favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

Melville: Mardi (kỳ 11)

17/06/2025 14:27

Kỳ trước, “tôi” phát hiện một thùng rượu Otard quý trong hầm tàu và quyết định giữ kín vì sợ gieo họa lên đầu đám bạn đồng hành hay ngủ gật.  Jarl và Samoa canh đêm tắc trách, nên “tôi” giao phiên trực cho Annatoo - nàng hào hứng với nhiệm vụ mới nhưng cũng ngày một quá quắt. Cuối cùng, “tôi” phải ra lệnh giam nàng mỗi đêm, và Jarl suýt nữa đòi ném nàng xuống nước. Trong khi đó, tàu vẫn phải nhắm mắt theo gió về hướng tây.

 

CHƯƠNG XXXV

A, ANNATOO!
 

            Để tiết lộ được trọn vẹn, tôi cần phải một lần nữa luận về Annatoo, những trò ăn cắp vặt của nàng và những trò ăn cắp vặt ấy rồi sẽ dẫn đến đâu. Trong tinh thần giản dị của tôi, tôi tưởng rằng quý phu nhân, vốn quá được tôn nịnh như nàng cần có, nhờ niềm tin tưởng tôi đặt nơi nàng, sẽ biết sửa sang tính nết cũng như ngưng những trò cắp vặt. Nhưng đâu phải như thế. Nàng bị hai chục con quỷ ám, cứ không ngừng xúi giục nàng giở trò ranh ma vì lợi ích riêng của chúng chứ chẳng phải của nàng, vì những trò chơi khăm ấy không hề mang lại bất kỳ lợi ích trần gian nào cho nàng, lúc này cũng như về sau.

            Một ngày nọ, cuộn nhật trình bị thất lạc. Tôi gọi Annatoo đến. Nàng đến, nhưng chẳng hay biết gì về nó. Jarl dành cả buổi sáng để tìm cho được một vật thay thế, và vài hôm sau thì bụp, chúng tôi phát hiện cái món ấy bị giấu tít trên bao lơn cột buồm chính.

            Một lần khác, phát hiện thấy con tàu nhỏ “nẹp” cứng khi lái tàu như thể có ai dưới nước đang giật ngược lại, chúng tôi tiến hành một cuộc khám xét kỹ lưỡng để xem vấn đề gì đây. Thì kìa; thứ chúng tôi thấy chỉ là một sợi dây thừng, chẳng biết quỷ quái thế nào mà mắc vào tấm tôn xích dưới chân giàn dây mạn phải. Nó bị kéo lê dưới nước. Lúc kéo nó lên - cũng nặng như lúc kéo sợi thừng của một xô nước nặng dưới giếng - thì thấy một chiếc hộp rắn chắc ngay đầu dây; bật nắp hộp thì thấy lộ ra linh tinh nào những con dao, rìu nhỏ và đầu rìu lớn.

            Được gọi lên chất vấn, anh Upolu cung khai rằng đã ba lần cứu nguy cho chính cái hộp ấy khỏi nanh vuốt vô cùng chiếm hữu của Annatoo.

            Ta có bốn người im thin thít trên con tàu gỗ sồi nhỏ nhoi này, và khi ấy, quyền lợi của họ ngang nhau. Có người trần mắt thịt biết điều nào lại cứ mãi can tội trộm cắp, chẳng vì lý do gì rõ ràng? Thật chẳng khác nào móc bạc từ túi bên này bỏ sang túi bên kia. Và việc đó có thể dẫn đến điều gì?

            Bởi lẽ, chẳng bao lâu sau, sự thể đã đến mức chiếc la bàn trong la bàn từ cũng bị lấy mất, đến nỗi chúng tôi đành phải kiếm cái thay thế, là cái mà chúng tôi đã mang lên cùng chiếc Dê Biển.

            Chính Jarl là người đầu tiên tố cáo vụ việc trộm cắp cuối cùng và đáng báo động này. Khi Annatoo đang ở cần lái vào lúc rạng ngày, ông đến để thay phiên cho nàng và nhìn xem chúng tôi đi tàu ra sao, để rồi giật mình kinh hãi nhìn vào cái la bàn từ rỗng không.

            Tôi bật dậy, đi tìm mụ đàn bà và dữ dằn đòi lại cái la bàn. Nhưng cái mặt ấy ngây ra; mỗi lời thốt ra là một lời chối bay chối biến.

            Còn khoan dung hơn nữa là điên rồ. Tôi gọi Samoa đến, kể cho anh chồng nghe chuyện đã xảy ra và dứt khoát rằng chúng ta không thể an toàn được trừ phi tối trời tống giam chị vợ. Về điều này thì anh chàng thầm đồng tâm nhất trí; và tối hôm ấy, khi Annatoo xuống boong mũi, chúng tôi chắn lại ngay cửa mạn trượt. Nàng kêu gào rất lâu nhưng vô ích. Và điều này được lặp lại mỗi tối; quý phu nhân đọc những chuỗi kinh chiều theo lối khí thế nhất.

            Đâu đó tôi từng ám chỉ rằng Annatoo cứ lâu lâu lại giương mắt nai với Jarl. Vậy nên tôi không ít ngạc nhiên khi thấy cung cách của nàng đối với ông thay đổi rõ rệt. Đang khi cùng chúng tôi kéo các dây buồm, nàng sẽ cấu ông vài cú láu lỉnh, đoạn nhìn đi chỗ khác, ngây thơ như một con cừu. Thế rồi, nàng sẽ không chịu xử lý với ông cũng cùng cái dây neo buồm ấy, làm mặt nhăn nhó, tráng sạch bình gỗ ở thùng nước, nếu khả năng cao rằng ông Viking vừa uống từ đấy. Nhiều lần khác, khi Ông Giời thực thà từ dưới boong đi lên, nàng sẽ làm bộ hét to chế nhạo và thè lưỡi ra; kèm theo hết thảy chuyện này là những cử chỉ thiếu lễ độ và vô cùng thiếu đoan trang, bật lên cái sự coi thường sâu sắc của nàng đối với ông.

            Thế nhưng Jarl chưa bao giờ chấp nhất đến hành động vô giáo dục của nàng, mà lại nhẫn nại lờ đi và tha thứ. Khi tìm hiểu lý do trong cách ăn nết ở kỳ lạ của quý phu nhân, tôi mới biết được, mắt đảo đi chỗ khác, rằng mới đây nàng đã giở trò lén lút với ông và không được tiếp đón nồng hậu.

            Rõ ràng, Jarl, một người quá thuộc loại triết gia, ngây thơ tưởng rằng người phụ nữ sẽ sớm tha thứ và quên ông đi. Nhưng một triết gia thì biết gì về phụ nữ?

            Chẳng bao lâu, những biểu hiện ghét cay ghét đắng của Annatoo với ông càng lúc càng chướng mắt, đến độ ông già thủy thủ thực thà không còn chịu đựng được nữa, và cũng như đa phần những người tốt tính khi bị chọc cho điên tiết, ông đã càn quét một trận lôi đình. Ông đề nghị rằng mụ đàn bà nên được bỏ vào bao và cho xuống biển; chứ ông không chịu đựng thêm một chút nào nữa.

            Giết người thì mang tính lây truyền. Ban đầu tôi suýt nữa chấp nhận ngay đề nghị này, nhưng cũng nhanh chóng bác bỏ nó. A! Annatoo: người phụ nữ không ai chịu đựng được: hỡi trời, xin giải thoát tôi khỏi cơn bịt bùng trên con tàu với thứ vò vẽ này đi.

            Nhưng chúng ta đã xong chuyện với nàng chưa? Chưa đâu. Nàng đã tiếp tục công tác trong cương vị được giao từ lúc bắt đầu chuyến hải trình: đó là các việc trong ban bếp núc. Bây giờ nàng bị phế truất. Cái xiên nướng thịt của nàng bị hỏng. Ông Viking long trọng quả quyết rằng ông sẽ chẳng ăn bất kỳ chế phẩm nào của nàng nữa, kẻo sẽ bị đầu độc. Còn về phần tôi, tôi thiếu điều tin rằng nơi ả hồ ly này có đủ ác tâm mà mang cho chúng tôi món nước dùng thiên tiên tử.

            Samoa nói sao về toàn bộ chuyện này? Bỏ qua chuyện nấu nướng, thì liệu có đáng tin rằng ngay khi đang sống giữa chúng tôi như chàng đây, chàng lại mù tịt trước những lỗi lầm đã được dự tính dẫu chưa thành của người vợ chàng? Nhưng sự thể đã vậy. Và đến tướng Belisarius đã cũng mù không khác về những mưu mô chước kế của nàng Antonina.

            Xin hãy nhớ đến mối tình của vị phu nhân cao quý ấy với chàng trai Theodosius; khi ông chồng khờ dại lại còn quay sang kết tội những kẻ tung tin đồn, với chính đôi sừng mà vợ mình đã cắm lên đầu ông ta.

            Một dịp nọ, bỗng nhận thấy một ham muốn bào chữa cho những việc trộm cắp của Annaoo, Samoa lấy làm hãnh diện thông báo rằng quý phu nhân đây là người phụ nữ đức hạnh nhất trong mọi người nữ.

            Nhưng than ôi, Annatoo tội nghiệp, phải nói thêm để làm gì? Và khi tôi nghĩ đến số phận nghiệt ngã sắp sửa giáng xuống nàng, tôi gần như ân hận vì đã kể lại câu chuyện này quá trung thực.

 

CHƯƠNG XXXVI
TÀU PARKI LÌA ĐỜI

            Một đợt lặng dài trên thuyền, và giờ đây, xin Chúa giúp cho, lại một đợt lặng khác trên tàu brigantine. Thời tiết bí hơi và ngập thở.

            Trong đợt biển lặng nóng bức ấy, chúng tôi nằm bất động và cứng đờ như Parry ở Cực Bắc. Mặt trời chơi đùa trên mặt biển bóng kính như mặt trời trên các sông băng.

            Vào cuối hai ngày, chúng tôi nhướng mắt nhìn và trông thấy một đám mây thấp, dần trườn, háu đói nở ra như một đội quân hai bên tả hữu dọc chân trời đằng đông. Tức thì Jarl bảo tôi hãy coi chừng.

            Ở đây xin nói rõ: dẫu rằng từ tuần này sang tuần nọ các vĩ độ xích đạo Thái Bình Dương ngự trị, những ngày ôn hòa nhất và sáng nắng nhất, khi giông tố đến, chúng kéo đến với tất cả sức mạnh của mình: tiêu cơn thịnh nộ ứ đặc bằng vài cơn gió cộc. Chúng đến như những Mamelukes: xông lên, rồi đi mất.

            Phải độ trọn một giờ nữa mới tới lúc chiều tà; thế mà mặt trời đã gần như bị che khuất. Trông nó như cuộn giữa những sườn dốc Scythia ảm đạm trên nền trời chếnh choáng. Phía trên đám mây giông, những mảng mây hơi nước báo điềm bay lơi, chóng tiến và nhanh rút: những kẻ gây chiến của Attila, ào ra từ trong toa của những tên lính Hun. Phía dưới, một bóng đen chập chờn trượt trên mặt biển. Khi chúng tôi chăm chăm nhìn, đám mây ấy đã đến gần hơn, càng lúc càng tiến nhanh.

            Gấp rút hết cỡ, chúng tôi lao vào cuộn các lá buồm mà, vì đợt biển lặng, đã chùng xuống trên dây cuộn. Và nhờ xà buồm trữ sẵn được dùng trên boong mũi làm mái chèo lớn, chúng tôi gắng sức hướng mũi tàu lao tới kẻ thù.

            Trận bão có vẻ sắp ập lên chúng tôi; nhưng chúng tôi chẳng thấy gió đâu. Đám mây vô thanh ấy lẻn tới; cái bóng đang tiến của nó đáp xuống trên một đầu sóng trắng sữa cá biệt và nổi bật trên mặt biển. Nhưng giờ đây lằn bọt sóng sùng sục ấy cuộn về phía chúng tôi như một cuộc xung kích trắng của các kỵ mã: Hotspur điên và mũ Murat lông trên đầu; xối thẳng tới một thác nước sủi bọt không ngớt, cuồn cuộn, và ngã dồn lên mặt biển gương phía trước nó.

            Vẫn chẳng một hơi gió. Bỗng chốc, như một cú đấm, và trước khi tấm bạt của chúng tôi được buộc chặt, chiếc thuyền phụ đang tròng trành bên mạn trái được gỡ khỏi hai đầu xà ngang: nước triều gầm hất tung vào bên mạn trước gió và những giọt nước biển lao xuống trên boong, nặng như những hạt máu đông.

            Tất cả là một trận ầm ĩ và mưa mù; một trận đâm sầm những xà buồm và dây buồm, một hòa lẫn kinh hoàng những cảnh tượng và tiếng động; tức khắc chúng tôi có vẻ đã ở ngay tâm bão kịch liệt; thừng chão của chúng tôi, như dây đàn hạc, rít bên trên luồng gió thịnh nộ. Các cột buồm dựng đứng, lắc lư, nhúng những chóp buồm của chúng xuống nước. Và như một con trâu bị húc ngã gục xuống đồng bằng, tấm thân đen của brigantine, rậm rì những rong tảo, nghiêng sườn hổn hển thở ngập bọt.

            Cuống cuồng chúng tôi bám lấy mép mạn. Và ầm vang bên trên tiếng biển gầm bỗng đâu nghe một tiếng dằm sắc, như tiếng tiều phu Na-uy đẵn thông. Chính là Jarl gan dạ, đã đầu tay rút khỏi giá treo của nó trên cột buồm cái rìu luôn được cất ở đấy.

            “Cắt dây buộc thuyền bên mạn trước gió!” ông la lớn và lần nữa bổ cây rìu của ông vào cột buồm. Chúng tôi nhanh chóng làm theo lời ông. Và sau khi cắt được ba trong năm dây buộc thuyền, ông hô to để chúng tôi ngưng. Thả rìu, ông leo lên mạn trước gió. Khi nắm được tay vịn, cột buồm thương tích gãy răng rắc làm đôi cùng một tiếng nổ như một khẩu pháo. Chỗ gãy cột ta có thể thấy được một làn bụi mỏng. Các dây buộc thuyền còn lại đã cắt xong. Bởi lực căng đè lên chúng, hai giàn dây níu điên cuồng bay trong gió và một trong số những ròng rọc lớn ở các đầu mút giáng trúng vào đầu Annatoo, nàng buông tay khỏi cột chống và trượt dọc boong tàu nghiêng, bị dòng nước xoáy nuốt chửng bên mạn dưới gió. Samoa thét gào. Nhưng thời gian đâu mà than khóc; chẳng một bàn tay nào với tới mà cứu được.

            Bằng những dây chằng đang nối, cột buồm chính lôi cột buồm mũi theo với nó; và ngay lúc đó, con tàu lập tức cân bằng trở lại, chúng tôi được cứu nhờ ông hoàng Viking vị cứu tinh của chúng tôi.

            Cơn thịnh nộ đầu tiên đã qua. Nhưng tận xa mạn dưới gió ta thấy lằn trắng đều của cuộc công kích của nó, đang cào biển thành bọt. Chung quanh chúng tôi, biển sôi lên như cả vạn vạc dầu; và xuyên qua gió lốc, sóng nhỏ lẫn sóng to, con tàu sắp chìm của chúng tôi nặng nề lội, mỗi cú húc chắc nịch làm vang dội trong thân tàu như những cú thụi vào hòm.

            Như một xác tàu chúng tôi trôi. Với mỗi dập dềnh chúng tôi lại giơ xà buồm tam giác lên trong không trung; va vào mạn tàu là rải rác những khúc vụn của các cột buồm. Chúng tôi nhanh chóng hết sức tự giải thoát khỏi chúng bằng cách cắt đứt hệ thống thừng chão còn buộc vào chúng.

            Chẳng bao lâu, đợt xấu nhất của cơn bão đã qua. Nhưng biển dâng cao.  Lớp mây vụn và bọt bão cuồng loạn trước đó giờ đã bị dằn vào trong những cơn sóng cồn cuộn dài, trải rộng, mênh mông; bọt kem trắng trên các đầu sóng của chúng như tuyết trên đỉnh Andes. Đôi lúc chúng tôi lơ lửng trên sườn sóng; khi ấy, đại dương xếp luống bốn bề trông như toàn cảnh từ đỉnh Chimborazo.

            Vài giờ tiếp theo, các đợt sóng lớn đã hạ bớt. Kia một vùng biển ôn hòa, một cơn gió ổn định, và một bầu trời trong, đầy sao.

            Đó là cơn bão đã đến sau đợt biển lặng của chúng tôi.

 

CHƯƠNG XXXVII

LẦN NỮA HỌ LÊN CHIẾC DÊ BIỂN
 

            Thử các tay bơm. Chúng tôi thả hòn chì và nhận thấy tàu Parki đổ máu ở mọi kẽ hở. Từ miệng hầm tàu, nước như suối òng ọc tuôn vào, sạch và trong như nước Saratoga.  Giờ tận của nó đã điểm. Nhưng bằng việc giữ các tay bơm, chúng tôi chắc chắn con tàu sẽ trụ được tới sáng, vì trước giờ đó chúng tôi không muốn bỏ tàu.

            Quãng thời gian ấy chúng tôi cọc cạch bơm, để chuẩn bị cho thuyền Dê Biển đón biển. Ngay khi biển cho phép, chúng tôi thả thuyền xuống bên mạn và để nó lơ lửng ở đằng đuôi tàu, chất lên thuyền những nước và lương thực cùng với nhiều thứ khác, gồm những cây súng hỏa mai và đoản kiếm.

Ngay sau khi trời hửng sáng, những cú va đập, lắc lư dữ dội dưới chân cho thấy nước trong khoang, bất chấp mọi công sức bơm, đã dâng nhanh đến mức làm những thùng tô-nô rỗng nhẹ nổi lên, đập thình thịch vào sàn tàu.     

            Lẽ ra, nhờ có nhiều thùng rỗng trong hầm, con tàu sẽ khó mà chìm hẳn, dù boong tàu sớm muộn cũng sẽ ngập; nhưng có một số thanh gỗ trên tàu đều thuộc loại gỗ bản địa, một loại gỗ, như gỗ tếch Ấn Độ, có đặc tính nặng hơn nước. Vấn đề ấy, cùng những vỏ trai ngọc trên tàu, đã làm mất tác dụng của sức nổi nhờ các thùng tô-nô.

Cuối cùng thì mặt trời hằng chờ bấy lâu đã mọc; tàu Parki lúc này chìm càng lúc càng sâu.

            Hết thảy mọi thứ đã sẵn sàng, chúng tôi khởi sự rời xác tàu để lên thuyền, như rời một bến cảng.

            Nhưng không phải là không có một chút tỏ bày niềm yêu mến với con tàu brigantine tội nghiệp của chúng tôi.

            Đối với một thủy thủ, một con tàu không chỉ là một khối bộ máy đơn thuần mà còn là một sinh vật có suy nghĩ và kiểu cách, có bản năng sống. Khi đứng bên chiếc vô lăng lái đang rung lắc, bạn cảm nhận được mạch đập của nó. Tôi đã yêu mến những con tàu, như tôi đã yêu mến những con người.

            Bỏ con tàu Parki tội nghiệp cũng giống như bỏ mặc một thứ gì biết cảm nhận số phận của nó. Thật phải lẽ khi ta để cho con tàu được chết một cách đường hoàng và anh dũng.

            Toàn bộ suy nghĩ ấy là của Ông Giời. Samoa và tôi thì đã lên thuyền, gọi ông nhanh chóng lên, kẻo tàu chìm, rồi sẽ lôi cả chúng ta xuống những xoáy nước; bởi con tàu quay đã trọn hai vòng. Nhưng Jarl vẫn dứt khoát chặt bỏ những đoạn dây buồm cuối cùng còn vướng, dọn các boong cho tử tế, vùi chiếc rìu của ông vào chân cột buồm chính đã vỡ nứt, rồi mới lên thuyền với chúng tôi.

Chúng tôi khẽ reo lên, rồi nhổ neo đi.

            Chưa tới mười phút sau, thân tàu cuộn loạn dưới biển, quay vòng lần cuối, hướng mũi tàu nhọn như một người giơ tay sắp lặn, trao một cú lao mình dài xáo động và chìm xuống.

            Nhiều tấm ván cũ của tàu đã từng hai lần va hỏng, trước đây từng vỡ vụn trên bờ biển, lúc này bỏ xác dưới một hầm biển thẳm sâu nhất, cùng xương cốt của những xác tàu đắm và những người chết đuối.

            Thế là lại được lênh đênh trên chiếc thuyền của chúng tôi nữa rồi! Nhưng lần này không còn cái khí phách gan lì như lúc chèo ra khỏi boong tàu Arcturion. Một việc táo bạo được làm trong cơn bốc đồng thì thường chẳng kéo theo mấy sợ hãi. Nhưng khi bị buộc phải làm, nó sẽ trừng trừng bày ra nỗi kinh hoàng ngay trước mắt. Cũng như lúc này đây. Tôi đã từng lao khỏi con tàu Arcturion với lòng can đảm; nhưng khi từ bỏ xác tàu đắm Parki này, lòng tôi cũng đắm cùng với nó.

            Với một làn gió thuận, chúng tôi tiếp tục hướng về phía tây, mong được nhìn thấy đất liền trước khi nhiều ngày trôi qua.

 

CHƯƠNG XXXVIII

BIỂN CHÁY
 

            Màn đêm, sau cảnh rời tàu Parki, đã trở nên đáng nhớ nhờ một cảnh tượng đặc biệt.

            Đang khi thiu thiu ngủ trên sàn thuyền, Jarl và tôi bất chợt bị Samoa đánh thức. Giật mình, chúng tôi trông thấy đại dương mang một màu trắng xanh, loá chói khắp nơi với những đốm sáng vàng. Nhưng cái sắc nước đang tỏa sáng khắp nơi ấy đổ một thứ ánh sáng tái nhợt lên thuyền, thế nên chúng tôi quay sang nhau nhìn như những hồn ma. Vì cách nhiều trượng ở đằng đuôi, đường rẽ nước của chúng tôi để vết thành một lằn bọt sáng ào ạt; trong khi đâu đó bên dưới mặt biển, vệt nước của những con cá mập hiện ra nhờ những dải màu lục phớt sống động, băng qua lướt lại với nhau từ mọi hướng. Ở đằng xa, và được phân bố theo đàn, nổi trên mặt biển như những chòm sao trên trời là vô vàn những Medusæ, một loài cá nhỏ, tròn, sặc sỡ, chỉ có thể thấy ở các vùng Biển phía Nam và Ấn Độ Dương.

            Bỗng chốc, khi chúng tôi đang chăm chú nhìn, vút cao trên không trung là một luồng phùn phụt những chớp lóe, đi kèm những tiếng thở sâu không thể nhầm lẫn của một con cá nhà táng. Chẳng bao lâu sau, vùng biển chung quanh chúng tôi phụt ra những đài phun lửa; và bạt ngàn những hình thù, phát ra một ánh chói lòa bên hông chúng, và đôi lúc ngẩng cao đầu khỏi mặt nước, và giũ những hạt lấp lánh, cho thấy vị trí cả một đàn lớn những con Cachalot trỗi lên từ dưới để nô giỡn giữa những cuộn sóng lân quang.

            Luồng hơi nước phụt ra sáng rực hơn bất cứ phần nào của mặt biển; có lẽ vì chất dịch phát quang vốn đã sáng, khi đi qua ống phun của cá nhà táng lại càng thêm rực rỡ.

            Chúng tôi sợ hãi tội độ, sợ rằng mấy con Thuỷ Quái ấy sẽ vô tình hủy diệt chúng tôi bằng cách tiến đến sát thuyền. Chúng tôi đã có thể tránh xa chúng; nhưng tất cả bọn chúng cứ bao quanh chúng tôi tứ bề. Tuy thế chúng tôi vẫn an toàn; vì khi chúng tôi rẽ làn nước xanh, đường sáng chói khác thường được vạch từ sống thuyền của chúng tôi có vẻ làm chúng nao núng. Chắc là bất giác phát hiện thấy chúng tôi, nhiều con đã lao thẳng xuống nước, hất những cái đuôi cáu bẳn lên cao trong không trung, khiến mặt biển càng thêm lấp lánh vì cú lao mình dữ dội của chúng.

            Hướng chính của chúng chắc cũng chung hướng với chúng tôi, về phía tây. Để tránh xa khỏi bọn này, rốt cuộc chúng tôi cũng đưa chèo và kéo về phía bắc. Khi làm vậy, chúng tôi bị một chú cá voi độc nhất đuổi theo, chắc đã nhầm chiếc Dê Biển với một con cá cùng họ cùng hàng. Mặc cho hết thảy nỗ lực của chúng tôi, chú cá càng lúc càng tiến gần, để rồi quẹt cái sườn sôi nổi của chú vào mép mạn Dê Biển, chỗ này chỗ kia để lại những dải dài chất trong suốt bóng loáng mỏng như tơ phủ lấy thân con Cachalot.

            Kinh hoàng trước cảnh tượng quá mới lạ, Samoa rụt người. Nhưng Jarl và tôi, đã quen với sự đồng hành thân mật của loài cá voi, thì dùng mái chèo đẩy nó cho xa khỏi thuyền: một công việc thường làm trong nghề săn cá.

            Khi được ở gần cá voi, đã hồi sinh nơi Ông Giời lâu năm tinh nhạy tất cả sự nhiệt thành trong thiên hướng táo bạo của mình. Dẫu bản tính có trầm lặng cỡ nào, một người thợ chuyên nghề săn cá voi cũng bộc lộ không ít niềm hứng khởi trong cuộc chơi trước mắt. Và cần phải có đôi chút thuyết phục mới ngăn Jarl khỏi phóng cây lao của ông: một hành động điên rồ trong tình cảnh này, và dĩ nhiên hoàn toàn vô ích. Nhưng “Ôi! Găm một cú thôi,” ông Viking của tôi la to. Và lại còn “Con tàu xưa của chúng ta giờ đang nơi nao?” ông nhớ nhung thêm vào.

            Nhưng tôi vui vô cùng khi con quái vật ấy rốt cuộc cũng rời đi, nhập lại với đàn, mà những phụt lửa cao ngất của chúng vẫn còn thấy được nơi chân trời đằng xa, hiện ra ở đấy như những ẩn hiện thất thường của Cực Quang.

            Biển giữ được độ sáng của nó khoảng ba tiếng đồng hồ, khi được nửa khoảng thời gian ấy thì bắt đầu mờ đi, và ngoại trừ những ánh sáng yếu ớt thất thường do những con cá lao nhanh dưới nước, hiện tượng này cuối cùng cũng hoàn toàn biến mất.

            Trước đây, có lần tôi được chứng kiến một vài triển lãm về lân quang hải dương, cả ở vùng Đại Tây Dương lẫn Thái Bình Dương. Nhưng không có gì có thể sánh với cảnh tượng được chứng kiến đêm ấy. Ở Đại Tây Dương, rất hiếm khi có khu vực nào phát sáng, trừ các đỉnh sóng; và chúng đa phần xuất hiện khi trời ẩm ướt, âm u. Trong khi đó, ở Thái Bình Dương, mọi lần tôi từng thấy đều chỉ là những mảng sáng lục lờ mờ, mà mặt biển xung quanh vẫn tối đen. Chỉ trừ hai lần ngoài khơi bờ biển Peru, khi tôi bị gọi dậy khỏi võng lúc nửa đêm bởi tiếng hô hoảng “Tất cả thủy thủ, mau lên boong! Đổi hướng tàu!” Và khi chạy lên boong, tôi nhìn thấy mặt biển trắng toát như tấm vải liệm; chính vì thế mọi người lo sợ tàu đang tiến vào vùng nước cạn.

Các thủy thủy rất thích những điều kỳ thú và thích kể lại chúng. Tôi cũng từng nghe được từ các lão bạn tàu nhiều phát biểu khôn ngoan về hiện tượng nói trên. Do thiếu viện lẽ triết học có cơ sở, người này bác bỏ ý niệm ngông cuồng của một trong số bạn bè hàng hải của tôi - một triết gia chẳng kém gì ông Viking - rằng ánh phát quang của biển là do bầy tiên cá khuấy động mặt nước, mái tóc vàng óng của chúng, lúc bị giật tung và rối bời, sẽ phát sáng làm rực lên sóng nước; tôi xin tiếp tục ghi lại những thuyết đáng tin cậy hơn.

            Faraday, biết đâu chừng, có lẽ đã quy hiện tượng này thành một điều kiện điện từ đặc biệt trong khí quyển và chỉ xuất hiện trong khí quyển mà thôi. Nhưng ở đây, người bạn khoa học của tôi sẽ bị phủ nhận chắc nịch bởi các thủy thủ sáng dạ, những người mà, trong chừng mực nhất định, lại quy nó thành sự xuất hiện của một lượng lớn chất động vật thối rữa, vốn đầy khắp biển khơi.

            Và xem ra cũng không phải là điều vô lý khi cho rằng, chính nhờ cách ấy mà chất lỏng ấy trở nên tích điện phát quang. Ta múc một thùng nước từ đại dương lân quang, và ở trong thùng ta vẫn còn thấy những vệt lửa; nhưng khi để yên một lúc thì hiện tượng này đã sớm lắng đi. Giờ ta đổ nước dọc boong tàu thì một dòng lửa chảy xuất hiện, do sự khuấy động mới làm nó lại bừng sáng. Ta đổ nước khỏi thùng, trong thùng vẫn còn những hạt lấp lánh ngoan cố bám vào trong chốc lát, và thành thùng tựa như đang bốc cháy.

            Nhưng suy cho cùng, sự bốc cháy bề ngoài của biển ấy không thể nào hoàn toàn được tạo ra nhờ chất chết trong đó. Có những loài cá đang sống phát lân quang; và trong những điều kiện nhất định, nhờ liên tục phát tán các hạt sáng li ti, chúng góp phần rất lớn vào hiệu ứng ấy. Đấy là ta còn chưa xác định trường hợp này đúng với nhiều loài cá mập, cá mực và nhiều loài khác thuộc các bộ có vây - hàng vạn động vật thân mềm siêu nhỏ, thường bơi trong tầm dây dọi, mà có lẽ chỉ riêng chúng cũng đủ để nhóm lửa làn biển mặn.

            Song những điều ấy chỉ là các ức đoán: có khả năng, nhưng chưa chắc chắn.

            Sau chuyện khoa học, ta bàn chuyện tình cảm.

            Một nhà tự nhiên học người Pháp cho rằng ánh rực rỡ ban đêm của đom đóm mục đích là để thu hút con khác giới; rằng loài côn trùng khéo léo phát sáng thân nó để làm đèn hiệu dẫn đường tình yêu. Như thế: đậu trên mép lá, và chờ chàng Leander của nàng, đang đến tung cánh vỗ hương hoa, một nàng côn trùng Hero nào đó sẽ thắp đuốc cho người tình thanh nhã của nàng.

            Nhưng than ôi, tam bận than ôi cho bầy cá lửa nhỏ nhắn tội nghiệp nơi biển khơi, có sức tỏa sáng nhưng lại làm đèn hiệu cho kẻ thù, dẫn đường cho sự hủy diệt của chúng.

 

Melville

Billy Budd (1924)
Mardi (1849)
Jacket trắng (1850)
Hawthorne và Rêu của ông (1850)
Người 'Gee (1853)
Người kéo vĩ cầm (1854)
Pudding của người nghèo và mẩu vụn của người giàu (1854)
Jimmy Rose (1855)
Ngắn (1855-1856)
Cúc-cà-cúc-cu (1856)
Tôi và ống khói của tôi (1856)


Nước Mỹ ấy

Hawthorne (1804–1864)
Edgar Allan Poe (1809–1849)
Thoreau (1817–1862)
Melville (1819–1891)
William James (1842–1910)
Henry James (1843–1916)
Edith Wharton (1862–1937)
Gertrude Stein (1874–1946)
Ezra Pound (1885–1972)
Philip Roth (1933 –2018)
Marilynne Robinson (1943)

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công