favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2025
Next

Simon Leys: Joseph Conrad và Tay điệp viên

02/12/2025 21:25

Trở lại với Simon Leys, một người Bỉ bỏ đi (giống Henri Michaux) khỏi đất nước mình, sang châu Á rồi Úc, nhân vật có ba niềm say mê lớn: Biển, Trung Quốc và Văn chương.

 

Joseph Conrad và Tay điệp viên

"Tôi không thuộc về đây"

 

Để trả lời cho câu hỏi của Antoine Gallimard và Jean Rouaud ("tiểu thuyết của thế kỷ 20") [nhân dịp tròn một trăm năm, nhà xuất bản Gallimard đã đặt câu hỏi về chủ đề này cho nhiều nhà văn], không phải chỉ một cuốn tiểu thyết đã ngay lập tức nảy ra trong tâm trí tôi, mà hai: Tay điệp viên của Joseph Conrad (1907) và Một người tên là Thứ Năm của G. K. Chesterton (1908). Dưới ảnh hưởng hiển nhiên của các cuộc tấn công vô chính phủ [vô trị] gây choáng váng cho toàn châu Âu khoảng chục năm trước đó, cốt truyện của cả hai tiểu thuyết đều xử lý những kẻ khủng bố chuyên âm mưu, các nhân vật chống khủng bố luồn lách vào các âm mưu, và những viên cảnh sát cùng chính trị gia tìm cách (hoặc vờ là thế) bảo vệ trật tự. Mặc cho sự giống ở vẻ bề ngoài của chủ đề và việc chúng được xuất bản gần như đồng thời, hai cuốn sách khác nhau đến mức triệt để, và hai tác giả, dẫu đều tích cực vào gần như cùng giai đoạn trên sân khấu văn chương Anh, đã hoàn toàn lờ tịt nhau đi: theo hiểu biết của tôi, Chesterton chưa từng bao giờ nói lời nào về Conrad, và Conrad, trong rất nhiều thư từ của mình, chỉ đúng một lần nhắc đến tên Chesterton - thoáng qua, và chẳng hề với chút thiện cảm dù nhỏ tới đâu. Họ là hai nhà văn mà mọi điều đều phân tách ở khởi đầu và rốt cuộc chỉ được hội tụ trong điện thờ riêng của các độc giả nồng nhiệt hơn cả của họ. Chesterton là nhà thơ của ánh sáng ban ngày một cách hoàn hảo ("Nếu chỉ ánh sáng ban ngày thôi mà còn không thi vị, thì có gì thi vị đâu") và Một người tên là Thứ Năm tỏa rạng một niềm vui thuộc mặt trời to lớn. Về phần Conrad, ngay khi rời xa khỏi biển, ông liền chìm vào một nỗi hoảng sợ đen tối (chẳng phải chính ông đã nêu nhận xét rằng sự bình yên của Chúa - Chúa mà vả lại ông không tin - chỉ bắt đầu ngoài khơi xa, cách mọi thứ đất một nghìn dặm?): Tay điệp viên diễn ra toàn bộ tại London, thành phố khổng lồ gớm ghiếc, đầy sức áp bức và nhiều tính cách hoàng hôn. Tại đó biển vô hình và, vào thời đó, các độc giả của ông đã không tha thứ cho ông điều này.

Vì không có đủ chỗ để nói ở đây về hai cuốn tiểu thuyết và không biết phải làm sao để phân chia hai cuốn sách vô song theo đúng nghĩa đen đó, tôi sẽ chỉ bám chặt vào tác phẩm của người nhiều tuổi hơn, Conrad. Nhưng trước khi rời khỏi Chesterton, tôi những muốn lấy ra từ Một người tên là Thứ Năm miêu tả của ông về nhân vật chính của mình: một nhà thơ đã trở thành nhân viên cảnh sát chống khủng bố, bị thúc đẩy bởi một tình yêu lớn lao dành cho trật tự - để phản ứng lại sự kỳ quái cực điểm của bố mẹ anh ta, bởi khi một đứa con trai của những người cách mạng nổi loạn, thì hắn nổi loạn chống lại sự nổi loạn.

Quan sát này hẳn sẽ có thể cung cấp cho chúng ta một chìa khóa cốt yếu để tìm cách gỡ rối tâm lý bị hành hạ của người tạo ra Tay điệp viên - không phải vì bố mẹ của Conrad từng là những người kỳ quái; họ còn tệ hơn thế: những anh hùng lãng mạn đã, trong cuộc truy đuổi một lý tưởng bất khả, lao vào thảm họa - và chính do vậy, biến tuổi thơ của đứa con trai độc nhất thành một ác mộng không bút nào tả xiết.

Conrad đã có một tồn tại long tróc - bị đập nát thành nhiều mẩu thiếu liên tục một cách tàn bạo. Phần lớn các tiểu sử gia của ông nói đến "ba cuộc đời" của ông: tuổi thơ Ba Lan, cuộc lang thang của thủy thủ không quê ương, sự định cư ở nông thôn của tiểu thuyết gia Anh. Một trong số họ (một nhà tâm phân học rất tinh tế [Bernard C. Meyer: Joseph Conrad, a Psychoanalytic Biography, Princeton University Press, 1970]) thì tính là năm - thêm vào cuộc đi hoang hồi trẻ tới Pháp cùng chuyến phiêu lưu tồi tệ bên Congo ở tuổi trưởng thành. Về phần mình, tôi thấy bị cám dỗ xác định cuộc đời thứ sáu, đoạn nhiều trauma hơn cả, nằm ngay sau tuổi thơ được bảo vệ và chiều chuộng: tuổi thơ bị sát hại - thằng bé sáu tuổi bị trục xuất cùng bố mẹ nó, những người yêu nước nổi loạn, đến một tỉnh của Nga, xa xôi, dễ mắc bệnh và mọi rợ; tại đó, cậu bé trở thành chứng nhân cho căn bệnh dài và cuộc hấp hối chậm chạp của bà mẹ, không hề được chăm sóc về y tế; ở tuổi lên 9, không hề có bạn đồng trang lứa, cậu trở thành chỗ dựa tinh thần cho ông bố, người đàn ông góa vợ không thể nguôi ngoai đắm sâu vào tuyệt vọng rồi ba năm sau đó để cậu lại làm đứa trẻ mồ côi... Suốt cuộc đời mình, Conrad sẽ thành kính lưu giữ - và rất kiêu hãnh - ký ức về bố mẹ ông, những người anh hùng và những người tuẫn đạo. Nhưng sự thờ phụng được chăm bón với đầy ý thức ấy dường đi kèm với một mối oán giận cay đắng bị đè nén đi một cách mù mờ; ông bác đồng thời là người giám hộ của Conrad, trở thành người dẫn lối khôn ngoan và đầy trìu mến cho tuổi niên thiếu và tuổi trẻ của nhà văn, đã không bao giờ che giấu sự không tán thành với đó ông nhìn nhận những kẻ ngáo ngơ kia, những người, nhân danh tổ quốc Ba Lan thánh thiêng, không do dự đẩy các cuộc đời trong trắng đến bất hạnh.

Ngay trước khi cho in Tay điệp viên, Conrad còn nhắc nhở cố vấn văn chương trung thành của mình: "Tôi không muốn người ta hiểu nhầm về câu chuyện này và đọc thấy ở đó những ý đồ dẫu nhỏ tới đâu nào thuộc về xã hội và sự tranh cãi." Nhưng điều hiển nhiên, ấy là tác giả sở hữu một sự thân thuộc gây rối trí với chủ đề của ông. Cuốn tiểu thuyết này, không có hero đúng nghĩa, bày ra khoảng một chục nhân vật chính, những người vô chính phủ cùng cảnh sát, tất tật đều quẹt vào một sự thật tàn nhẫn; sự độc đáo chính yếu của nó nằm ở chỗ nó được viết từ đầu đến cuối trên thức mỉa mai - ví dụ duy nhất cho một tiểu thuyết thực tại luận. Conrad đã hết sức có ý thức về việc ở đây mình phát triển một thủ pháp mới; mục đích của ông - như ông giải thích trong thư từ - là trả công bằng cho hai tình cảm mâu thuẫn và bổ sung cho nhau vốn nằm ở ông về vấn đề khủng bố đó: niềm khinh bỉ và lòng xót thương. Đối với Conrad sự mỉa mai lúc nào cũng trình hiện cách thức duy nhất để dựng đê ngăn các cảm xúc bằng không hẳn sẽ đe dọa nhấn chìm ông. Chỉ sự mỉa mai mới đảm bảo được khoảng cách - cái khoảng cách cho phép ông sống sót và luôn luôn vẫn cứ là sự truy lùng đầy ám ảnh của ông: khi ông bắt đầu đi biển ở tuổi 17, tại Pháp, thì đấy là nhằm đoạn tuyệt thật triệt để với quá khứ của ông, với tuổi thơ của ông, với cơn ác mộng Nga.

Lúc viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên, ông đã chọn viết nó bằng tiếng Anh - trong tất tật các ngôn ngữ mà ông biết, đó vẫn là thứ tiếng xa lạ hơn cả: nó cho phép ông lưu giữ một khoảng cách với những gì ông viết, điều hẳn sẽ không thể hình dung được trong một ngôn ngữ thiết thân như tiếng Ba Lan hay tiếng Pháp. Và giờ đây, lúc việc dùng tiếng Anh đối với ông đã trở nên tự nhiên hơn, chính cái thức mỉa mai kia là thứ sẽ cho phép ông tái thiết lập khoảng cách không thể thiếu đã nói. Nhưng ông duy trì những tương quan mù mờ một cách sâu sắc với các nhân vật của mình; như ông tâm sự trong một bức thư gửi người bạn trung thành nhất và cũng thân nhất (Cunninghame Graham): "Tôi rất sung sướng vì anh thích Tay điệp viên. Anh hiểu là câu chuyện đã được viết hoàn toàn không có chút ma mãnh nào. Đối với tôi điều này khá quan trọng, ở tư cách thử nghiệm trong một thể loại mới: vấn đề nằm ở chỗ giữ thức mỉa mai khi xử lý một chủ đề mê lô - đấy là chủ ý về kỹ thuật của tôi [...]. Nhưng tôi không nghĩ mình đã chế báng vũ trụ cách mạng. Các nhân vật của tôi không phải là những nhà cách mạng, đấy là đám rác rưởi. Và về những gì liên quan tới "Giáo sư" [nhân vật đáng gờm nhất và trí tuệ nhất của nhóm] ý đồ của tôi không phải là biến đó thành một nhân vật đáng khinh bỉ. Dẫu thế nào thì hắn cũng là người bất khả lũng đoạn [...]. Tệ nhất thì đấy cũng chỉ là một kẻ thích huếnh thuộc một típ cực điểm mà thôi. Thế nhưng mọi kẻ cực đoan đều đáng kính trọng."

Trong thời kỳ thai nghén, Tay điệp viên thoạt đầu mang nhan đề Verloc. Verloc là tên của tay điệp viên - chỉ điểm vì tiền, kẻ đánh lừa và phản bội những người vô chính phủ. Lười biếng, "ông giống như đã vận sẵn đồ tươm tất chỉ để nằm cả ngày dài trên cái giường chưa dọn"; ở vẻ bề ngoài, ông ta kiếm sống nhờ một cửa tiệm nhỏ chuyên bán các ấn bản phẩm khiêu dâm; thật ra trò thương mại rất thảm ấy là một tấm bình phong đằng sau đó ẩn núp các cuộc họp của một nhóm nhỏ rất cosmopolite của đám vô chính phủ-khủng bố. Verloc sống ở đằng sau tiệm cùng người vợ trẻ Winnie của mình và em trai của cô, Stevie, một thiếu niên có vấn đề về đầu óc. Winnie, im lìm và thụ động, thường thì ngồi sau công toa bẩn thỉu, nhưng cô rất kỳ bí: "tò mò là một kiểu tự thú, những ai chủ động dập tắt hiếu kỳ với mọi thứ sẽ mãi mãi giữ được nửa phần bí nhiệm". Cô đã lấy Verloc chỉ nhằm đảm bảo sự an toàn về vật chất cho em trai mình, thằng ngốc khốn khổ mà cô yêu quý theo lối gần như mẫu tử. Stevie có một tấm lòng vàng, nhưng không thể chịu được việc nhìn thấy bất kỳ đau đớn nào, nếu điều đó xảy ra thì cậu sẽ rơi vào một cơn náo loạn thần kinh cực điểm (cho nên cậu gây sự với một tay xà ích đánh xe ngựa quật roi vào con nghẽo của ông ta - nhưng khi kẻ kia giải thích với cậu rằng đám xà ích khốn khổ còn đáng thương hơn nhiều, thì Stevie lại ngay lập tức muốn đưa con ngựa cùng tay xà ích vào nằm trên giường mình cho ấm). Từ nhiều năm, Verloc là một điệp viên ăn lương của Đại sứ quán Nga; nhiệm vụ của ông ta là luồn lỏi vào các tổ chức của những người hư vô chủ nghĩa và người di cư chống Sa hoàng, và báo cho Sứ quán về các hoạt động của bọn họ. Nhằm đẩy chính quyền Anh đến chỗ bắt và tống cổ những người cách mạng và vô chính phủ âm mưu chống quyền lực Sa hoàng đi, Sự quán giao cho Verloc việc tổ chức một cuộc tấn công đủ sức gây choáng váng dư luận, nhưng trách nhiệm sẽ ngay tức thì bị quy cho phong trào vô chính phủ: cần phải đặt một quả bom dưới chân đài thiên văn Greenwich. Verloc, vốn dĩ chẳng hề thích mạo hiểm, bảo Stevie đi đặt bom, nhưng thằng ngốc bất hạnh bị vấp ngã và bị nổ tan xác. Điều này dẫn chúng ta tới chương gần cuối, điểm tột cùng của câu chuyện: cuộc đối đầu giữa Verloc và vợ ông ta. Tin về cái chết thảm khốc của Stevie đã nhấn cô vào một dạng điên lạnh giá và câm lặng về đó Verloc (vốn chưa từng bao giờ hiểu vợ) hiểu nhầm hoàn toàn. Vì các cảm xúc gây ra cảm giác thèm ăn, Verloc ngồi xuống bên bàn bếp thái và máy móc ngốn ngấu những miếng thịt rô ti nguội, vừa làm như vậy vừa tìm cách an ủi Winnie. Ông ta nêu với cô nhận xét rằng lẽ ra mọi chuyện đã có thể còn tệ hại hơn: chính ông ta lẽ ra đã bị giết thay vì Stevie! Rốt cuộc ông ta gợi ý cô vào giường ngủ với mình để khích lệ lẫn nhau. Nghe thấy lời mời này, Winnie bèn cầm lấy con dao thái thịt và đâm vào họng ông ta. Ở chương cuối, Winnie, khiếp hãi trước ý về giá treo cổ chắc chắn đang đợi mình, tự sát. Lời cuối thuộc về tên vô chính phủ mang biệt danh "Giáo sư" (bởi các hiểu biết về hóa học và vật lý cho phép hắn sản xuất thuốc nổ trên tầng áp mái của mình): "Điên rồ và tuyệt vọng ư! Hãy cho tôi thứ đó để làm đòn bẩy, tôi sẽ xoay chuyển cả thế giới." Hắn tiếp tục bình thản dạo chơi trong đám đông phố phường; cảnh sát không dám lại gần hắn vì biết rằng, như thường lệ, hắn đã tự biến chính mình thành quả bom lưu động.

Tay điệp viên không được công chúng đón nhận hồ hởi (cũng như hai tiểu thuyết lớn "đất liền" khác của ông - Nostromo không lâu trước đó, và Dưới mắt phương Tây không lâu sau đó). Vả lại Conrad đã có dự cảm về điều này; trong lúc hoàn thành Tay điệp viên ông cho in một tập kỷ niệm về biển rất đẹp, Gương biển [Soi vào Biển], nó thì giành được thành công vang dội. Trong một bức thư (viết bằng tiếng Pháp) gửi người bạn đồng thời là người dịch ông, Henry Davray, ông bình luận:

"Các nhà phê bình đã mạnh tay đung đưa bình hương [trước Gương biển]. Tôi nghĩ rằng đối với nhiều người, đấy là nhằm chơi tôi vỡ mũi. Có những kẻ đã nắm lấy cơ hội để đạp một cú vào Nostromo khốn khổ vốn bị chôn sống nguyên cách đây hai năm kia. Anh nhớ chứ? Bên dưới cuộc công xe những ngợi ca ấy tôi có thể nghe thấy như một tiếng thì thầm: "Cứ ở ngoài khơi đi. Chớ cập vào bờ!" Bọn họ muốn đẩy tôi đi đày ra giữa đại dương. Sướng rơn được ấy. Bọn họ mới chỉ từng làm điều đó với Napoléon!

Bọn họ sẽ bị tóm lấy thôi.

Tôi vừa viết xong một cuốn tiểu thuyết [Tay điệp viên] nơi không có lấy một giọt nước nào - ngoại trừ mưa, điều này thì rất bình thường bởi vì toàn bộ câu chuyện xảy ra tại London. Có cả thảy khoảng nửa chục tên vô chính phủ, hai phụ nữ cùng một thằng đần. Thêm nữa tất tật đều là bọn ngu, kể cả một tay bí thư sứ quán, một bộ trưởng và tên thanh tra cảnh sát..."

Vài tháng sau khi sách xuất bản, ông tâm sự nỗi chán chường của mình với người bạn Galsworthy: "Giờ đây có thể coi Tay điệp viên là một thất bại khả kính. Nó đã không mang lại cho tôi cả sự trìu mến lẫn lời hứa về thành công văn chương. Tôi phải công nhận rằng tôi cảm thấy gục ngã. Chắc hẳn thật ngu ngốc khi tôi lại đi nghĩ mọi chuyện có thể khác đi. Tôi giả định là ở tôi có một điều gì đó khiến công chúng rộng rãi không ưa... Sự thể là tôi không thuộc về đây, tôi giả định thế..."

Cay đắng hơn cả là các độc giả quay đi khỏi ông đúng vào lúc ông có cảm giác chuẩn xác là mình đã đạt đến đỉnh cao nghệ thuật riêng. Rốt cuộc, vì vô cùng cần tiền (bởi ở tư cách nhà quý tộc tốt, ông có thói quen cao quý là luôn luôn sống theo mức vượt xa những phương tiện của mình) ông quyết định trao cho công chúng "thứ hàng hóa Conrad hạng hai", và với một thứ mê lô hương xa cỏ lạ tầm thường, ông mau chóng đạt tới các tia ra vô tiền khoáng hậu đối với ông... [ý nói cuốn tiểu thuyết Victory].

Sự ham chuộng Anh của Conrad rất nồng nhiệt, nhưng không hề mù quáng. Trong Tay điệp viên, chỉ bằng vài cú chạm sắc lẹm ông họa ra sự vắng mặt của trí tưởng tượng - cái hỗn hợp của nỗi hờ hững chật chội và tính cách con nít, thứ đặc trưng hóa cho establishment của Anh (ở đây được hiện thân bởi ba nhân vật hành chính chịu trách nhiệm tiến hành cuộc vật lộn chống khủng bố). "Sự xa lạ" (foreignness), thứ làm hỏng đi sự hiểu cùng thiện cảm của giới ưu tú văn chương Anh thời của ông (Henry James, H. G. Wells, Virginia Woolf, mà ông nghĩ là những người đồng đẳng với mình và bạn của mình, nói về ông, ở sau lưng ông, với một sự thương hại nhiều sỉ nhục: poor queer man) - nhưng chính "sự xa lạ" đó sẽ thu hút cho ông, sau khi đã chết, niềm ngưỡng mộ đầy hào hứng của những tinh thần phê bình giỏi nhất của thời chúng ta: lời tung hô tráng lệ của Ezra Pound vẫn tiếp tục vang rền: "Conrad, người mang ánh sáng từ quan điểm châu Âu đến đầm lầy Anh tối đen!" George Orwell, người coi Conrad là "một trong những nhà văn giỏi nhất của thế kỷ" cũng nhấn mạnh việc ông là nạn nhân của một hiểu nhầm đến độ nào lúc người ta thu ông về các kích cỡ của một "nhà văn về biển", trong khi đóng góp sâu sắc và độc đáo hơn cả của ông nằm ở những cuốn tiểu thuyết đất liền, đặc biệt là Tay điệp viênDưới mắt phương Tây. Bên cạnh những người Mỹ James, Pound và Eliot, cùng những người Ai len Joyce, Yeats và Shaw, "Conrad từng là một trong những nhà văn vào thời chúng ta thành công được trong việc văn minh hóa văn chương Anh bằng cách đặt nó lại vào tiếp xúc với châu Âu, từ đó nó từng bị cắt ra trong vòng khoảng một trăm năm." Một trong những lực lớn mà Conrad lấy được từ nguồn gốc lục địa của ông nằm chính ở "sự hiểu sâu sắc các âm mưu về mặt chính trị. Ông đã thường diễn tả nỗi kinh hoàng mà những người vô chính phủ và hư vô chủ nghĩa gây cho ông, nhưng ông có một dạng cảm tình đối với họ, bởi ông là một người Ba Lan: có lẽ phản động ở chính trị bên trong; nhưng là một người nổi loạn chống Nga và Đức. Những đoạn nhiều màu sắc nhất của ông có thể được biển truyền cảm hứng, nhưng ông cho thấy mình người lớn hơn cả trong số các nhà văn ngay khi chạm vào đất liền."

Nhưng châu Âu lục địa có từng cho thấy là nó được soi rọi hơn về chủ đề Conrad hay không? André Gide (được Claudel giúp khám phá Conrad) suốt một thời gian lao tâm khổ tứ nhằm khiến ông được biết đến tại Pháp; thậm chí ông còn dịch Bão lớn (khá tệ); ông kết bạn với Conrad, và tới thăm Conrad ở Anh. Nhưng về sau, trong Nhật ký ông thú nhận mình đã bỏ dở không đọc hết được Tay điệp viên (như vả lại ông cũng đã bỏ ngang Nostromo). Và trong những ngày tuổi già, ông xem xét lại niềm ngưỡng mộ của mình và tâm sự với Petite Dame [biệt hiệu của Maria Van Rysselberghe, "muse" của Gide] (bà ghi lại trong Sổ tay của bà): "Về Conrad, thì tôi không đặt ông ấy cao lắm đâu; tôi từng yêu quý con người ông ấy đến mức thật nặng nề khi nói điều này." Nhưng Gide có thực sự là một nhà văn của thế kỷ 20 chăng?

Để quay trở lại trung tâm cái thời đáng hoảng sợ của chúng ta, thay vì thế hãy lắng nghe Primo Levi: "Nếu công việc văn chương của tôi có rễ của nó ở đâu đó, thì đấy là ở Conrad."

 

chương trình Conrad

May

Giữa đất và nước

Bão lớn

Tay điệp viên

Tên mọi trên tàu Narcissus

Lord Jim

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công