favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Thu 2025
Next

Minima moralia

14/09/2025 19:56

Văn Bản đã có ba phơi ơ tông: các cuộc đọc diễn ra trong thời gian thực, xong đến đâu, đăng đến đó. Một trong số ấy đã hoàn thành (Lý thuyết Tầng lớp nhàn rỗi, hè 2025). Hai vẫn đang tiếp tục: Tại sao tôi là người Công giáo? của Chesterton và Mardi của Melville (thứ Ba hằng tuần, bắt đầu từ xuân 2025). Đây là phơi ơ tông thứ tư: Minima moralia của Adorno. Cái tên đi ra từ Magna Moralia: cuốn sách về đạo đức lớn, đạo đức ở thức magna. Nhưng cũng có những khi đạo đức chỉ có thể hiện ra ở minima: giọng nhỏ, thức thứ. Adorno gọi cuốn sách ấy là: Nghĩ từ cuộc đời bị phá hủy.

Adorno viết Minima moralia trong Thế chiến II, trong cảnh lưu đày: là một trong những trí thức may mắn sống sót, thoát khỏi cuộc diệt chủng; nhưng sự sống ấy mang theo rất nhiều cái chết: những người chết đều có thật. 

Adorno đề tặng cuốn sách cho Max Horkheimer, người đã cùng ông viết Biện chứng Sáng. "Sáng tác diễn ra trong giai đoạn mà, do hoàn cảnh bên ngoài, chúng tôi buộc phải gián đoạn công việc vẫn làm cùng nhau. Cuốn sách muốn thể hiện lòng biết ơn và trung thành bằng cách từ chối thừa nhận sự gián đoạn ấy. Nó là chứng tích của một dialogue intérieur (đối thoại thiết thân): không một motif nào ở đây không thuộc về Horkheimer ở cùng mức độ như thuộc về kẻ đã tìm thấy thời gian để khuôn nó thành lời."

Minima moralia gồm các châm ngôn (aphorism): đó là một truyền thống, một truyền thống phản truyền thống (xem ở kiakia). Châm ngôn - hình thức cô lập không thể được chấp nhận trong lý thuyết biện chứng - là chứng nhận cho sự tan biến của chủ thể. "Đời sống của tinh thần chỉ đạt đến sự thật khi tự khám phá chính mình trong sự hoang tàn tuyệt đối." Châm ngôn đến các chủ đề triết học, nhưng không bao giờ vờ là hoàn chỉnh hay xác quyết: tất cả đều nhằm vạch ra những điểm tấn công hoặc cung cấp những mô hình cho một nỗ lực suy nghĩ về sau. 

Sự xuất hiện của Minima moralia ở thời điểm này, ngoài các lý do khác, còn để nối lại với Tâm hồn và hình thức của Lukács (một text về nó được viết đúng ba năm trước: một trong các text mở đầu cho Văn Bản).

 

 

Minima moralia

 

 

Für Max
als Dank und Versprechen

 

 

Tặng

Khoa học sầu muộn mà từ đó tôi dâng cuốn sách này cho người bạn của mình liên quan đến một lĩnh vực từ xưa vẫn được xem là địa hạt chân chính của triết học, nhưng kể từ khi triết học bị biến thành phương pháp, đã rơi vào một sự bỏ bê trí tuệ, lảo đảo và cuối cùng chìm vào quên lãng: khoa học về sống và sống tốt. Cái mà các triết gia từng gọi là sống (Leben) đã trở thành địa hạt của cái riêng tư và giờ là tiêu thụ thuần túy, bị kéo lê như phụ tố của quá trình sản xuất vật chất, không có tự trị hay bản thể riêng. Kẻ nào muốn biết sự thật về sống trong tính trực tiếp của nó (unmittelbares Leben) thì phải khảo sát chính hình thức tha hóa của nó, những lực khách quan xác định tồn tại cá nhân trong những góc khuất kín nhất. Phát biểu trực tiếp về cái trực tiếp tức là làm hệt như các tiểu thuyết gia - khoác lên con rối của mình những dục vọng quá khứ bắt chước như những trang sức rẻ tiền và khiến những người vốn chỉ là các cơ phận của cỗ máy hành động như thể họ vẫn còn khả năng hành động của chủ thể, như thể điều gì đó vẫn còn phụ thuộc vào hành động của họ. Cái nhìn của chúng ta về sống đã trở thành một ý luận che đi sự thật rằng đâu còn sống nữa. 

Nhưng quan hệ giữa sống và sản xuất, thứ hạ sống xuống còn là một ngoại hiện phù du của sản xuất, là hoàn toàn phi lý. Phương tiện và cứu cánh bị đảo ngược. Một ý thức mờ về tráo đổi sai lệch này vẫn chưa hoàn toàn bị xóa sạch khỏi sống. Yếu tính bị giản lược và hạ thấp vẫn ngoan cường chống lại thứ ma thuật biến nó thành mặt tiền thuần túy. Thay đổi trong quan hệ sản xuất, chính nó, cũng phụ thuộc phần lớn vào những gì diễn ra trong “địa hạt tiêu dùng”, tức là phản chiếu của sản xuất và biếm họa của sống đích thực: trong ý thức và vô thức của các cá nhân. Chỉ khi cự lại sản xuất, không chịu để mình hoàn toàn bị nuốt chửng bởi trật tự ấy, con người mới có thể tạo ra một trật tự khác, xứng đáng hơn với con người. Một khi ngoại hiện (Schein) của sống - mà địa hạt tiêu dùng vẫn cố bảo vệ vì những lý lẽ tệ hại - bị xóa bỏ hoàn toàn thì sự man rợ, tính phi thể (Unwesen) của sản xuất tuyệt đối sẽ hoàn toàn thắng thế. 

Tuy thế, những suy tư khởi đi từ chủ thể vẫn là ngụy chừng nào sống chỉ còn là ngoại hiện. Bởi trong giai đoạn hiện tại của vận động lịch sử, khách quan tính của nó chỉ còn nằm ở sự tan rã của chủ thể - mà từ đó vẫn chưa nảy sinh cái mới, nên kinh nghiệm cá nhân tất yếu phải dựa trên chủ thể cũ, vốn đã bị lịch sử kết án - nó vẫn còn tự giác (für sich/ for-itself) nhưng không còn tự tồn (an sich/ in-itself). Chủ thể vẫn hết sức chắc chắn về tự trị của mình, nhưng hư vô mà trại tập trung phơi bày đã giáng xuống chính hình thức của chủ thể tính. Suy tư chủ quan, dẫu được mài sắc bởi phê phán chống lại chính nó, vẫn mang trong mình một sắc thái ủy mị và lạc thời: một tiếng than van trước vận động của thế giới; nó bị bác bỏ không phải vì ý định của nó mà vì chính chủ thể than van ấy có nguy cơ cứng đặc lại trong trạng thái của mình và lại càng thúc đẩy quy luật vận hành của thế giới. Lòng trung thành với trạng thái ý thức và kinh nghiệm của mình luôn luôn rơi vào cám dỗ trở thành phản bội khi nó khước từ cái nhìn siêu vượt cá nhân và gọi đích danh bản thể (Substanz) của cá nhân.

Cùng ý này, Hegel, người mà phương pháp của Minima Moralia đã học tập - đã lập luận chống lại cái thuần tự-giác (Fürsichsein/ for-itself) của chủ thể tính trên mọi cấp độ của nó. Lý thuyết biện chứng, vốn ghê tởm mọi sự đơn lẻ, không thể chấp nhận hình thức châm ngôn. Trong trường hợp khoan dung nhất, châm ngôn có thể, dùng thuật ngữ từ Lời tựa của Hiện tượng luận Tinh thần, được dung thứ như một “đối thoại”, nhưng thời điểm cho điều đó đã qua rồi. Tuy nhiên, cuốn sách này không phải đã quên đi tham vọng về tính toàn thể của hệ thống - vốn không chịu được việc người ta nhảy ra khỏi nó, mà chính là nổi dậy chống lại điều đó. Đối với chủ thể, Hegel không tôn trọng chính đòi hỏi mà ông thường nhiệt thành bảo vệ: tức là phải ở trong bản thân vật (in der Sache zu sein) chứ không phải lúc nào cũng “siêu vượt nó”: phải “thâm nhập vào nội tại của vật.” Nếu ngày nay chủ thể đang tan biến thì châm ngôn tự khoác lên mình bổn phận “xem chính sự tan biến là yếu tính.” Đối lập với thực hành của Hegel nhưng lại tương hợp với trực giác của ông, châm ngôn kiên định với âm tính, tiêu cực, phủ định (Negativität): “Cái sống của tinh thần (das Leben des Geistes) chỉ đạt đến sự thật khi tự khám phá chính mình trong sự hoang tàn tuyệt đối. Tinh thần không phải là một quyền lực mang dương tính, tích cực, khẳng định (Positive) quay lưng lại với cái phủ định, như khi ta nói về một điều gì đó rằng nó là hư vô hay trá ngụy, rồi bỏ qua nó để hướng đến một thứ khác; tinh thần phải dám nhìn thẳng vào Negative, trú ngụ trong đó.”

Sự không ngừng gạt bỏ cá nhân của Hegel, đi ngược với trực giác của chính ông, lại bắt nguồn - đầy nghịch lý - từ sự bùng nhùng tất yếu của ông trong tư duy liberal. Khái niệm một toàn thể đạt đến sự hài hòa thông qua chính các mâu thuẫn và đối kháng của nó buộc ông phải gán cho sự cá biệt hóa một vị trí thứ yếu trong cấu trúc tổng thể, dù vẫn xem nó là một động lực thúc đẩy tiến trình. Tri nhận rằng trong tiền lịch sử (Vorgeschichte), khuynh hướng khách quan áp đảo con người, thậm chí bằng cách triệt tiêu mọi phẩm chất cá nhân, trong khi sự hóa giải giữa cái chung và cái cá biệt, dù đã được kiến tạo trong khái niệm, vẫn chưa bao giờ được thực thi trong lịch sử, bị Hegel xuyên tạc: với một sự bỏ qua bình thản, ông khăng khăng chọn con đường xóa bỏ cái cá biệt. Không một lần nào trong công trình của ông, nguyên tắc ưu tiên của toàn thể bị nghi ngờ. Chuyển tiếp từ sự cô lập suy tư sang toàn thể được thánh hóa trong lịch sử và trong logic Hegel càng đáng ngờ thì triết học - với tư cách là biện minh cho cái tồn tại - càng hăng hái bám chặt vào cỗ xe chiến thắng của các khuynh hướng khách quan. Sự khai triển của nguyên lý cá biệt hóa xã hội dẫn đến sự thắng thế của tất định đã cung cấp cho triết học quá đủ lý do để làm như vậy. Hegel, khi lập thuyết về xã hội bourgeois và phạm trù cơ bản của nó - cá nhân, đã không thực sự đẩy đến cùng biện chứng giữa hai bên. Quả thật, ông có nhận ra, cùng với kinh tế học cổ điển, rằng toàn thể được sản sinh và tái sản sinh nhờ tương tác của các lợi ích đối kháng giữa các thành viên. Nhưng về cơ bản ông vẫn ngây thơ xem cá nhân như một phạm trù không thể quy giản - dù trong lý thuyết nhận thức của mình, ông đã giải thể chính phạm trù ấy. Tuy vậy, trong một xã hội cá nhân luận, cái phổ quát không chỉ tự triển khai thông qua tương tác giữa những cá biệt; xã hội, về cốt yếu, là bản thể của cá nhân.

Vì lý do này, phân tích xã hội có thể học được vô cùng nhiều từ kinh nghiệm cá nhân - nhiều hơn mức mà Hegel thừa nhận - trong khi ngược lại, những phạm trù lịch sử rộng, sau tất cả những gì đã được thực hiện nhờ chúng, giờ không còn có thể miễn nhiễm khỏi nghi ngờ về trá ngụy. Trong một trăm năm mươi năm kể từ khi khái niệm của Hegel được xác lập, một phần sức mạnh phản kháng đã quay lại với cá nhân. So với sự nghèo nàn gia trưởng trong chân dung của Hegel về cá nhân, cá nhân đã giành được nhiều hơn sự phong phú, sự phức tạp và sức sống - cùng lúc quá trình xã hội hóa làm suy yếu và xói mòn cá nhân. Trong thời đại tan rã, kinh nghiệm của cá nhân về chính nó và về cái xảy đến với nó lại một lần nữa đóng góp vào tri nhận (Erkenntnis), vốn chỉ bị nó che khuất chừng nào nó còn khăng khăng coi mình là một phạm trù thống trị tích cực và khẳng định. Đối diện với sự hợp nhất mang tính toàn trị - vốn hô hào xóa bỏ khác biệt, một phần sức mạnh xã hội mang tính giải phóng có thể đã tạm thời rút lui về địa hạt cá nhân. Nếu lý thuyết phê phán còn nấn ná ở đó, thì không chỉ là do ngụy tín. 

Tất cả những điều này không nhằm chối bỏ sự khả nghi của một nỗ lực như vậy. Phần lớn cuốn sách được viết trong thời chiến, dưới những điều kiện buộc con người phải băn khoăn. Chính bạo lực đã trục xuất tôi cũng tước đoạt khỏi tôi tri nhận đầy đủ về nó. Khi ấy, tôi vẫn chưa dám thừa nhận với chính mình mối đồng lõa bao trùm tất cả những ai, khi đối diện với những biến cố tập thể không thể tả thành lời, lại vẫn cất tiếng nói về những vấn đề cá nhân.

Trong cả ba phần của cuốn sách này, khởi điểm luôn luôn là phạm vi riêng tư hẹp nhất - đời sống của người trí thức trong cảnh lưu đày. Từ đó, suy tư mở rộng sang những vấn đề xã hội và con người rộng hơn, liên quan đến tâm lý học, cảm năng (Ästhetik) và khoa học trong mối quan hệ với chủ thể. Các châm ngôn kết thúc mỗi phần dẫn chủ đề trở về triết học, nhưng không bao giờ vờ là hoàn chỉnh hay xác quyết: tất cả đều nhằm vạch ra những điểm khởi sự hoặc cung cấp những mô hình cho một nỗ lực khái niệm về sau.

Duyên cớ trực tiếp để viết cuốn sách này là sinh nhật lần thứ năm mươi của Max Horkheimer, ngày 14 tháng Hai năm 1945. Quá trình viết diễn ra trong giai đoạn mà, do hoàn cảnh bên ngoài, chúng tôi buộc phải gián đoạn công việc cùng nhau. Cuốn sách muốn thể hiện lòng biết ơn và trung thành bằng cách từ chối thừa nhận sự gián đoạn ấy. Nó là chứng tích của một dialogue intérieur (đối thoại thiết thân): không một motif nào ở đây không thuộc về Horkheimer cùng mức độ như thuộc về kẻ đã tìm thấy thời gian để khuôn nó thành lời.

Cách tiếp cận đặc thù của Minima Moralia - nỗ lực trình bày những khoảnh khắc (Momente) của triết học chung từ điểm nhìn của kinh nghiệm chủ quan - tất yếu khiến cho các phần trong đó không hoàn toàn đáp ứng được những đòi hỏi của chính triết học mà chúng vốn là một phần. Tính rời rạc và không buộc chặt của hình thức, cùng với sự khước từ một kết cấu lý thuyết rõ ràng, là biểu đạt chủ ý cho điều đó. Sự khổ hạnh ấy cũng là một cách chuộc lại phần nào bất công khiến một người phải tiếp tục thực hiện nhiệm vụ vốn chỉ có thể hoàn thành khi có cả hai - một nhiệm vụ mà chúng tôi chưa bao giờ từ bỏ.

Anh Hoa dịch

 

tiểu luận & châm ngôn

Tâm hồn và Hình thức

Lịch sử (ngắn) văn chương Đức

Nghĩ

Đoản luận: Văn chương

Đoản luận về Giáo dục

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công