Chesterton: Một nhà thơ đã chết
Từ All Things Considered
Cái chết của Francis Thompson tước đoạt khỏi tay chúng ta một năng lượng thi ca mãnh liệt nhất kể từ thời Browning. Năng lượng của hai nhà thơ này đã gặp nhau ở điểm nào đó. Sự phức tạp về mặt trí tuệ của Browning đến từ sự giản đơn về mặt đạo đức. Ông quá giản đơn để tự biện, quá khiêm hạ để nghĩ rằng người khác cần bất kỳ một lời biện giải nào. Nhưng sức mạnh thực sự của Browning, cũng như của Francis Thompson, được bộc lộ rõ nhất thông qua nỗi say mê của hai người ở cả những đại cục lẫn chi tiết. Bất kỳ tín đồ thường thấy nào của chủ nghĩa đế quốc cũng đều có thể nghĩ lớn, miễn là hắn không bị yêu cầu phải nghĩ mọn lại. Bất kỳ triết gia khoa học thường thấy nào cũng đều có thể nghĩ mọn, miễn là gã không bị yêu cầu phải nghĩ lớn lên. Nhưng những nhà thơ vĩ đại không chối từ việc dùng từ kính viễn vọng cho tới kính hiển vi. Sự khó hiểu nơi họ thường xuất phát từ hai nguyên do trái ngược: họ khi thì nói về những thứ quá lớn để có bất kỳ ai có thể thấu được, khi thì nói về những thứ quá nhỏ để có bất kỳ ai có thể thấy được. Francis Thompson sở hữu cả hai cực đỉnh ấy. Như loài vi sinh, ông trượt khỏi những hiểu biết thường quy vì quá nhỏ; hoặc quá lớn - tựa thiên hà. Ai đã đọc thơ Thompson rồi ắt hiểu điều tôi vừa nói. Với những ai chưa có dịp, xin dẫn ra hai ví dụ tôi nhớ được. Vì không có cuốn sách bên mình, tôi chỉ có thể diễn đạt vụng về lại theo trí nhớ thô thiển. Trong một bài thơ nọ, ông sử dụng một hình ảnh to lớn tới mức ta khó lòng mà nắm bắt ngay được; ông miêu tả Trái Đất trong khắc chiều buông với sương khói và hương thơm, rồi ví von cả quả cầu ấy như một làn khói cuồn cuộn bốc lên; bỗng, ông gọi quả đất là một lư hương vĩ đại được linh hồn khổng lồ nào đó đu đưa nhẹ nhàng trước mặt Chúa. Đó là trường hợp khi sự ví von hình ảnh to quá sự khả tri thông thường. Một trường hợp khác, khi hình ảnh nhỏ quá: trong bài thơ nọ, ông viết rằng đáy vực giữa cái đã biết với cái chưa biết được nối với nhau bằng “cái chết Giáo hoàng” (pontifical death). Chỉ một cụm đấy thôi mà chứa đựng biết bao nhiêu cách chơi chữ từ lịch sử đến thần học: rằng từ “pontiff” có thể mang nghĩa giáo hoàng hoặc giám mục và từ giáo hoàng lại có gốc là người xây cầu, vậy nghĩa là, cái chết chắc chắn là một nhịp cầu, rằng cái chết lúc này có thể trở thành một giám mục hoà giải, rằng đến cuối cùng thì giám mục hay cầu đều chứng minh cho sự chia cắt của hai thực thể - những ý tưởng ấy, cùng muôn vàn nữa, đều xuất phát từ chỉ một từ “pontifical”. Thơ Thompson như là vũ trụ, bạn có thể vừa đi ngang vô biên, vừa đi sâu vô cùng. Hai cực đỉnh ấy đều là dấu hiệu cho thấy sự vĩ đại - Thompson là một nhà thơ lớn.
Bên dưới dòng nước cuồn cuộn những lời tán dương cho một nhà thơ lớn đã khuất còn có một mạch tranh luận ngầm về ông; một số lời buộc tội ông không vững vàng về mặt đạo đức đã chính thức bị bác bỏ trên Nation; cùng với đó là những bàn tán xôn xao về việc ông bị thu hút bởi tư tưởng thần học Cơ đốc, thứ đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo những năm cuối đời. Vấn đề này quan trọng tới mức cần phải làm rõ ngay lúc này. Đúng là Thompson ngày càng dành tâm huyết cho những bài thơ không thuần tuý Cơ đốc, mà chúng còn mang tính giáo hội rất rõ rệt[1]. Và nếu xu hướng này tiếp diễn, ngày càng sẽ có nhiều thi sĩ tài năng làm điều tương tự. Thi sĩ sẽ có xu hướng tiến về Cơ đốc chính thống vì một lý do cực kỳ đơn giản: đó là thứ duy nhất còn giản dị và tự do trong thế giới này. Khi người ta quy gán những tội lỗi cho Giáo hội, họ quên mất rằng thế giới - thứ duy nhất còn lại để xét tới - thậm chí còn chứa những tội lỗi tệ hại hơn nhiều. Giáo hội tàn nhẫn, nhưng thế giới này tàn nhẫn hơn. Giáo hội đầy mưu toan, nhưng thế giới mưu toan nhiều hơn. Giáo hội mê tín, nhưng chưa bao giờ sánh kịp sự mê tín của thế giới khi nó bị bỏ mặc cho ra sao thì ra.
Trong thời đại của chúng ta, thi sĩ sẽ hướng về tôn giáo mang tính giáo hội vì nó cho phép họ tự do hơn bất kỳ thứ gì khác. Lấy ví dụ về biểu tượng và nghi lễ, chẳng hạn. Người đời đều tin vào biểu tượng, nhưng sẽ có nhiều người trong số đó không tin vào sự lễ nghi - nghĩa là, họ không còn tin vào sự biểu trưng nữa nếu nó trở nên quá rườm rà, phức tạp và máy móc đối với họ. Ngặt một nỗi, khi nói về nghi lễ, họ luôn đồng nhất và quay sang hướng về nghi lễ nhà thờ. Sao họ không nhắm vào các nghi lễ của thế giới? Chúng còn mang tính lễ nghi hơn gấp bội nữa kìa! Nghi lễ quân đội, hải quân, toà án, nghị viện,... đều sặc mùi lễ nghi hơn. Ngay cả nghi lễ trong những yến tiệc cũng có tính lễ nghi hơn. Linh mục có thể dát vàng ngọc lên chén thánh, nhưng ít ra chỉ có một chén. Trong khi ở bàn tiệc, bạn phải đối mặt tới năm loại chén kỳ quái, mỗi chén lại đựng mỗi loại rượu - một sự lễ nghi được cường điệu đến mức điên rồ, khiến cả Percy Dearmer[2] cũng phải bỏ chạy. Khi một giám mục đội mũ mitra, chẳng ai đánh giá ngài có phải thực sự là một giám mục hay không dựa vào đường cong trên chiếc mũ. Ngược lại, một kẻ sành điệu luôn bị người qua đường đánh giá sự sành điệu của hắn bằng cách xem xét liệu đường cong trên mũ của hắn có tân thời hay không. Người đời còn quan tâm biểu tượng hơn cả Giáo hội đấy thôi!
Nhưng thật kỳ lạ, trong khi họ ngày càng cầu kỳ hơn với các biểu tượng trần tục, ý nghĩa mà các biểu tượng ấy mang theo lại ngày càng nghèo nàn hơn. Biểu tượng tôn giáo luôn trỏ về những điều huyền nhiệm, trong khi biểu tượng trần tục thường tuyên xưng những điều hết sức hiển nhiên, mà thứ hiển nhiên là thứ dối trá. Khi một Giáo hoàng tự xưng là “cha” trong các thông điệp chính thức, đó về vấn đề về đức tin, về tin hay nghi. Nhưng khi Công tước xứ Devonshire ký dưới thư “kẻ hèn này xin tuân lời,” bạn biết ngay ông ta đang muốn nói điều ngược lại. Các thể thức tôn giáo, trong trường hợp tệ nhất, chúng vẫn là những ngụ ngôn - nghĩa là chúng có thể là thật. Nhưng các thể thức trần tục đều là giả dối - nghĩa là chúng không bao giờ là thật. Lấy một ví dụ thời sự, Hoàng đế Đức có nhiều trang phục hơn Giáo hoàng. Nhưng hãy nhìn vào vấn đề quan trọng hơn, trong khi mọi phẩm phục Giáo hoàng đều ám chỉ những gì huyền nhiệm và đáng ngờ, nhiều bộ quân phục của Hoàng đế Đức như ngầm khẳng định đó chắc chắn là không phải là những gì làm nên ông - và thật kinh tởm nếu ngược lại. Giáo hoàng có thể là Đại diện Chúa Kitô hoặc không. Nhưng Hoàng đế Đức chắc chắn không phải Đại tá Anh. Điều đó mà đúng thì ông ta sẽ bị kết tội phản quốc. Nếu chỉ là nghi lễ, đó là thứ nghi lễ giả tạo nhất hành tinh.
Trong bối cảnh như hiện tại, những tâm hồn thi sĩ như Francis Thompson sẽ xa rời xã hội trần tục và hướng về tôn giáo là bởi vì hai lý do trên: cả hai mặt đều có những biểu tượng, nhưng biểu tượng của tôn giáo giản dị mà sâu sắc hơn. Thánh giá thi vị hơn cờ Liên hiệp Anh bởi nó đơn giản hơn. Ý tưởng càng đơn giản thì càng sinh sôi. Thompson có thể viết vô số bài thơ hay về Thánh giá vì đó là biểu tượng ban sơ, cội rễ nhất. Trong khi số bài thơ Rudyard Kipling có thể viết về cờ Liên hiệp có thể bị giới hạn - vì lá cờ ấy quá phức tạp để khơi nguồn cảm hứng. Nguyên tắc này áp dụng cho mọi trường hợp. Một thi sĩ như Thompson có thể rút ra vô vàn ý nghĩa từ bánh mì và rượu - từ hai thứ giản dị đó, ông có thể mở ra vô tận. Nhưng đứng trước một thực đơn kiểu Pháp, người ta sẽ chẳng mở ra được gì ngoại trừ mỡ bụng. Những ý tưởng rắc rối không có tính tạo sinh. Những sinh vật tạo nên nhờ lai ghép thì vô sinh. Nghi lễ tôn giáo hấp dẫn vì nó có lý lẽ riêng của nó. Những hình tượng tôn giáo, chẳng bao giờ cầu kỳ vặn vẹo, chính là thứ giản đơn duy nhất còn sót lại cho người thi sĩ. Chẳng phải thứ gì cao phàm, đó là thứ con người duy nhất còn sót lại cho loài người.
Bùi Gia Bin dịch
[1] Thơ Thompson không dừng ở việc thể hiện đức tin cá nhân (như cầu nguyện, trải nghiệm tâm linh), mà đi xa hơn: khai thác hệ thống biểu tượng nghi lễ của Giáo hội (bánh thánh, rượu lễ, nghi thức phụng vụ...). Ông đào sâu vào những nghi thức bị nhiều người chê là "cứng nhắc" (như lễ Missa, các phẩm phục linh mục), những thứ Chesterton gọi là ‘có tính giáo hội’ (ecclesiastical)
[2] Percy Dearmer (1867 - 1936): Một linh mục, nhà nghiên cứu việc thực hành thờ phụng người Anh. Ông nổi tiếng với các đề xuất đơn giản hoá nghi lễ.