngơi. Đoạn ông có vẻ rất rất sốt sắng muốn khiến chúng tôi hiểu rằng khi đưa chúng tôi về nhà ông, và từ đó mà chia phần tủ thức ăn hoàng gia để bồi dưỡng cho chúng tôi, ông đã chẳng đi một nước hấp tấp hay khinh suất nào. Các lão bộc vui vẻ của ông cứ chất đồ ăn quanh chúng tôi, đến khi chúng tôi gần như bị xây tường bít kín. Cứ mỗi mâm nóng hổi dọn ra, Media lại chỉ cho chúng tôi thấy, như một bằng chứng nữa cho sự dồi dào và hào sảng của chủ nhân. Màn chứng minh cuối cùng là kéo vào dưới mái hiên cả một cây chuối đã đốn, với buồng quả đỏ mọng tua tủa, mặt mày đỏ ửng vì xấu hổ khi bị giới thiệu thô bạo như vậy trước những người khách lạ.

            Đang hoàn cảnh ấy, Jarl lén lút hích vào Samoa, lấy làm thắc mắc, muốn biết toàn bộ chuyện này nghĩa là gì. Nhưng Samoa, hiếm khi nào hạ cố đến mấy câu hỏi đưa ra nơi khuỷu tay, chỉ lộ ra một hoặc hai ám chỉ mơ hồ mà thôi.

            Việc ấy cũng khá buồn cười, kiểu bộ tịch của Samoa tỏ ra lúc bấy giờ, ít ra là hướng về ông Viking. Còn với những người Mardi thì chàng thoải mái như đang ở nhà. Và khi ở đấy, ai lại chẳng duỗi chân và tự nhủ rằng, “Kẻ nào lớn hơn ta?”

            Nói thẳng ra: chuyện giữa chàng và Ông Giời là một thế cờ đã lật. Ngoài biển, Jarl từng là nhà tiên tri: một bậc hiền triết hàng hải, thông thái về cần sa và cần lái. Nhưng khi chiếc thuyền của chúng tôi được cao ráo thì anh Upolu đã ở tột đỉnh vinh quang của mình với vai trò là người ngoại giáo uyên bác, bậc thầy của Gog và Magoc[2], người cắt nghĩa mọi thứ bên ngoài văn minh và thuộc về bóng tối.

            Một hai giờ lúc này đã trôi qua trong cuộc chuyện trò rất ý vị với Media, cho đến khi tôi ngỏ ý rằng một chỗ nghỉ ngơi yên tĩnh sẽ rất được hoan nghênh. Lập tức ông cầm lấy một ngọn đèn sáp, đưa chúng tôi rời cung điện. Dẫn vào một dinh thự rộng rãi và chưa có người ở, Media cho tôi hiểu rằng nơi ấy giờ thuộc về tôi. Trèo lên bệ cao, ông tiến hành một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng, để biết chắc liệu mọi thứ đã đâu ra đó hay chưa. Có điều gì đó không vừa ý với mấy tấm thảm, ông cuộn chúng lại thành bó, rồi từng cái từng cái một bay vào đầu các gia nhân, những kẻ, nhận được ám hiệu nhẹ nhàng ấy, liền mang chúng đi và chẳng mấy chốc trở lại với những tấm thảm mới toanh. Những tấm thảm này được Media đích thân trải lên bục với độ chính xác toán học, quan sát kỹ càng những mép hoặc nếp xếp trên viền thảm, như thể ra sức truyền cho chúng một biểu đạt tình cảm.

            Việc ấy xong xuôi thì ông đi ra.

 

Khương Anh dịch

[1] Ezekiel 38 – 39

[2] Nguyên văn canoe-house, một nơi vừa dùng để họp mặt vừa dùng để cất xuồng.

 

Melville

Billy Budd (1924)
Mardi (1849)
Jacket trắng (1850)
Hawthorne và Rêu của ông (1850)
Người 'Gee (1853)
Người kéo vĩ cầm (1854)
Pudding của người nghèo và mẩu vụn của người giàu (1854)
Jimmy Rose (1855)
Ngắn (1855-1856)
Cúc-cà-cúc-cu (1856)
Tôi và ống khói của tôi (1856)


Nước Mỹ ấy

Hawthorne (1804–1864)
Edgar Allan Poe (1809–1849)
Thoreau (1817–1862)
Melville (1819–1891)
William James (1842–1910)
Henry James (1843–1916)
Edith Wharton (1862–1937)
Gertrude Stein (1874–1946)
Ezra Pound (1885–1972)
Philip Roth (1933 –2018)
Marilynne Robinson (1943)

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công