Thời chúng ta: nhẹ và lỏng
Zygmunt Bauman nhìn thấy ở cấu trúc xã hội hiện đại một yếu tính, vốn là kết quả tất yếu và là thứ chi phối toàn bộ cuộc sống con người và được xem xét như căn nguyên mọi vấn đề lớn của thời đại: sự lỏng. Các suy tư về tính lỏng của thời hiện đại là một chủ đề lớn của Bauman, trải dài qua rất nhiều phân tích xã hội ở giai đoạn sau trong sự nghiệp xã hội học của ông, được mở đầu bằng Liquid Modernity, xuất bản năm 2000. Sau đây là tiểu luận được đặt làm lời mở đầu cho Liquid Modernity, “On Being Light and Liquid.”
Trở nên nhẹ và lỏng
- Zygmunt Bauman
Sự gián đoạn, rời rạc, kinh ngạc là hoàn cảnh của cuộc sống chúng ta. Chúng thậm chí đã trở thành nhu cầu thực sự của nhiều người, mà đầu óc không còn được nuôi dưỡng bởi bất kỳ thứ gì ngoài những thay đổi bất chợt và sự kích thích liên tục được làm mới. Chúng ta không còn có thể chịu đựng bất kỳ cái gì kéo dài. Chúng ta không còn biết làm thế nào để nỗi buồn chán sinh hoa trái.
Thế nên toàn bộ câu hỏi được đặt ra là: liệu đầu óc con người có làm chủ được thứ đầu óc con người đã tạo ra không?
Paul Valery
‘Chảy’ là đặc tính của chất lỏng và chất khí. Điều phân biệt cả hai chất này với chất rắn, như Bách khoa thư Britannica đã nêu rõ, là chúng ‘không thể chịu lực theo phương tiếp tuyến hay lực cắt khi đứng yên’ và thế nên ‘liên tục thay đổi hình dạng khi buộc phải chịu một sức ép như vậy’.
Sự thay đổi vị trí liên tục và bất khả vãn hồi ấy của phần này so với phần khác của chất liệu khi chịu lực cắt tạo thành sự chảy, một tính chất đặc trưng của chất lưu. Ngược lại, lực cắt tác dụng bên trong một chất rắn, bị hãm lại trong một tư thế xoắn hoặc lún xuống, được duy trì, chất rắn không chảy và có thể bật trở lại hình dạng ban đầu.
Chất lỏng, một dạng của chất lưu, sở hữu các phẩm chất đáng chú ý này bởi sự thật rằng ‘các phân tử của chúng được bảo toàn trong một trật tự chỉ được áp đặt trong các đường kính phân tử rất nhỏ;’ trong khi đó ‘sự đa dạng về trạng thái được thể hiện nơi chất rắn là một kết quả trực tiếp của loại liên kết vốn giữ các nguyên tử của chất rắn lại với nhau và của cấu trúc các nguyên tử được sắp xếp.’ ‘Liên kết,’ đến lượt nó, là một thuật ngữ biểu thị tính ổn định của chất rắn – sức đề kháng mà chúng tạo ra vốn ‘chống lại sự tách rời các nguyên tử.’
Quá nhiều đối với Bách khoa thư Britannica – đọc như thể một nỗ lực triển khai ‘tính chảy’ với vai trò ẩn dụ chủ đạo cho giai đoạn hiện tại của thời hiện đại.
Điều mà tất cả các đặc điểm này của chất lưu dẫn đến, nói theo ngôn ngữ đơn giản, đó là chất lỏng, không như chất rắn, không thể dễ dàng giữ được hình dạng. Chất lưu, nói cách khác, không ấn định không gian cũng như không ràng buộc thời gian. Trong khi chất rắn có chiều không gian rõ ràng nhưng vô hiệu hóa sự tác động, và bởi vậy làm giảm tầm quan trọng, của thời gian (rất hữu hiệu trong việc cản trở sự chảy của thời gian hoặc khiến nó trở nên lạc quẻ), chất lưu lại không giữ nguyên hình dạng trong thời gian dài và luôn luôn sẵn sàng (và ngả theo hướng) thay đổi hình dạng; và bởi vậy đối với chúng dòng chảy thời gian mới là đáng kể, còn nhiều hơn so với không gian mà chúng tình cờ chiếm chỗ: chúng lấp đầy không gian, xét cho cùng, ‘chỉ trong chốc lát.’ Theo một nghĩa nào đó, chất rắn hủy bỏ thời gian; đối với chất lỏng, ngược lại, thời gian mới là yếu tố quan trọng. Khi mô tả chất rắn, người ta có thể hoàn toàn phớt lờ thời gian; khi mô tả chất lưu, việc bỏ qua thời gian hẳn sẽ là một sai lầm nghiêm trọng. Những mô tả về chất lưu đều là các nhát chụp, và chúng cần có thời điểm ở cuối bức ảnh.
Chất lưu di chuyển dễ dàng. Chúng ‘chảy,’ ‘tràn,’ ‘cạn kiệt,’ ‘bắn tóe,’ ‘đổ vào,’ ‘rỉ,’ ‘ngập,’ ‘phun,’ ‘nhỏ giọt,’ ‘thấm,’ ‘rịn;’ không giống như chất rắn, chúng không dễ bị chặn lại – chúng trôi qua vài chướng ngại vật, hòa tan một vài chướng ngại khác và luồn qua hay thấm qua các chướng ngại khác nữa. Khi gặp phải chất rắn chúng thoát ra không hề hấn gì, trong khi chất rắn mà chúng gặp, giả như vẫn còn rắn, sẽ thay đổi – trở nên ẩm hoặc ướt đẫm. Tính linh động đặc biệt của chất lưu là điều gắn liền chúng với ý về ‘nhẹ’. Có những chất lỏng, nếu tính theo từng phân khối, còn nặng hơn so với nhiều chất rắn, nhưng chúng ta dẫu sao đi nữa vẫn có xu hướng thấy rằng chúng hết thảy đều nhẹ hơn, kém ‘nặng’ hơn mọi chất rắn. Chúng ta gắn ‘nhẹ’ hay ‘không trọng lượng’ vào tính lưu động và dễ thay đổi: bởi thực tế chúng ta biết rằng càng nhẹ hơn thì di chuyển càng dễ và nhanh hơn.
Đây là lý do để xem xét ‘chảy’ hay ‘lỏng’ như các ẩn dụ phù hợp khi chúng ta muốn nắm bắt bản chất của giai đoạn hiện tại, theo nhiều phương diện thì lạ thường, trong lịch sử của tính hiện đại.
Tôi hoàn toàn đồng ý rằng một đề xuất như thế có thể làm khựng lại bất kỳ ai am hiểu về ‘diễn ngôn hiện đại’ và quen thuộc với từ vựng thông thường được sử dụng để tường thuật lịch sử hiện đại. Chẳng phải hiện đại đã là một quá trình ‘hóa lỏng’ ngay từ khởi đầu sao? Chẳng phải ‘làm tan chảy chất rắn’ là trò tiêu khiển chính và thành tựu quan trọng nhất của nó từ trước đến nay sao? Nói cách khác, chẳng phải hiện đại đã ‘chảy’ từ khởi đầu của nó sao?
Các phản đối này và các lý lẽ tương tự hoàn toàn thích đáng, và sẽ càng đúng hơn một khi chúng ta nhớ lại rằng cụm từ nổi tiếng ‘làm tan chảy chất rắn,’ khi được được đúc ra bởi các tác giả của Tuyên ngôn Cộng sản cách đây một thế kỷ rưỡi, ám chỉ cách đối xử mà tinh thần hiện đại đầy tin tưởng và hồ hởi dành cho xã hội mà nó thấy quá trì trệ so với gu của nó và quá cứng nhắc để thay đổi và khuôn vào các tham vọng của nó – bởi vì nó đã bị đóng băng theo các cách thức quen thuộc của nó. Nếu ‘tinh thần’ ‘hiện đại’, thì nó quả thực hiện đại ở chỗ quyết tâm rằng thực tại phải được giải phóng khỏi ‘bàn tay chết’ của lịch sử của chính nó – và điều này chỉ có thể được thực hiện bằng cách làm tan chảy chất rắn (tức là, theo định nghĩa, phân rã bất cứ thứ gì dai dẳng vượt thời gian và không quan tâm đến sự trôi qua hay trơ ra trước dòng chảy của nó). Ý định ấy đến lượt nó đòi phải ‘coi thường cái thiêng’: chối bỏ và lật nhào quá khứ, và trước hết là ‘truyền thống’ – tức là, cặn và bã của quá khứ trong hiện tại; bởi vậy nó kêu gọi đập tan lớp áo giáp bảo vệ được tạo ra bởi niềm tin và lòng trung thành vốn cho phép chất rắn cưỡng lại sự ‘hóa lỏng.’
Dẫu vậy, chúng ta hãy nhớ rằng tất tật những điều này được thực hiện không phải để loại bỏ ngay toàn bộ chất rắn và giải phóng thế giới mới khỏi chúng mãi mãi, mà là để dọn đường cho các chất rắn mới đã được cải tiến; để thay thế bộ các chất rắn kém cỏi và đầy khiếm khuyết được thừa hưởng bằng bộ chất rắn khác, đã được cải thiện rất nhiều và còn hoàn hảo hơn, và vì lý do đó mà không còn có thể thay đổi được nữa. Khi đọc Ancien Régime của de Tocqueville, người ta có thể tự hỏi thêm rằng đến mức nào ‘các chất rắn tìm thấy’ bị căm ghét, lên án và đánh dấu riêng để hóa lỏng bởi lý do rằng chúng đã gỉ sét, giòn tan, bung ra ở các mấu nối và hoàn toàn không đáng tin. Thời hiện đại thấy rằng các chất rắn tiền hiện đại đã ở vào giai đoạn phân hủy khá nghiêm trọng; và một trọng những động cơ mạnh nhất nằm phía sau nỗi thôi thúc phải nấu chảy chúng là mong muốn khám phá hay phát minh chất rắn – để thế chỗ – có độ rắn lâu dài, một độ rắn mà người ta có thể tin tưởng và dựa vào và như vậy sẽ khiến thế giới trở nên có thể dự đoán được và bởi vậy có thể quản lý.
Những chất rắn đầu tiên bị nấu chảy và những cái thiêng đầu tiên bị xúc phạm là lòng trung thành truyền thống, những quyền lợi và nghĩa vụ theo phong tục đã trói buộc chân tay, cản trở bước đi và kìm hãm việc làm táo bạo. Để đặt ra cách nghiêm túc các nhiệm vụ của việc xây dựng một trật tự mới (thực sự rắn!), nhất thiết phải loại bỏ gánh nặng mà trật tự cũ đã đè nặng lên những người xây dựng. ‘Làm tan chảy chất rắn’ trước hết có nghĩa là loại bỏ những nghĩa vụ ‘không thích hợp’ cản lối việc tính toán các kết quả; như Max Weber đã đặt ra, giải phóng những công cuộc hệ trọng khỏi xiềng xích các bổn phận gia đình và những mối ràng buộc dày đặc của nghĩa vụ đạo đức; hay, như Thomas Carlyle hẳn đã nói, chỉ chừa lại ‘mối liên hệ tiền bạc’ của rất nhiều những sự ràng buộc vốn đặt nền tảng cho sự phụ thuộc lẫn nhau và những trách nhiệm chung của con người. Tương tự như vậy, lối ‘làm tan chảy chất rắn’ ấy đã khiến toàn bộ mạng lưới phức tạp các mối quan hệ xã hội bị lột-trần, không được bảo vệ, bị tước khí giới và phơi ra, bất lực chẳng thể kháng cự trước các quy tắc hành động lấy cảm hứng bởi kinh doanh và trước tiêu chuẩn lẽ phải được định hình bởi kinh doanh, chứ đừng nói đến việc cạnh tranh được với chúng.
Sự khởi đầu tai họa ấy khiến trận địa mở toang cho sự xâm lược và thống trị của (như Weber nói) thứ lẽ phải được dùng làm công cụ, hay là (như Karl Marx đã diễn đạt) vai trò quyết định của nền kinh tế: giờ đây ‘nền’ của cuộc sống xã hội trao cho tất cả mọi lĩnh vực khác của cuộc sống địa vị của ‘thượng tầng kiến trúc’ – tức là, một thứ tạo tác dựa trên cái ‘nền’ vốn có chức năng duy nhất là phục vụ cho sự vận hành trơn tru và liên tục của nó. Sự tan chảy của các chất rắn dẫn đến việc nền kinh tế dần dần tách khỏi những ràng buộc thuộc về truyền thống của chính trị, đạo đức và văn hóa đối với nó. Nó lắng cặn một thứ trật tự mới, được định nghĩa chủ yếu theo các thuật ngữ kinh tế. Trật tự mới ấy sẽ ‘chắc chắn’ hơn so với trật tự mà nó thay thế, bởi vì – không giống như chúng – nó miễn nhiễm với những trở ngại xuất phát từ các hành động phi kinh tế. Hầu hết các đòn bảy có tính chính trị hay đạo đức có khả năng chuyển dịch hoặc sửa đổi trật tự mới ấy đều đã bị phá vỡ hoặc trở nên quá ngắn, quá yếu hoặc không tương xứng với nhiệm vụ. Không phải là trật tự kinh tế, một khi đã được củng cố, sẽ xâm chiếm, giáo dục lại và chuyển dịch phần còn lại của cuộc sống xã hội sang hướng đi của nó; trật tự ấy đã thống trị toàn bộ cuộc sống con người bởi vì bất kể điều gì khác có thể xảy ra trong cuộc sống ấy đều mang vẻ không thích đáng và không thể tác động lên sự nảy nở liên tục chẳng bao giờ nao núng của trật tự kia.
Giai đoạn ấy trong sự phát triển của tính hiện đại đã được Claus Offe miêu tả rất rõ (trong cuốn ‘The Utopia of the Zero Option,’ xuất bản lần đầu năm 1987 ở Praxic International): các xã hội ‘phức tạp’ đã ‘trở nên cứng nhắc đến nỗi ngay cả một nỗ lực phản ánh theo cách có quy tắc hoặc đổi mới về “trật tự” của chúng, tức là về bản chất của sự phối hợp các quá trình vốn diễn ra bên trong chúng, hầu như đều bị ngăn cản bởi sự vô ích trong thực tiễn và do đó là sự không đầy đủ về bản chất của chúng.’ Dẫu các ‘hệ thống phụ’ của trật tự ấy có tự do và dễ biến động đến đâu, cách chúng quấn chặt lấy nhau vẫn ‘cứng nhắc, chết người và bị phong tỏa khỏi mọi tự do để lựa chọn.’ Trật tự tổng thể của mọi vật không mở ra cho cho các lựa chọn; khó mà biết được những lựa chọn ấy có thể là gì, và càng khó hơn để biết được làm thế nào mà một lựa chọn dường khả thi có thể trở thành hiện thực trong trường hợp hiếm hoi mà đời sống xã hội có thể hình dung và thai nghén nó. Giữa trật tự tổng thể và mỗi đơn vị của các cơ quan đại diện, các phương tiện và các mưu đồ hành động có mục đích luôn có một sự chia rẽ – một khoảng cách ngày càng rộng mà không có cầu nối nào hiện hữu.
Trái ngược với hầu hết các kịch bản dystopia, hiệu ứng này không đạt được thông qua chế độ độc tài, sự lệ thuộc, áp bức hay nô dịch; cũng không thông qua việc ‘thực dân hóa’ của tầng cầu riêng biệt tạo ra bởi ‘hệ thống’. Hoàn toàn ngược lại: tình thế của thời hiện tại trồi lên bởi sự tan rã từ trong gốc của cùm và gông dẫu bị ngờ đúng hay sai là đã hạn chế quyền tự do lựa chọn và hành động. Sự cứng nhắc của trật tự là tạo tác và cặn lắng của sự tự do bởi tác nhân con người. Sự cứng nhắc ấy nhìn chung là sản phẩm của sự ‘thả phanh’: bãi bỏ quy định, tự do hóa, ‘trở nên linh hoạt’, tăng tính lưu động, nới lỏng quản lý tài chính, bất động sản và thị trường lao động, giảm bớt gánh nặng thuế, vv… (như Offe đã chỉ ra trong ‘Binding, Shackles, Brakes’, xuất bản lần đầu năm 1987); hay là (trích từ Flesh and Stone của Richard Sennett) các kỹ thuật của ‘mau chóng, trốn thoát, thụ động’ – nói cách khác, các kỹ thuật vốn cho phép hệ thống và các tác nhân tự do tách biệt hoàn toàn, bước qua nhau thay vì gặp nhau. Nếu thời đại của các cuộc cách mạng hệ thống đã qua, thì đó là bởi không còn tòa nhà nào có bàn điều khiển hệ thống để các nhà cách mạng có thể đột kích và chiếm giữ; cũng bởi vì thật khó khăn, thậm chí bất khả thi, để tưởng tượng được rằng những người chiến thắng, một khi đã vào bên trong các tòa nhà (nếu họ tìm thấy chúng trước), có thể làm gì để lật ngược bản cờ và chấm dứt nỗi thống khổ vốn đã khiến họ nổi dậy. Người ta khó có thể ngạc nhiên hay bị bối rối trước sự thiếu hụt rõ ràng những người có tiềm năng làm cách mạng: những người thể hiện mong muốn thay đổi hoàn cảnh cá nhân của họ như một dự án thay đổi trật tự xã hội.
Nhiệm vụ xây dựng một trật tự mới và tốt đẹp hơn để thay thế trật tự đã cũ đầy khiếm khuyết hiện nay không nằm trong chương trình nghị sự – ít nhất là không nằm trong chương trình nghị sự của địa hạt mà hành động chính trị được cho là trú ngụ ở đó. ‘Sự tan chảy của các chất rắn,’ điểm đặc trưng vĩnh cửu của tính hiện đại, bởi vậy mà có một nghĩa mới, và trên hết là bị chuyển hướng sang một mục tiêu mới – một trong những hệ quả quan trọng nhất của sự chuyển hướng đó là làm tan rã các lực có thể duy trì sự xem xét về trật tự và hệ thống trong chương trình nghị sự chính trị. Các chất rắn vốn đã bị quẳng vào nồi nung chảy và đang trong quá trình tan chảy vào thời hiện tại, thời của tính hiện đại lỏng, chính là những mối ràng buộc vốn cài vào với nhau những lựa chọn cá nhân trong các dự án và hành động tập thể – các mô hình giao tiếp và phối hợp giữa những chính sách sắp đặt cuộc sống cá nhân về mặt này và mặt khác là hành động chính trị của các tập thể nhân loại.
Trong một cuộc phỏng vấn với Jonathan Rutherford vào ngày 3 tháng Hai năm 1999, Ulrich Beck (người vài năm trước đó đã đúc ra thuật ngữ ‘hiện đại thứ hai’ để ám chỉ giai đoạn được đánh dấu bởi hiện đại của ‘tự quay về với bản thân’, kỷ nguyên của cái gọi là ‘sự hiện đại hóa của tính hiện đại’) đã nói về ‘các phạm trù thây ma’ và ‘các thể chế thây ma’ vốn luôn ‘đã chết nhưng vẫn sống’. Ông nêu tên gia đình, tầng lớp và hàng xóm như các ví dụ điển hình nhất cho hiện tượng mới này. Gia đình, chẳng hạn:
Hãy tự hỏi bản thân xem một gia đình ngày nay thực sự là gì? Nó có nghĩa gì? Đương nhiên đó là con cái, con tôi, con cái chúng ta. Nhưng ngay cả vai trò làm cha mẹ, cốt lõi của đời sống gia đình, cũng đang bắt đầu tan rã bởi ly hôn. Ông và bà vừa được bao gồm vừa bị loại trừ khỏi mọi phương tiện nào để tham gia vào các quyết định của con cháu. Từ góc nhìn đám cháu của họ ý nghĩa của ông bà phải được xác định bởi các quyết định và lựa chọn cá nhân.
Điều đang xảy ra ở hiện tại, có thể nói, là một sự tái phân bổ và tái định vị ‘sức mạnh làm tan chảy’ của tính hiện đại. Chúng tác động trước tiên đến các thể chế còn sót lại, các bộ khung vốn giới hạn lãnh thổ của lựa chọn hành động khả dĩ, giống như các di sản truyền thừa cùng với việc chấp nhận-bất kháng nghị của nó sự phân phát theo lối quy kết. Các hình thể, chòm sao, các kiểu mẫu phụ thuộc và tác động qua lại đều bị quẳng vào nồi nấu chảy, để rồi sau đó được đúc và định hình lại; đây là giai đoạn ‘phá khuôn’ trong lịch sử của tính hiện đại vốn dĩ có xu hướng vi phạm, phá ranh giới, xói mòn tất cả. Tuy nhiên, đối với các cá nhân – họ có thể được tha thứ vì đã không nhận ra; họ phải đối mặt với các mẫu và các hình tượng, dẫu ‘mới và đã cải thiện,’ vốn luôn cứng đờ và không thể khuất phục từ trước đến giờ.
Quả thật chẳng có cái khuôn nào bị phá vỡ mà không được thay thế bởi một cái khác; con người được thả ra khỏi cái lồng cũ chỉ để bị khiển trách và chỉ trích nếu họ không tự cố định lại, thông qua những nỗ lực tận tụy, liên tục và suốt đời của chính bản thân mình, trong các hốc tường của trật tự mới: trong mọi tầng lớp, những cái khuôn (cũng không khoan nhượng hệt như các di sản đã bị giải thể) gói gọn toàn bộ điều kiện cũng như triển vọng sống và xác định phạm vi của các dự đồ sống và chiến lược sống thực tế. Nhiệm vụ mà các cá nhân tự do phải đối mặt là sử dụng tự do mới của mình để tìm ra cái hốc tường phù hợp và ổn định ở đó thông qua sự tự điều chỉnh: bằng cách tuân thủ trung thành các luật và cách thức ứng xử đã được xác định là đúng và phù hợp với vị trí.
Các mẫu, mã và luật ấy, mà con người có thể tuân theo, có thể chọn làm các mốc vững chắc để định hướng và sau đó để cho bản thân được dẫn dắt, ngày nay càng lúc càng trở nên khan hiếm. Như thế không có nghĩa là những người đương thời của chúng ta chỉ được dẫn dắt bởi trí tưởng tượng và quyết tâm riêng và được tự do xây dựng cách thức cuộc sống của mình từ điểm xuất phát và theo ý muốn, và cũng không có nghĩa là họ không còn phụ thuộc vào xã hội về mặt vật liệu xây dựng và bản thiết kế. Nhưng nó có nghĩa là chúng ta hiện đang chuyển từ thời đại của ‘các nhóm tham chiếu’ được chỉ định trước sang khởi đầu kỷ nguyên của ‘so sánh phổ quát,’ trong đó đích đến của các công việc tự xây dựng cá nhân trở nên bất xác quyết cách dai dẳng và cố hữu, không được đặt ra từ trước, và có xu hướng phải trải qua nhiều thay đổi sâu sắc trước khi các công việc đó đạt đến mục đích thực sự duy nhất của chúng: đó là, sự kết thúc của cuộc sống cá nhân.
Ngày nay các mẫu và các hình tượng cũng chẳng còn được ‘cho trước’ nữa, chứ đừng nói là ‘hiển nhiên’; chúng có quá nhiều, xung đột lẫn nhau và mâu thuẫn với các mệnh lệnh của nhau, thành thử mỗi cái trong số chúng đều bị tước bỏ phần lớn sức mạnh của sự hấp dẫn, sự chế ngự lối cưỡng bức. Chúng đã thay đổi bản chất và bởi vậy bị tái phân loại: trở thành các mục trong bảng kê nhiệm vụ cá nhân. Thay vì đi trước chính trị-đời sống và định khuôn cho đường lối tương lai, chúng phải đi theo nó (theo sau), để được định hình và tái định hình bởi các cú xoắn và khúc ngoặt của nó. Các thế lực bị hóa lỏng đã trượt từ ‘hệ thống’ sang ‘xã hội,’ từ ‘chính trị’ sang ‘cách ứng xử-cuộc sống’ – hoặc đã đi từ cấp ‘vĩ mô’ xuống cấp ‘vi mô’ của sự chung sống cộng đồng.
Cuộc sống của chúng ta, như một kết quả, là một phiên bản đã được cá nhân hóa, tư nhân hóa của tính hiện đại, với gánh nặng của việc dệt ra các hình mẫu và trách nhiệm của sự thất bại chủ yếu đổ lên vai của các cá nhân. Chính những kiểu mẫu của sự phụ thuộc và sự tác động lẫn nhau này đến lượt chúng giờ đây bị hóa lỏng. Giờ đây chúng dễ dát mỏng đến một mức chưa từng được kinh nghiệm, và cũng không thể được tưởng tượng ra, bởi các thế hệ trước; nhưng giống như tất tật mọi chất lưu chúng không giữ hình dạng của mình quá lâu. Việc định hình chúng dễ hơn là giữ im chúng trong một hình dạng. Chất rắn được đúc một lần và xong luôn. Giữ im chất lưu trong hình dạng đòi hỏi rất nhiều sự chú tâm, cảnh giác liên tục và nỗ lực không ngừng nghỉ – và ngay cả khi thành công nỗ lực ấy cũng chẳng là gì ngoài một kết luận đã tuột đi.
Hẳn sẽ là thiếu thận trọng nếu phủ nhận, hay kể cả hạ thấp, sự thay đổi sâu sắc mà sự ra đời của ‘tính hiện đại lỏng’ đem lại cho hoàn cảnh con người. Sự xa xôi và không thể tiếp cận của cấu trúc hệ thống, cùng với trạng thái lỏng, phi cấu trúc của bối cảnh tức thời của chính trị-đời sống, đã thay đổi hoàn cảnh ấy từ gốc rễ và đòi hỏi sự xem xét lại các khái niệm cũ từng tạo khuôn cho các tường thuật của nó. Giống như các thây ma, những khái niệm như thế ngày nay đồng thời sống và chết. Câu hỏi thực tiễn là liệu sự hồi sinh của chúng, dẫu là dưới một hình dạng hay hiện thân mới, có khả thi không; hoặc – nếu không khả thi – làm thế nào để sắp xếp để chúng được chôn cất tử tế và hiệu quả.
Quyển sách này là để dành riêng cho câu hỏi ấy. năm trong số những khái niệm cơ bản mà xung quanh chúng các tường thuật chính thống về hoàn cảnh con người có xu hướng bị gói gọn đã được chọn để xem xét kỹ lưỡng: sự giải phóng, cá nhân tính, thời gian/không gian, lao động, và cộng đồng. Các hiện thân liên tiếp cho ý nghĩa và ứng dụng thực tiễn của chúng đã được khám phá (dù theo cách thức rời rạc và sơ bộ), với hy vọng cứu trẻ em khỏi dòng tuôn chảy thứ nước tắm nhiễm bẩn.
Tính hiện đại hiện diện trong rất nhiều thứ, và sự xuất hiện cũng như tiến trình của nó có thể được lần theo bởi rất nhiều các dấu hiệu khác nhau. Tuy nhiên một đặc điểm của cuộc sống hiện đại và bối cảnh hiện đại của nó trội hơn hẳn, có lẽ chính là điểm ‘khác biệt tạo ra khác biệt’; như một thuộc tính cốt yếu mà bởi đó tất cả các đặc điểm khác tuân theo. Thuộc tính ấy chính là mối quan hệ thay đổi giữa không gian và thời gian.
Tính hiện đại bắt đầu khi không gian và thời gian tách biệt khỏi thực hành sống và tách khỏi nhau và bởi vậy trở nên sẵn sàng để được lý thuyết hóa thành các phạm trù riêng biệt và độc lập với nhau của chiến lược và hành động, khi chúng thôi là, như chúng từng trong các thế kỷ tiền hiện đại kéo dài, các khía cạnh đan xen và khó phân biệt rõ ràng của kinh nghiệm sống, bị khóa chặt trong một sự đối ứng một-một ổn định và dường không thể tách rời. Trong tính hiện đại, thời gian có lịch sử, nó có lịch sử nhờ bởi ‘sức chứa’ không ngừng mở rộng của thời gian – sự kéo dài thêm khoảng rộng của không gian mà các đơn vị của thời gian cho phép ‘đi qua,’ ‘vượt qua,’ ‘bao phủ’ – hay chinh phục. Thời gian có được lịch sử ngay khi tốc độ của chuyển động trong không gian (khác với một không gian đặc biệt cứng, vốn không thể kéo giãn và cũng không co lại) trở thành một vấn đề của sự khéo léo, trí tưởng tượng và tài xoay xở con người.
Ngay cái ý niệm về tốc độ (thậm chí còn dễ thấy hơn nữa, ý về gia tốc), khi đề cập đến mối quan hệ giữa không gian và thời gian, đã bao gồm tính hay thay đổi của nó, và nó hẳn khó mà có bất kỳ nghĩa gì nếu mối quan hệ ấy không thực sự dễ thay đổi, nếu nó là một thuộc tính của thực tại phi nhân loại và tiền nhân loại hơn là một vấn đề của óc sáng tạo và sự quyết tâm con người, và nếu nó không vượt xa phạm vi hẹp của các biến thể mà các công cụ di chuyển tự nhiên – chân người hay chân ngựa – đã sử dụng để giới hạn chuyển động của cơ thể tiền hiện đại. Một khi khoảng cách di chuyển trong một đơn vị thời gian phụ thuộc vào công nghệ, vào các phương tiện vận chuyển nhân tạo, thì mọi giới hạn hiện có, được thừa hưởng về tốc độ di chuyển về nguyên tắc đều có thể bị phá vỡ. Giờ đây chỉ có bầu trời (hoặc, như sau này được tiết lộ, tốc độ ánh sáng) là giới hạn, và tính hiện đại chính là một nỗ lực liên tục, không thể ngăn cản và tăng tốc nhanh chóng để chạm tới nó.
Nhờ tính linh hoạt và bành trướng mới đạt được ấy, thời gian hiện đại đã trở thành, trước hết, vũ khí chinh phục không gian. Trong cuộc đấu tranh hiện đại giữa thời gian và không gian, không gian là bên rắn, lãnh đạm, khó sử dụng và trơ ì chỉ có thể tiến hành loại chiến tranh chiến hào, phòng thủ – trở thành một trở ngại cho những bước tiến bền bỉ của thời gian. Thời gian là bên chủ động và năng nổ trong cuộc chiến, bên luôn luôn ở thế công: phe xâm lược, chinh phục và chiếm thuộc địa. Tốc độ di chuyển và khả năng tiếp cận các phương tiện di chuyển nhanh hơn đã không ngừng tăng lên trong thời hiện đại để trở thành công cụ chính của quyền lực và sự thống trị.
Michel Foucault sử dụng thiết kế Panopticon [nhà tù quây tròn] của Jeremy Bentham làm ẩn dụ điển hình cho quyền lực hiện đại. Trong Panopticon, tù nhân bị trói chặt tại chỗ và cấm tiệt mọi dịch chuyển, bị giam trong các bức tường dày, đặc và bị canh gác nghiêm ngặt và phải dính vào cái giường, phòng giam hay bàn làm việc của họ. Họ không thể di chuyển vì họ bị giám sát; họ lúc nào cũng phải bám sát vị trí được chỉ định bởi họ không biết, và cũng chẳng có cách nào để biết được, ngay lúc ấy những người quan sát họ – được tự do di chuyển theo ý muốn – đang ở đâu. Sự thuận lợi và phương tiện để di chuyển của các giám sát viên là điều đảm bảo cho sự thống trị của họ; việc ‘cố định tại chỗ’ của tù nhân là điều chắc chắn nhất và khó bị phá vỡ hay nới lỏng nhất trong vô số các ràng buộc của sự phục tùng nơi họ. Làm chủ thời gian chính là bí quyết quyền lực của các nhà quản lý – việc trói buộc những kẻ bị lệ thuộc trong không gian bằng cách từ chối quyền di chuyển của chúng và việc thông qua sự thiết lập nhịp-thời gian ấy bắt chúng phải tuân theo là chiến lược chính trong sự thực thi quyền lực của họ. Kim tự tháp quyền lực được xây dựng dựa trên tốc độ, khả năng tiếp cận các phương tiện giao thông mà bởi vậy được tự do chuyển động.
Panopticon là một hình mẫu của sự ràng buộc và đối đầu lẫn nhau giữa hai bên trong mối quan hệ quyền lực. Chiến lược của các nhà quản lý nhằm canh giữ tính hay thay đổi của bản thân họ và thiết lập dòng chảy cho thời gian của đám tù binh đã hòa chung thành một. Nhưng có sức căng giữa hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ sau đặt ra các bó buộc cho nhiệm vụ trước – nó buộc chặt những người thiết lập thói quen vào một chỗ ở bên trong thứ mà ở đó các đối tượng của sự thiết lập thói quen ấy bị giam. Người thiết lập thói quen không thực sự và không hoàn toàn tự do di chuyển: phương án ‘chủ nhà vắng mặt’, trên thực tế, hầu như bất khả. Panopticon cũng phải chịu những điều bất lợi khác. Đây là một chiến lược tốn kém: việc chiếm không gian và kiểm soát nó, cũng như việc giữ cho cư dân của nó không ở trong khu vực bị giám sát đã tạo ra một loạt các nhiệm vụ hành chính tốn kém và rất phức tạp. Có những tòa nhà phải dựng lên và duy trì ổn định hình dáng của nó, phải thuê và trả lương cho các giám sát viên chuyên nghiệp, sự sinh tồn và khả năng lao động của người bị giam phải được chăm sóc và chuẩn bị đầy đủ. Cuối cùng, việc quản lý có nghĩa là, dù muốn hay không, chịu trách nhiệm về phúc lợi chung của nơi ấy, ngay cả khi chỉ nhân danh lợi ích cá nhân được hiểu rõ – và trách nhiệm một lần nữa lại có nghĩa là bị ràng buộc với nơi ấy. Nó đòi hỏi sự hiện diện, và tham gia, ít nhất dưới hình thức đối đầu và giằng co liên tục.
Điều thúc đẩy rất nhiều nhà bình luận nói về ‘kết thúc của lịch sử,’ về hậu hiện đại, ‘hiện đại thứ hai’ và ‘siêu hiện đại,’ hoặc nói cách khác là diễn đạt trực giác về một sự thay đổi tận gốc trong sự sắp xếp cuộc chung sống nhân loại và trong các điều kiện xã hội mà chính trị-đời sống ngày nay đang chỉ đạo, là thực tế rằng nỗ lực lâu dài nhằm đẩy nhanh tốc độ dịch chuyển hiện đã chạm đến ‘giới hạn tự nhiên’ của nó. Quyền lực có thể di chuyển với tốc độ của một tín hiệu điện – và bởi vậy thời gian cần thiết cho sự dịch chuyển các thành phần thiết yếu của nó đã được giảm xuống đến mức ngay lập tức. Đối với tất cả mọi mục đích thực tiễn, quyền lực đã thực sự vượt ra ngoài lãnh thổ, không còn bị buộc, thậm chí chẳng bị làm chậm lại, bởi sự kháng cự của không gian (sự ra đời của điện thoại di động có thể đóng vai trò là ‘đòn kết liễu’ có tính biểu tượng giáng xuống sự phụ thuộc vào không gian: ngay cả việc tiếp cận một buồng điện thoại cũng không còn cần thiết để mệnh lệnh được ban và nhìn thấu hiệu lực của nó. Chẳng còn quan trọng nữa việc người ra lệnh ở đâu – sự khác nhau giữa ‘gần’ và ‘xa’, cũng như vấn đề của nơi hoang vu và chốn văn minh, không gian có trật tự, đều đã bị xóa bỏ.) Việc này đem lại cho người nắm quyền một cơ hội thực sự chưa từng có: những khía cạnh khó xử và phiền phức của yêu cầu kỹ thuật phải nhìn thấy tất cả của quyền lực đã có thể loại bỏ được. Dẫu giai đoạn hiện tại trong lịch sử của tính hiện đại là gì đi nữa, nó cũng, có lẽ trên hết, mang tính hậu-Panopticon. Vấn đề lớn của Panopticon là những người nắm quyền luôn được mặc định phải ‘ở đó,’ ngay bên cạnh, trong tháp điều khiển. Vấn đề lớn trong các mối quan hệ quyền lực hậu-Panopticon là những người vận hành đòn bẩy quyền lực mà số phận các đối tác kém nhẹ dạ hơn trong mối quan hệ phụ thuộc vào đó có thể vào bất cứ lúc nào vuột khỏi tầm với – rơi vào sự bất khả tiếp cận.
Sự kết thúc của Panopticon báo hiệu hồi kết kỷ nguyên của sự ràng buộc lẫn nhau: giữa người giám sát và người bị giám sát, giữa tư bản và lao động, người chỉ huy và người tuân theo, các đội quân trong chiến tranh. Kỹ thuật chủ yếu của quyền lực giờ đây là trốn thoát, không giữ đúng mục tiêu, loại bỏ và tránh né, tức là bác bỏ hiệu lực của bất kỳ sự giới hạn lãnh thổ nào cùng với các hệ quả phức tạp của việc xây dựng trật tự, duy trì trật tự và trách nhiệm về tầm quan trọng của tất tật những điều ấy cũng như của sự cần thiết phải gánh chịu phí tổn.
Kỹ thuật mới của quyền lực này đã được minh họa sống động bởi các chiến lược được triển khai bởi những người tấn công trong chiến tranh Vùng Vịnh và Nam Tư. Sự miễn cưỡng trong việc triển khai lực lượng mặt đất trong quá trình tiến hành chiến tranh thật đáng kinh ngạc; bất kể những lời giải trình chính thức có ngụ ý gì, sự miễn cưỡng ấy không chỉ được thúc đẩy bởi hội chứng ‘túi đựng rác’ được công bố rộng rãi. Việc tham gia vào một cuộc chiến trên bộ bị phản đối không chỉ vì tác động tiêu cực có thể xảy ra đối với chính trị đối nội, mà còn (có lẽ đây là điều chủ yếu) vì sự vô dụng hoàn toàn và thậm chí phản tác dụng của nó đối với các mục tiêu của chiến tranh được tuyên bố. Sau rốt, việc chinh phục lãnh thổ với tất tật mọi hậu quả về mặt hành chính và quản lý không chỉ vắng mặt trong danh sách các mục tiêu của hành động chiến tranh, mà nó còn là một khả năng cần tránh bằng mọi giá, được nhìn với sự ghê tởm như một loại ‘thiệt hại đi kèm,’ lần này là do chính lực lượng tấn công gây ra.
Những đòn tấn công bằng máy bay tàng hình và tên lửa ‘thông minh’ tự dẫn đường và tìm mục tiêu – đột nhiên xuất hiện, trồi ra từ hư không và ngay lập tức biến mất khỏi tầm nhìn – đã thay thế các bước tiến trên lãnh thổ của bộ binh và nỗ lực chiếm lãnh thổ của kẻ thù – để kiểm soát vùng đất do kẻ thù sở hữu, quản lý và điều hành. Những kẻ tấn công chắc chắn chẳng còn muốn làm ‘kẻ cuối cùng trên chiến trường’ sau khi quân địch đã bỏ chạy hoặc bị đánh tan tác. Lực lượng quân sự và chiến lược ‘đánh rồi rút’ của nó đã hình dung từ trước, là hiện thân và báo trước cho những gì thực sự bị thực sự bị đe dọa trong loại chiến tranh mới trong kỷ nguyên của hiện đại lỏng: không phải là chinh phục một lãnh thổ mới, mà là phá vỡ những bức tường ngăn chặn dòng chảy của các thế lực toàn cầu mới, dễ thay đổi; đánh bật khỏi đầu kẻ thù mong muốn thiết lập luật của riêng mình, và bởi vậy mở toang vùng không gian cho đến giờ vẫn còn bị phong tỏa, lập rào chắn, không thể tiếp cận đối với sự hoạt động của các thế lực phi quân sự khác. Chiến tranh ngày nay, người ta có thể nói vậy (diễn giải lại công thức nổi tiếng của Clausewitz) dường càng lúc càng giống như một ‘sự thúc đẩy thương mại tự do toàn cầu bằng các phương tiện khác.’
Jim MacLaughlin gần đây đã nhắc nhở chúng ta (trong Xã hội học 1/99) rằng sự ra đời của thời hiện đại đồng nghĩa với, trong số nhiều thứ khác, cuộc tấn công nhất quán và có hệ thống của phe ‘định cư,’ chống lại các dân tộc du mục và lối sống du mục, hoàn toàn trái ngược với những bận tâm về lãnh thổ và biên giới của nhà nước hiện đại mới nổi. Ibn Khaldoun vào thế kỷ mười bốn có thể ca ngợi đời sống du mục, thứ đã đưa các dân tộc ‘đến gần cái tốt hơn so với các dân tộc định cư bởi họ thoát được mọi thói quen xấu vốn đã nhiễm độc trái tim những người định cư’ – nhưng việc xây dựng quốc gia và chính quyền quốc gia cách cuồng nhiệt vốn đã được khởi đầu đầy sốt sắng không lâu sau đó trên khắp châu Âu đưa ‘đất’ lên trên ‘máu’ khi đặt nền móng cho trật tự pháp luật mới và hệ thống hóa các quyền và nghĩa vụ công dân. Những người du mục, những kẻ coi nhẹ mối quan tâm về lãnh thổ của các nhà lập pháp và trắng trợn phớt lờ các nỗ lực nhiệt thành của họ trong việc vẽ ranh giới, đã bị quẳng vào đám những kẻ xấu chính trong cuộc thánh chiến được tiến hành nhân danh tiến bộ và văn minh. ‘Chính trị thời gian’ hiện đại [chronopolitics – nghiên cứu về cách thức quyền lực được thực thi và điều khiển thông qua việc cấu trúc, nhận thức và sử dụng thời gian] không chỉ xem họ là những sinh vật thấp kém và nguyên thủy, ‘kém phát triển’ và cần phải được cải tạo và khai sáng toàn diện, mà còn thụt lùi và ‘đi sau thời đại,’ chịu đựng sự ‘trễ văn hóa,’ nán lại ở những bậc thấp hơn của thang tiến hóa, và chậm chạp cách không thể dung thứ hoặc miễn cưỡng cách bệnh hoạn trong việc leo lên đó để tuân theo ‘mẫu phổ quát của sự phát triển.’
Trong suốt giai đoạn ổn định của thời hiện đại, thói quen sống du mục vẫn không được ưa chuộng. Quyền công dân đi chung với sự định cư, và việc không có ‘địa chỉ rõ ràng’ và ‘vô quốc tịch’ đồng nghĩa với việc bị loại khỏi cộng đồng tuân thủ pháp luật và được pháp luật bảo vệ và thường xuyên hơn nữa bị phân biệt đối xử về mặt pháp lý, nếu không phải là bị truy tố. Trong khi điều này vẫn áp dụng cho ‘tầng lớp dưới’ vô gia cư và gian giảo, vốn là đối tượng cho các kỹ thuật cũ của sự kiểm soát toàn diện (các kỹ thuật này hầu hết đã bị bỏ rơi với tư cách là phương tiện chính để đồng nhất và khép vào kỷ luật phần lớn dân số), thời đại của sự vượt trội vô điều kiện của lối sống hạn chế chuyển động so với lối sống du mục và sự thống trị của người định cư đối với người di cư đang dần đi đến hồi kết. Chúng ta đang chứng kiến sự trả thù của du cư lên nguyên tắc về lãnh thổ và định cư. Trong giai đoạn trôi tuột của tính hiện đại, phần lớn người định cư bị cai trị bởi giới tinh hoa du mục và ở ngoài lãnh thổ. Việc giữ đường sá thông thoáng cho giao thông du mục và loại bỏ dần các trạm kiểm soát còn sót lại giờ đây đã trở thành siêu-mục đích của chính trị, và của cả chiến tranh, mà như Clausewitz đã tuyên bố ngay từ đầu, chỉ là ‘sự mở rộng chính trị bằng các phương tiện khác.’
Giới tinh hoa toàn cầu đương thời được định khuôn theo mẫu ‘điền chủ vắng mặt’ kiểu cũ. Họ có thể cai trị mà không gánh vác công việc hành chính, quản lý, phúc lợi, hay nói đúng hơn là nhiệm vụ ‘khai sáng,’ ‘cái cách đường lối,’ nâng cao đạo đức, ‘khai hóa’ và các cuộc thập tự chinh văn hóa. Việc tham gia tích cực vào cuộc sống của lớp dân cư thấp thì không còn cần thiết nữa (ngược lại, bị né tránh cách chủ động bởi lãng phí không cần thiết và không hiệu quả) – và bởi vậy ‘lớn hơn’ thì không còn là ‘tốt hơn’ nữa, mà còn thiếu cảm giác về lý. Giờ đây cái gì càng nhỏ hơn, nhẹ hơn, dễ mang theo hơn càng biểu thị sự cải thiện và ‘tiến bộ.’ Việc du hành nhẹ nhàng, thay vì bám chặt vào những thứ được coi là hấp dẫn bởi độ đáng tin cậy và kiên cố của chúng – tức là, bởi trọng lượng nặng, sự chắn và sức kháng cự không thể lay chuyển của chúng – giờ đây chính là vốn sở hữu của quyền lực.
Việc bám chặt vào mặt đất không quan trọng đến thế nếu mặt đất có thể bị chiếm và bỏ mặc bất cứ lúc nào, trong một khoảng thời gian ngắn hay thậm chí là chẳng cần thời gian. Mặt khác, việc bám quá chặt, chất quá nặng lên một giao kèo với những cam kết ràng buộc lẫn nhau, có thể tỏ ra tai hại rõ rệt và những cơ hội mới sẽ xuất hiện ở nơi khác. Rockefeller hẳn đã muốn xây dựng cho mình các nhà máy và đường sắt, những giàn khoan dầu lớn kềnh càng và sở hữu chúng trong một thời gian dài, rất dài (vĩnh viễn, nếu ta đo thời gian bằng tuổi thọ con người hay đời sống gia đình). Bill Gates, tuy vậy, đã không hề tiếc khi phải từ biệt những tài sản khiến ông tự hào ngày hôm qua; chính tốc độ gây choáng của sự lưu thông, của tái chế, lão hóa, vứt bỏ và thay thế mới mang lại lợi nhuận ngày nay – chứ không phải độ bền và độ tin cậy lâu dài của sản phẩm. Trong một sự đảo ngược đáng kinh ngạc đối với truyền thống hàng thiên niên kỷ, chính những nhà quyền quý ngày nay là những người căm ghét và xa lánh những thứ lâu bền và ưa thích những thứ nhất thời, trong khi những kẻ ở dưới đáy xã hội – bất chấp mọi nghịch cảnh – lại vật lộn đến tuyệt vọng để giữ cho những tài sản mong manh, nhỏ bé, phù du của mình tồn tại được lâu hơn và sử dụng được thật lâu. Ngày nay hai nhóm này chủ yếu gặp nhau ở hai bên đối diện các quầy bán đồ cũ hoặc đấu giá xe cũ.
Sự tan rã của mạng lưới xã hội, sự giải thể của các tổ chức hành động tập thể hiệu quả được ghi nhận cùng nỗi lo âu lớn và bị than phiền như là ‘tác dụng phụ’ bất ngờ của sự nhẹ và lỏng đầy mới mẻ của thứ quyền lực đã trở nên ngày càng hay thay đổi, trơn tuột, gian xảo, hay lẩn tránh và thoái thác. Nhưng sự tan rã xã hội vừa là điều kiện cũng nhiều giống như là kết quả của một kỹ thuật mới của quyền lực, sử dụng sự tách rời và nghệ thuật lẩn tránh như những công cụ chính của nó. Để quyền lực được tự do chảy tràn, thế giới phải được giải phóng khỏi những hàng rào, thanh chắn, biên giới kiên cố và các trạm kiểm soát. Bất kỳ mạng lưới liên kết chặt và dày nào của các ràng buộc xã hội, và đặc biệt là mạng lưới bám rễ chặt vào lãnh thổ, đều là một chướng ngại cần phải bị loại bỏ. Các cường quốc trên toàn cầu đang quyết tâm phá bỏ những mạng lưới như thế vì tính dễ thay đổi ngày càng tăng và không bao giờ ngừng của họ, vốn là nguồn sức mạnh chủ yếu của họ và sự đảm bảo cho tính bất khả chiến bại của họ. Và chính sự tan rã, sự mong manh, dễ vỡ, tạm thời, sự chờ-đến-thông-báo-kế-tiếp của các liên kết và mạng lưới con người đã cho phép các thế lực này thực hiện công việc của họ ngay từ đầu.
Nếu các xu hướng đan xen này tiếp tục phát triển không ngừng, đàn ông và phụ nữ sẽ được đình hình lại theo mẫu của nốt ruồi điện tử, phát minh đáng tự hào vào những năm tiên phong trong ngành điều khiển học đã ngay lập tức được ca ngợi là điều báo trước tương lai: một cái phích cắm trên bánh xe, loay hoay tuyệt vọng tìm kiếm ổ cắm điện để cắm vào. Nhưng trong thời đại đến sau đó đã được báo hiệu bởi điện thoại di động, ổ cắm lại bị coi là lỗi thời và kém thẩm mỹ cũng như được cung cấp với số lượng ngày càng ít đi và chất lượng ngày càng kém. Lúc bấy giờ, nhiều hãng cung cấp điện đã ca ngợi những lợi thế của việc cắm vào mạng lưới của họ và giành giật sự ưu ái của những người tìm ổ cắm. Nhưng về lâu dài (bất kể ‘lâu dài’ có nghĩa là gì trong thời đại của sự tức thời) các ổ cắm có thể bị vứt bỏ và thay thế bởi pin dùng một lần, bán lẻ tại các cửa hàng hay tại mọi ki-ốt sân bay và mọi trạm dịch vụ dọc đường cao tốc hay đường nông thôn.
Đây dường như là một dystopia được tạo ra theo chuẩn mực của tính hiện đại lỏng – một thế giới phù hợp để thế chỗ cho những nỗi sợ được ghi lại trong các cơn ác mộng của Orwell và Huxley.
thời chúng ta
Báo chí, sự ngu xuẩn và chính trị
Thời chúng ta trong toàn thể thì đúng là không cách nào chịu thấu.
