Melville: Mardi (kỳ 16)
Kỳ trước: khi Dê Biển lướt đi giữa đầm phá lặng như bầu trời thứ hai, cả đoàn bỗng phát hiện một quần đảo chưa ai từng nhắc đến. Những ngọn núi tím mờ, những rặng cọ và rạn san hô trắng sữa hiện ra qua làn hơi nước như ngọc. Nhưng hòn đảo dường như ngủ yên. Chỉ đến khi ba chiếc thuyền proa xuất hiện và lẩn khuất sau mũi đất, mọi người mới hiểu rằng mình đang lọt vào giữa cư dân của một vùng đất biệt lập. Cuối cùng, đám dân đảo ùa ra vác chiếc Dê Biển cùng cả người và lều lên vai, đưa sâu vào rừng, đặt lên những chạc cây như vật tế thần. Sự thán phục của dân đảo không chỉ dành cho Yillah mà còn lan sang cả “tôi”, mà họ bắt đầu xem như một á thần.
CHƯƠNG LI
GIẤC MƠ DẦN PHAI
Bị tước khỏi những mối liên hệ kỳ lạ, với những thứ mà một tâm trí như của Yillah hẳn phải tô điểm mọi biến cố cuộc đời nàng, câu chuyện về nơi ở của nàng ở Ardair hầu như không hề khó tin.
Nhưng từ những ý nghĩ ngông cuồng đã trở nên siêu trần hóa quá mức, nàng đã thực sự tin mình là một thụ tạo thuộc những vùng đất của những giấc mơ. Quá khứ huyền hồ của nàng là thực tại của nàng.
Khi chúng tôi càng lúc càng thân thiết, những tưởng vọng ấy dường như cũng mất chỗ đứng. Và nàng thường hay hỏi tôi về các hồi tưởng của chính tôi về hòn đảo không thực ấy. Và tôi cẩn thận cố gắng tạo ra cái ấn tượng, rằng hễ điều gì tôi từng nói về miền khí hậu ấy, thì đấy là đã được mặc khải cho tôi trong mơ; nhưng trong những giấc mơ ấy, khuôn mặt của nàng mỉm cười với tôi; thành thử mới có niềm thôi thúc đã đưa tôi lang thang đi tìm cái bản chất của hình ảnh tinh thần này.
Và thật là đúng khi nói thế; và thật phải lẽ khi thề như vậy, trên đôi tay trắng bắt chéo của nàng. Vì rằng, ôi, Yillah; chẳng phải em là biểu hiện trần thế của hình ảnh ngọt ngào, vốn đã ám ảnh những ý nghĩ ban đầu của tôi ư?
Mới đầu nàng đã tin cuồng nhiệt rằng thứ ái lực không tên giữa chúng tôi là do trong dĩ vãng chúng tôi từng sống cùng nhau ở cùng một miền đất siêu trần. Nhưng những suy nghĩ như thế chóng tàn lụi. Song không phải là không có những xét nét lạ lùng. Nàng nhìn vào mắt tôi chăm chú hơn bao giờ hết; áp tai nàng vào tim tôi, và nghe những nhịp đập của nó. Và tình yêu, trong con mắt đối tượng của nó vẫn luôn tìm cách điểm tô cho bản thân nó bằng những ưu thế hiếm có nào đó, tình yêu đôi lúc xui khiến tôi phải chống đỡ cho thứ thần tính đang sụp đổ của mình, dù chính tôi đã làm nó thành ra suy yếu.
Nhưng nếu tôi cảm thấy đầy tiếc nuối khi, dưới ánh mắt nàng Yillah, bản thân mình dần trở nên nhỏ bé như một phàm nhân; thì trái lại, tôi lại mang một cảm xúc hoàn toàn khác khi nhìn thấy trong lòng nàng, ý niệm về chính sự thần thánh của bản thân nàng tàn lụi đi. Bởi khi những ý nghĩ ấy bị xua tan, nàng lại càng bám lấy tôi, như thể không có tôi, nàng sẽ thực sự cô độc.
Và rồi, thỉnh thoảng, nàng trở nên u sầu, thường lặng lẽ nhìn đăm đăm ra biển cả thật lâu. Nàng không chịu nói lý do vì sao, cho đến khi cuối cùng nàng đành hé lộ: rằng, dù Aleema có gieo vào lòng nàng bao điều lừa dối đi nữa, thì có một điều nàng vẫn tin chắc - rằng xoáy nước ngoài bờ Tedaidee chính là điềm báo cho số phận nàng; rằng trong làn nước ấy, nàng nhìn thấy những đôi mắt sáng rực, những bóng ma vẫy gọi, và những hình thù kỳ dị đang trải rêu xanh làm giường mời nàng nằm xuống.
Những giấc mơ của nàng dường như cũng là của tôi. Tôi đã nhiều lần thấy trong mộng hình hài xanh rợn của lão thầy tế, dang rộng đôi tay dưới làn nước để đón lấy nàng Yillah tái nhợt khi nàng chìm xuống biển sâu
Thế nhưng các điềm triệu ấy đã đi khỏi, chẳng có niềm hạnh phúc nào trong vũ trụ này được như của chúng tôi. Chúng tôi sống và chúng tôi yêu; sự sống và tình yêu được kết hợp làm một; những ngày của chúng tôi lướt đi trong niềm vui sướng.
CHƯƠNG LII
KÌA ĐẤT LIỀN!
Năm mặt trời đã mọc và đã lặn. Nàng Yillah hằng mong được nhìn thấy bờ biển; ở đằng tây, chúng tôi cho thuyền mình hướng về, và sáng ngày hôm sau đất liền đã xuất hiện trong tầm mắt.
Vô số những hòn đảo nâng mình xanh biêng biếc qua làn gió da trời và đưa mắt nhìn ra biển rộng, trông như những ụ rơm khô giữa cánh đồng mù sương. Cao vượt trên hết thảy, ở chính giữa, một ngọn núi hùng vĩ nhô lên; một đám mây xốp dựa trên đầu núi; một thân cột quấn vành hoa. Tít đằng xa, như những ngọn đồi tím trên nền trời khi chiều tà, trải ra thật xa, có thứ gì tựa như những dải đất liền nằm trên những dải đất liền, trong phối cảnh vô tận.
Lướt đi tiếp, các hòn đảo dần rõ ràng hơn; nhô lên từ các ngọn sóng để gửi chúng tôi lời chào; bày ra những đồi, những thung, những đỉnh núi, quây tụ lại trong một vùng san hô trắng sữa, quá mênh mông, đến độ nhìn từ xa, trông tất cả đều mờ mờ ảo ảo. Những hơi nước châu ngọc, trước còn lơ lửng trên những bờ biển tím, mà nay như đang đà gieo xuống biển những viên ngọc quý của mình; và khi các tia nắng gần như nằm ngang đường chân trời, chiếu xuyên qua không khí như một lăng kính sẫm màu, chạm xuống miền cỏ xanh, nó rùng mình khắp nơi với những hạt sương lóng lánh.
Cứ thế chúng tôi tiến lại gần hơn: buồm của chúng tôi uể oải xịu xuống khi gió tắt dần tính từ vị trí của chúng tôi đến hải đảo. Những con sóng lả mình cuộn, như thể ý thức được rằng nhiệm vụ dài hơi của chúng đã sắp hoàn thành; rạn san hô trắng thì ánh lên, như vết của một con cá khổng lồ giữa mặt biển lặng. Song cho đến lúc này, chúng tôi vẫn chưa nhìn thấy một dấu hiệu nào của mái chèo hoặc xuồng; không một cột khói đằng xa, cũng chẳng một túp rạ sáng. Hoan hô! các bằng hữu tôi ơi, chúng ta đã tìm ra một chòm đảo[1] mới ngoài khơi.
Yillah yêu dấu, không đến Oroolia nữa; em không thấy vùng đất đầy hoa này sao? Chúng ta sẽ chẳng còn muốn lang thang vô định nữa.
Đi thuyền dọc khu vực ấy, chúng tôi đến một lối vào; và bỏ lại nền trời xanh biển rộng, chúng tôi dong buồm tới giữa mặt nước lặng, xanh lục của một đầm phá rộng. Được bày ra dưới những bóng lớn của các hải đảo, và nhuốm màu chỗ này chỗ kia với những sắc phản chiếu của những đám mây mặt trời, vùng nước ôn hòa trải quanh chúng tôi như một bầu trời khác. Ngay lối vào rạn san hô là một hòn đảo nhỏ, với những cây cọ gảy hạc trong gió; một lồng chim của những âm thanh lôi cuốn, dường như đang mời gọi chúng tôi cập bờ. Và đây, Yillah, được cảnh cây cối xanh tươi làm cho vui mừng, đã đưa ra một đề xuất vui vẻ. Không gì khác ngoài dựng cột buồm của chúng tôi, giương buồm, trên ngọn đồi cao nhất; và rồi tung cánh bay, khỏi hòn đảo và hết thảy; những cái cây đung đưa, những chú chim hót mừng, những bông hoa nhảy múa; tung bay, tung bay, băng qua biển rộng, đến Oroolia! Nhưng than ôi! mỏ neo rạn san hô của hải đảo nặng biết chừng nào, hàng lý dưới biển sâu khôn dò?
Chúng tôi nhìn chung quanh; nhưng hết thảy các đảo tựa như đang ngủ say dưới làn ánh sáng ngập tràn.
“Một chiếc xuồng! Một chiếc xuồng!” Samoa la lớn, khi ba chiếc thuyền proa xuất hiện đang vòng quanh một hải ngạn gần đó. Tức thì chúng tôi cho thuyền tới chỗ họ; nhưng sau khi dong buồm tới lui được một lúc, đứng dậy và nhìn chăm chăm vào chúng tôi, những người Dân Đảo đã nấp sau mũi đất. Vừa mới lẩn mất được một lúc thì từ nhiều hải ngạn chung quanh, các thuyền proa khác đã ùa ra. Chẳng bao lâu, vùng nước chung quanh chúng tôi bỗng trở nên khoái hoạt nhờ những đoàn xuồng lao khắp chỗ này chỗ kia như những con chim nước hoảng sợ. Ngay sau đó, tất cả bọn họ tiến về một hòn đảo.
Từ những hành động ấy, chúng tôi suy luận rằng những người này hẳn là rất ít hoặc không hề giao thiệp với người da trắng, khả năng cao là không biết giải thích thế nào cho sự xuất hiện của chúng tôi giữa những người này. Vì lý do ấy, mong muốn có cuộc gặp gỡ thân thiện trước khi có bất kỳ nghi kỵ thù địch nào có thể dấy lên, chúng tôi hướng thuyền về phía đảo, đến nơi mà tất cả những chiếc xuồng mà lúc này đều vội vã hướng về. Những người còn chưa đến được nơi muốn đến đã quay đầu và đi mất, trong khi những người trên thuyền proa đã cập bờ bỏ chạy vào các lùm cây, khuất dạng.
Băng qua đường đổ bóng hiển hiện của đảo trên mặt nước, chúng tôi đã đến được hải ngạn; và lướt dọc theo rìa của nó, băng qua từ xuồng này đến xuồng kia, đã được kéo lên bãi biển lặng như tờ, nếu không có chúng thì người ta sẽ tưởng nơi này rặt không một bóng người.
Một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng quyết định cho Jarl và Samoa xuống thuyền, để đi tìm và xoa dịu người dân bản địa. Vậy nên, họ bước xuống một trụ san hô, từ đó mà họ vất vả tiến vào bờ; còn tôi thì cùng Yillah cho thuyền ra vùng biển bên ngoài, chờ kết quả.
Trọn một tiếng đồng hồ hẳn đã trôi qua; chúng tôi vui mừng xiết bao khi nghe được những tiếng hô lớn và bỗng thấy một đám đông ồn ào náo nhiệt, mà giữa đám đông ấy ông Viking được cưỡi trên vai hai người bản địa đô con; trong khi anh Upolu, bước đi đằng trước, như đang tránh né một nỗ lực bị nâng lên cao không khác.
Cả hai điều này đều là điềm lành.
“Vào bờ đi!” Jarl la lớn. “Aramai[2]!” Samoa kêu lớn; trong khi những trận bão lời nói chen chúc nổi lên từ các Dân Đảo với những cử chỉ quá mức đang nhảy múa khắp bãi biển.
Thận trọng hơn nữa xem chừng thừa thãi: tôi hướng mũi thuyền vào bờ. Ngay khi nhận ra điều này, một tràng vỗ tay đã dâng lên, các Dân Đảo vắt giò lên cổ chạy ra biển. Và lướt như một chú mòng biển nơi đầm phá lặng, chiếc thuyền sà lúp nhẹ lao vào giữa họ. Nhanh như chớp, năm chục bàn tay đặt lên mép mạn; và, cùng bao nhiêu thứ ở trên thuyền, được nhấc bổng trên không, là chiếc Dê Biển nhỏ nhắn, trên những đôi vai sũng nước, được cất sâu vào các lùm cây. Yillah thét lên vì lắc lư, và khi các cành cây cọ xát vào lều.
Bằng gậy của mình, khi ấy một ông già chỉ vào một cặp cây như song sinh, cách nhau độ bốn bước; và một khoảng cách mặt đất một chút đã được chạc ra cho thuận tiện.
Và ở đấy, sau đó, họ mới đặt gánh của mình xuống; nhẹ nhàng hạ chiếc Dê Biển giữa các chạc cây, có tán lá như lá liễu kết viền quanh lều và người ở trong.
CHƯƠNG LIII
DÊ BIỂN LÊN BỜ
Cho tới lúc này, được bọc trong tấm áo choàng của nàng và nép mình như một chú hươu non, Yillah đã được giấu kỹ khỏi mọi ánh nhìn. Nhưng ngay sau đó nàng đã ra khỏi mui thuyền.
Những người Dân Đảo được nhìn thấy điều gì mà khiến họ phải chiêm ngắm và sùng mộ trong im lặng quá mức: một số thì rút đi, số khác thì rón tới, và đàn bà ai nấy cũng đều xốn xang? Họ cứ nhìn mãi; và noi gương Samoa, dang tay cung kính.
Sự tôn thờ dành cho nàng trinh nữ cũng lan sang cả tôi. Thật vậy, từ những cử chỉ khác thường mà họ sử dụng, tôi đã luôn ngờ rằng chúng tôi đang được đón tiếp bằng những nghi lễ chưa từng dành cho ai.
Lúc này tôi tìm cách cho các đồng bạn tôi được nói đôi lời. Nhưng đám đông quá om sòm đến độ bất khả. Jarl thì vẫn ngự ở tọa vị trên cao của ông; những người khiêng nhiệt tình còn chưa chịu cho ông xuống. Còn Samoa, người đã lo tránh cho khỏi bị đèo trên vai, thì nhanh chóng liệu bước lại gần thuyền Dê Biển.
Chàng khuyên tôi lúc này đừng có xuống, vì dù có ra sao thì ở trong đó chắc chắn chúng tôi sẽ được yên thân; các Dân Đảo xem nó như là một vật thiêng liêng.
Anh chàng Upolu thu hút rất nhiều chú ý, đa phần là từ phong cách xăm trổ của chàng, mà, cùng những đặc điểm kỳ lạ khác, đã gây chú ý cho những người bản địa quá, đến mức họ cứ vây xung quanh chàng mãi, hỏi những câu sấn sướt, và lúc nào cũng la lối dữ dội.
Dù phải gắng sức thở hổn hển, Samoa vẫn kịp cho tôi hay rằng, bất chấp đám đông tụ hội, chẳng có vị tù trưởng hay nhân vật quan trọng nào có mặt; vua của hòn đảo này, cũng như các vua ở những đảo lân cận, đều đã đi dự một lễ hội ở một vùng khác trong quần đảo. Nhưng ngay khi chiếc Dê Biển vừa thấp thoáng từ xa, những chiếc thuyền độc mộc nhanh nhất đã được phái đi để loan báo sự kiện bất ngờ vừa xảy ra.
Chẳng bao lâu, khi đám đông trở nên bớt ồn ào và không còn vây lấy Samoa nữa, tôi tranh thủ gọi chàng và ông Viking lên thuyền Dê Biển, hầu dồn sức chống lại mọi nguy biến.
Samoa bấy giờ cho tôi hiểu mọi điều mà chàng biết, ấy là những người Dân Đảo xem tôi như một thụ tạo thượng đẳng hơn. Họ đã hỏi chàng liệu tôi có phải Taji da trắng, một kiểu nửa thần nửa người chăng, mà đôi lúc là một Vị thần Giáng thế ở giữa họ, và thuộc hàng các cựu á thần bậc dưới xét về thẩm quyền. Samoa nói đúng thế, còn thêm mọi điều chàng biết để khuyến khích cho cái ý tưởng ấy nữa.
Bấy giờ chàng mới bảo tôi, ngay từ cơ hội ban đầu, tôi hãy xưng mình là Taji: tuyên bố rằng một khi nhận được danh hiệu á thần này, thì ta chắc chắn được hưởng lòng hiếu khách vô bờ bến trong buổi chiêu đãi chung; và người trong đoàn chúng ta sẽ tránh được mọi nguy hại.
Ý này tôi thấy rất thuyết phục. Nhưng thận trọng là tốt hơn cả. Bởi lẽ, dù ở một số xứ man di, những kẻ lạ đầu tiên đặt chân lên bờ thường được đón chào như những bậc thần linh - thậm chí, ở không ít miền hoang dã, họ còn được gọi thẳng là thần như một cách xưng hô quen thuộc - thì điều đó cũng không bảo đảm cho những vị khách trời ấy thoát khỏi hiểm nguy, nếu họ quá tự phụ vào sự đón tiếp dành cho mình. Giữa những cơn náo loạn bất chợt, họ có thể bị giết ngay lập tức, trong khi niềm tin vào tính thiêng liêng của họ vẫn không hề suy giảm. Cái chết bi thảm của một nhà hàng hải lừng danh là minh chứng rõ rệt cho sự thất thường khó lý giải ấy.
Thành thử, lo lắng không ít, chúng tôi chờ các nhân vật quyền cao chức trọng của Mard, vì chúng tôi được cho hay rằng phải gọi bằng danh từ chung này thì người ta mới nhận ra các hòn đảo.
Chúng tôi không phải đợi lâu. Từ ngoài bờ biển, một tiếng thét chói tai vang lên. Thêm một lúc nữa thì vang lừng vô vàn những kèn vỏ ốc làm khuấy động không khí; một tiếng hò hét hỗn độn càng lúc càng gần; và dồn ánh mắt của chúng tôi về phía của những âm thanh ấy, chúng tôi nôn nóng chờ điều sắp xảy đến.
Khương Anh dịch
[1] Nguyên văn constellation
[2] Phương ngữ Polynesia, haramai nghĩa là “đến đây”
Melville
Billy Budd (1924)
Mardi (1849)
Jacket trắng (1850)
Hawthorne và Rêu của ông (1850)
Người 'Gee (1853)
Người kéo vĩ cầm (1854)
Pudding của người nghèo và mẩu vụn của người giàu (1854)
Jimmy Rose (1855)
Ngắn (1855-1856)
Cúc-cà-cúc-cu (1856)
Tôi và ống khói của tôi (1856)
Nước Mỹ ấy
Hawthorne (1804–1864)
Edgar Allan Poe (1809–1849)
Thoreau (1817–1862)
Melville (1819–1891)
William James (1842–1910)
Henry James (1843–1916)
Edith Wharton (1862–1937)
Gertrude Stein (1874–1946)
Ezra Pound (1885–1972)
Philip Roth (1933 –2018)
Marilynne Robinson (1943)