Melville: Mardi (kỳ 8)
tiếp tục, kỳ trước ở kia
CHƯƠNG XXV
HIỂM NGUY LÀM SỨ GIẢ HÒA BÌNH
Vài ngày trôi qua: con tàu brigantine lênh đênh đây đó, không gì ngoài biển cả trước mắt, một lần nữa sự tĩnh mịch của nó rung lên cái đồng hồ báo nguy bên trong Annatoo. Đình chiến đã kết thúc. Đa phần là do người phụ nữ ngang ngược quá mức, chiếm riêng cho mình nhiều vật dụng của Samoa mà trước đó đã chê bôi chẳng thèm. Đã vậy, cứ mãi rình mò, nàng không ngừng đi lên đi xuống với một thứ năng lượng không cạn kiệt, khám phá mọi xó xỉnh, đem cất những chiến lợi phẩm và chăm chỉ giấu giếm chúng. Vì ý niệm về những thích ứng tính nữ chẳng có là bao, nàng ăn cắp bất kỳ thứ gì tiện tay: những cái móc sắt, đô la, chốt, rìu, cả mấy cuộn thừng bện lẫn những thiếp đồng cũng chẳng tha. Toàn bộ điều này, Samor tội nghiệp hẳn vẫn có thể cắn răng chịu đựng với toàn bộ sự kiên nhẫn mình có - còn hơn là khởi sự gây chiến thêm lần nữa - nếu quý phu nhân táo tợn không kết án chàng cái tội biển thủ từ các kho riêng của nàng, dù chàng vô tội chẳng khác cái xà mũi tàu(1).
Cuộc luận tội đầy tính lăng nhục này đã thắng thế triết lý của anh dân đảo. Chàng căm ghét nó sâu sắc. Và kết quả là, khi thấy mọi hà hiếp đều vô dụng, Annatoo bỗng nhiên chuyển hướng, tuyên bố rằng từ nay về sau, Samoa được phép ở một mình; nàng chẳng mắc mớ gì đến chàng nữa. Trừ những khi bất đắc dĩ phải xoay xở con tàu brigantine, nàng thậm chí còn không thèm nói chuyện với chàng: không đời nào, đồ quái vật! Thế rồi nàng mạnh miệng đòi lấy boong mũi - chỗ tử tế nhất trên con tàu hai cột buồm này - làm căn hộ biệt lập cho mình. Còn về phần Belisarius bất hạnh, chàng có thể làm mọi điều mình thích dưới cái hang cabin bé tí tối mù ấy.
Về chuyện chia chiến lợi phẩm, bà la sát đang thắng lợi rực rỡ; từng kiện một, cùng vô số thứ lặt vặt linh tinh, lần lượt được chuyển về khoang. Hơn nữa, nàng nắm giữ một kho thực phẩm ra trò, để trong mọi khía cạnh có thể, được sống độc lập khỏi người chồng của nàng.
Annatoo vô duyên! Samoa vô phúc! Thế là đường ai nấy đi; người phụ nữ tiến hành cuộc chăm sóc tách biệt và Belisarius trở về với đời trai hiu quạnh. Chàng ngủ trong buồng riêng của thuyền trưởng, nơi mọi thứ đều lạnh lẽo và côi cút; người phụ nữ của chàng thì rút về khuê phòng boong mũi, giải khuây thời giờ bằng lần hạt kinh lạy cha và rải lẫn xếp những đồ nữ trang và áo quần nhờ hoạnh tài mà có, ví như Madame De Maintenon hiến dâng những ngày và đêm cuối đời cho khiết tịnh và những khúc vải calico.
Nhưng chắc bạn tưởng rằng đây là kết thúc lặng lẽ của những cãi cọ vợ chồng nhà họ? À, không! Những thù nghịch này chẳng có hồi kết, cho tới khi nào người này hoặc người kia chết đi.
Bấy giờ, lưu vong khỏi chiếc giường hôn nhân, Belisarius chịu đựng nỗi gian khổ mà chẳng kêu ca một lời. Và quả thực chàng là một người anh hùng, biết đâu chàng chẳng đang cảm thấy như một người lính được nghỉ phép? Nhưng còn về phần Antonina, nàng hoặc là không thể hòa thuận với Belisarius, hoặc là không thể chịu đựng nổi nếu thiếu chàng. Nàng bày mưu tính kế. Nhưng kế gì đây? Hay là đột nhập vào cabin và xoáy những của nả tạp nhạp trong đó, với niềm hy vọng xảo quyệt rằng một trận bùng phát tạm thời nào đấy sẽ tạo ra hòa giải chung cuộc?
Tiếp đến là một cảnh đấu khẩu đáng buồn, để rồi bị gián đoạn vì biển gầm một trận lớn. Vội trở về boong, họ thấy mình đang cắm đầu lướt về phía một bãi cạn được hình thành từ một cụm đảo thấp, mà nãy giờ khối mây lớn đã che khuất tầm mắt.
Bánh lái lập tức được bẻ ngoặt; các cánh buồm được căng chỉnh lại. Thế nhưng suốt nhiều giờ liền, do gió mạnh, dòng hải lưu chảy xiết, cùng sự bất định và trải rộng của bãi cạn, người ta vẫn không chắc liệu có thoát khỏi tai họa hay không. Nhưng tài đi biển của Samoa kết hợp với tính cần mẫn của Annatoo cuối cùng cũng thắng thế, và con tàu brigantine đã được cứu.
Về mô đất mà họ suýt bị đánh đắm, họ chẳng biết gì về nó; và vì lẽ ấy, họ lập tức lái tàu đi. Vì sau các sự kiện chí tử từng chạm đến con tàu Parki nơi quần đảo Vỏ Trai Ngọc, quả là đáng sợ nếu họ có gặp bất kỳ Dân Đảo nào; ngay từ ban đầu họ đã một mực quyết ôm lấy biển lớn, tránh bất kỳ trình diện nào của đất liền, dựa vào suy nghĩ rằng nay mai sẽ được một cánh buồm lướt ngang nào đó đón đi.
Không nghi ngờ gì nữa, quyết định ấy chính là điều đã cứu họ. Bởi với những người đi biển ở vùng này, không có hiểm họa nào lớn bằng việc tiếp cận các hòn đảo; phần lớn các đảo đều được bao bọc bởi những rạn san hô tiền tiêu, và từ xa bờ đã bị vây quanh bởi muôn vàn hiểm nguy, khiến cho cánh đồng xanh tươi rực rỡ bên trong như một đóa hồng giữa bụi gai - khó lòng mà chạm tới, chẳng khác gì trái tim của một thiếu nữ kiêu kỳ. Nhưng một khi đã có được thì cả ba - nụ hồng đỏ, bờ biển tươi sáng và trái tim êm đềm - đều ngập tràn tình yêu, hoa nở, và mọi vẻ vui sướng. Còn quần đảo Vỏ Trai Ngọc, thôi xin kiếu.
Bên cạnh đó, ở những vùng nước thanh bình này nói chung, con tàu nhỏ nhắn của Samoa, dẫu còn hàng trăm dặm cách xa đất liền, vẫn được điều khiển rất dễ dàng nhờ chàng và Annatoo. Con tàu Parki nhỏ đến nỗi một tay còn có thể chằng được xà buồm chính; việc kéo buồm phụ lên cũng hết sức nhẹ nhàng, nhất là sau lần đầu vụng về cố gắng làm bằng tay, họ rút kinh nghiệm, luôn luôn nối dây kéo buồm vào guồng tời, nhờ đó mà mọi thao tác đều diễn ra một cách trơn tru.
CHƯƠNG XXVI
CHỨA MỘT ĐỒNG BẠC TRIẾT LÝ
Nhiều ngày vẫn trôi qua và con tàu Parki hãy còn lênh đênh. Mấy con cá chuồn nhỏ bé - đã quen với thân tàu quen thuộc - hay la cà; và như những chú chim nhạn làm tổ nơi những cây già yên tĩnh, chúng đẻ trứng trong những cụm hà lớn màu xanh mọc bám đầy hai bên mạn tàu.
Biển càng lặng, hà càng nhung nhúc. Ở vùng Thái Bình Dương nhiệt đới, chỉ một vài tuần cũng đủ bọc thân tàu của bạn trong áo giáp vỏ sò. Bạt ngàn các cụm bám chặt vào mép mũi tàu, và nếu không cạo hà thì sẽ cản trở rất nhiều khả năng của tàu. Thi thoảng công việc dọn hà ấy là một trong các việc của Annatoo. Ta biết rằng, như hầu hết các bà la sát, quý phu nhân đôi lúc cũng ngăn nắp gọi là, tuy thất thường, yêu thích sạch sẽ theo lối cóc nhảy. Mấy con hà ấy lắm phen gây phiền toái cho nàng; và với một chiếc cọc dài, nàng sẽ xắn tay vào việc, chà chúng đi. Để nguôi ngoai những giờ chán chường, nếu không có việc gì hay hơn; và rồi sau đó nàng sẽ trở lại với những hạt cườm và đồ nữ trang của mình, quay lại kể lể, rì rầm những mộ đạo của nàng, và để ý xem chừng liệu Samoa có xoáy đồ ở kho trữ của nàng hay chăng.
Bấy giờ, việc thoát khỏi bãi cạn đã một lần nữa hàn gắn những khác biệt giữa người vợ hiền và chồng nàng. Mà cũng thật lạ - sống với nhau, chỉ có hai người trên một con thuyền cô quạnh giữa biển khơi như thế, sao lại còn có thể gây gổ? Đã đường ai nấy đi mà vẫn ở chung một mái nhà thì chỉ càng làm sự tình thêm rối rắm. Thế là Belisarius và Antonina lại về với nhau. Nhưng giờ, đã khôn ra do từng trải, họ chẳng yêu, cũng chẳng ghét nhau quá sâu sắc, nhưng chấp nhận bản chất của mọi việc; họ nhận ra rằng mình đã gắn với nhau, chẳng còn hy vọng gì chia lìa, và cùng cố gắng biến cuộc hôn phối này thành một sự tương hợp. Annatoo đi đến kết luận rằng không thể hoàn toàn biến Samoa thành kẻ nô lệ; còn Samoa thì cho rằng tốt nhất nên nhắm mắt làm ngơ trước những thói xấu của Annatoo, và để nàng xoáy đồ tùy ý.
Nhưng như trong nhiều trường hợp, toàn bộ triết lý về hôn nhân này không là bằng chứng chống lại liên hệ vĩnh viễn của các bên liên quan; và tốt hơn là làm sống lại những ngày xưa lúc còn tán tỉnh, khi miệng người đàn ông là những tảng ong mật: và để thêm phần ngọt ngào, phụ nữ là những con ong lưu giữ hương vị ấy; khi những say mê khôn dò le lói sâu bên dưới ánh mắt yêu mến của người cưng và hơn hết thảy, khi những cuộc ghé thăm được xen kẽ bởi nỗi thiếu vắng: theo cách ấy, như ông chủ công tước tôn quý cùng công nương của ngài, Samoa và Annatoo, chồng và vợ, sống chung dưới cùng một mái nhà, tuy vẫn giữ doanh trại tách biệt của mình. Marlborough ghé thăm Sarah; và Sarah, Marlborough, bất cứ khi nào tâm trạng gợi ra.
CHƯƠNG XXVII
TÀU PARKI ĐẾN HỒI KẾT THÚC RA SAO
Vẫn những ngày, những ngày, những ngày chóng qua; và lúc thì lái theo hướng này, lúc thì hướng kia, để tránh những bờ biển thâm hiểm xanh mơn mởn thường xuất hiện trong tầm mắt, con tàu Parki đi tới đi lui ngoài khơi, cho đến khi cuối cùng, dường như chẳng còn thể phân biệt nổi con tàu ấy đang trôi nổi trong thế giới nước nào nữa. Biết quá rõ các rủi ro, Samoa nản chí. Nhưng phúc thay kẻ thiếu hiểu biết. Vì vào cái ngày chàng nản chí, ả vợ già sôi nổi bảo rằng chàng hãy can đảm lên, vui lên và kiên trường lái tàu đi về hướng mặt trời lặn - phía hẳn là hòn đảo quê hương thân thương của nàng, nơi mọi lo toan sẽ không còn nữa. Vậy là xoay các xà buồm vuông góc, cứ thế họ lướt đi, xa dốc xuống khối cầu nước.
Vào buổi chiều cái hôm thoáng thấy họ khi chúng tôi còn ở trên thuyền, họ đã nhìn thấy một cụm đảo thấp, vốn gây cho họ không ít hoảng sợ bởi sự giống nhau của chúng với những đảo từng xảy ra cuộc tàn sát. Sự thật là họ hẳn phải tròn chừng năm trăm lý cách xa vùng biển đáng sợ ấy. Song họ vẫn đổi hướng để tránh nó và, một chốc trước khi trời lặn, bỏ hòn đảo phía sau để trở về đường cũ. Nhưng ngay sau đó họ nhận thấy chú dê biển(2) nhỏ nhắn của chúng tôi đang rẽ những sóng cuộn từ đằng xa.
Họ nhầm nó với chiếc xuồng từng đuổi theo mình. Điều này đã khôi phục và gia tăng cái chuông báo nguy bên trong của họ.
Và khi cuối cùng nhận ra rằng vật thể lạ ấy chỉ là một con thuyền, nỗi sợ của họ, thay vì dịu đi, chỉ càng tăng. Bởi những mê tín điên rồ khiến họ kết luận rằng một con thuyền của người da trắng tiến đến quá thình lình, ở vùng biển rộng, lại còn vào ban đêm như thế thì chẳng là gì ngoài một bóng ma. Vả lại, thấy hai chúng tôi trên chiếc Dê Biển, họ tưởng chúng tôi là vong hồn của bọn người Cholo. Một suy tưởng có hiệu lực làm tiêu tan lòng can đảm của Samoa, tương tự như của ông Viking, chỉ xử lý được những đối tượng có hình thù rõ ràng. Thấy chúng tôi nhất định đáp tàu, sau khi vội thu gom các động sản nhằm mang lên trên cao để cất giữ cho an toàn, họ giấu bất kỳ thứ gì có thể và cùng nhau leo lên đài buồm mũi - người đàn ông với cây súng hỏa mai, người phụ nữ với túi hạt. Việc cố gắng giữ những thứ quý báu này khỏi bị ma quỷ chiếm đoạt không phải vì họ thật sự lo sợ sẽ bị trộm mất, mà đơn giản chỉ là phản ứng trong cơn hoảng loạn trống rỗng của họ. Điều đó chẳng thể coi là lời trách cứ gì đối với tinh thần gan lì của Belisarius; bởi ngay cả những chiến binh Feegee dũng mãnh nhất, từng giết hàng trăm mạng, cũng không dám đi một mình mười bước trong bóng tối, vì sợ ma.
Họ dự định sẽ ở trên đài buồm đến khi sáng trời rồi đến ấy, mong các vị khách quý của họ sẽ rút đi cho - những vị y như rằng cuối cùng cũng đã phóng lên boong, xác minh nỗi sợ ghê gớm nhất của họ.
Họ quan sát chúng tôi rất lâu và kỹ. Nhưng nói cũng lạ, trong chính cái cảnh ngặt nghèo ấy, cùng nhau đậu trên đài buồm thoáng gió, những khác biệt trong gia đình của họ một lần nữa lại bộc phát - hẳn do họ buộc phải tiếp xúc quá gần với nhau như thế.
Dù nguyên nhân là gì, Samoa nhân lúc chúng tôi đi xuống khoang tàu, liền tuyệt vọng bỏ chạy khỏi vợ; và dù chỉ còn một cánh tay, chàng vẫn lanh lẹ như thủy thủ, đu mình theo các sợi dây buồm dọc mũi và đuôi tàu để leo sang cột chính, khẩu súng vẫn đeo sau lưng. Và thế là, dù chỉ cách nhau vài thước, hai người lại bị chia cắt như thể mỗi người ở một cực của trái đất.
Trong lúc đêm trường, cả hai người bọn họ còn đang rối trí về mấy con yêu tinh kỳ dị trên boong. Cái thứ bóng ma tò mò, đa sự, trước đây chưa từng thấy. Quá dạn dĩ và có phương pháp, khéo léo dừng đà tiến của tàu để lục lọi cho dễ hơn - chính cái kế hoạch mà bản thân họ đã làm theo. Nhưng điều khiến họ ngạc nhiên nhất là việc chúng tôi đánh ra lửa, một việc mà chẳng có con ma đích thực nào làm được. Kế đến là chuyện chúng tôi ăn và uống trên boong lái lẫn việc bài binh bố trận kiểu thành Viên bị bao vây và nhiều việc khác cũng lạ lùng tương đương, thiếu điều đã khiến Samoa tưởng rằng chúng tôi chẳng là vong hồn gì sất mà là một cặp người đến từ cung trăng.
Đã vậy họ còn thoáng thấy những món khoác chẽn và quần dài mà chúng tôi mặc, từa tựa những món đồ thuyền trưởng tàu Parki đã tặng cho hai tên Cholo và những tên côn đồ đã bị giết. Điều này, cùng với sự xuất hiện của chiếc thuyền săn cá voi, hợp với nhau để đuổi đi cái suy tưởng từ cung trăng xuống của chúng tôi. Nhưng những nhận xét này nối lại ấn tượng mê tín ban đầu của họ về chuyện chúng tôi là vong hồn của hai tên lai sát nhân.
Tuy vậy, về sau, khi đêm đã khuya, chúng tôi nằm nghỉ ngay dưới chỗ Samoa đang nấp, vừa gặm bánh quy vừa chuyện trò, chàng vẫn chăm chú quan sát chúng tôi và suýt nữa đã nổ súng bắn thử một phát để kiểm tra xem chúng tôi có thân xác thật hay không. Nhưng may mắn là chàng lại quyết hoãn lại tới khi sáng trời; nếu lúc đó chúng tôi vẫn chưa bốc hơi mất thì hãy ra tay cũng chưa muộn.
Về phần phu nhân Annatoo, gần như ngay từ lúc chúng tôi cập tàu cướp biển, có điều gì ở cung cách của chúng tôi đã làm dấy lên trong nàng một mối lo ngầm về tính chân thật trong cơ cấu khí quyển của chúng tôi. Khi Samoa bỏ chạy khỏi chỗ nàng, và nàng bị bỏ mặc một mình với những suy tưởng của mình, sự hoài nghi ấy chỉ càng lúc càng dày. Từ đâu chúng tôi tới nàng không biết, chỉ thấy chúng tôi như quyết tâm cướp đi những món mà nàng xoáy được. Than ôi! nàng nghĩ, nào những cúc, những đinh, vải tappa, đồng đô la, những hạt cườm, những hộp của ta!
Bực tức đến tuyệt vọng vì linh tính ảm đạm ấy, sau cùng nàng động dây đến chỗ Samoa; học được cách hướng chú ý của chàng vào cái tội tày trời có khả năng đang diễn ra trong cabin, bước đầu tiên của cuộc xâm lược khu boong tàu bên kia của nàng. Giả sử nàng lên giọng thì chắc chắn đã dấy lên động cơ bắn hạ chúng tôi ngay khi chúng tôi vừa bước ra khỏi cabin. Nhưng thất bại trong việc đánh động làm cho Samoa hiểu được ý mình, ác tâm của nàng tỏ ra vô ích.
Tuy vậy, khi nỗi sợ hãi lớn nhất của nàng trở thành hiện thực - khi chúng tôi thật sự bước xuống khoang mũi tàu - thì nàng liền lắc dây mạnh đến mức Samoa phải bám chặt vào dây buồm vì sợ bị văng khỏi giàn. Và chính sự lắc lư dữ dội ấy đã gây nên tiếng cọt kẹt lớn ở nơi các xà buồm, mà chúng tôi nghe được quá thường xuyên khi ở bên dưới gian nhà của Annatoo.
Và đài cột buồm mũi thì ngay trên lỗ thông boong mũi, quý phu nhân có thể đã quan sát chúng tôi ngay từ bên trên; từ đó các hoạt động của chúng tôi đã tỏ rõ mồn một nhờ thứ ánh sáng mà chúng tôi mang theo. Khi chúng tôi bật nắp chiếc két sắt của nàng, cơn phẫn nộ của nàng hầu như đã thống trị toàn bộ nỗi sợ. Nàng liền tháo một chiếc ròng rọc trên cao và thả nó xuống thẳng khoang, với ý đồ từ tâm là đập nát quả đầu dừa của Jarl - lúc đó lộ rõ hơn đầu tôi dưới con mắt một kẻ quan sát từ trên không. Nhưng may thay, món đồ sứ của chúng tôi không bị sứt mẻ gì.
Cuối cùng trời cũng sáng, sau đó Jarl khám phá ra kẻ chiếm đóng đài cột buồm chính - sự kiện đã được thuật lại đầy đủ với những gì xảy ra về sau.
Trên đây, về cơ bản, là các hồi thứ nhất, nhì, ba, tư của tấn kịch tàu Parki. Hồi thứ năm và hồi cuối, gồm dăm ba cảnh, giờ xin được tiếp .
CHƯƠNG XXVIII
BỚT NHỮNG MỐI NGỜ, VÀ ĐÔI ĐIỀU VỀ CHỊ CALMUC
Dẫu rằng có nhiều chi tiết đầy ý vị thực tế, câu chuyện của Samoa ban đầu về tổng thể vẫn chưa gọi là thỏa đáng. Không phải vì nó quá lạ lùng, bởi tôi từng được nghe những câu chuyện còn lạ lùng hơn.
Có lẽ một phần lý do là tôi đã mong đợi một câu chuyện hoàn toàn khác; một điều gì đó phù hợp hơn với những suy đoán trước đó của tôi.
Điều khiến tôi thêm phần bối rối là việc chàng kể đã trông thấy những hòn đảo vào ngày hôm trước; tuy nhiên, khi nghĩ kỹ lại, điều đó cũng có thể là thật - và nếu sau đó chàng đã lập tức đổi hướng con tàu Parki, thì chiếc Dê Biển của chúng tôi, không hề hay biết, có thể đã lướt qua gần đó mà không nhìn thấy. Chắc chắn những hòn đảo này không thuộc khu vực của quần đảo mà chúng tôi đang tìm. Chúng phải ở một miền nào đó đến nay vẫn chưa tìm thấy.
Nhưng rồi tôi tự hỏi: liệu có thể nào một người, theo như lời kể của chính mình, đã hành động quả cảm đến thế để cứu lấy con tàu brigantine, lại có thể hoảng sợ như trẻ con chỉ vì thoáng thấy hai thủy thủ trên một chiếc xuồng, trong khi bản thân lại được trang bị đầy đủ vũ khí để phòng vệ, nếu như thực sự chúng tôi có ý định chiếm đoạt tàu? Trái lại, trong hoàn cảnh cô độc của mình, chẳng phải phản ứng tự nhiên nhất của chàng phải là mừng rỡ đón nhận sự tiếp cận của chúng tôi hay sao? Nhưng rồi tôi lại nhớ ra, họ đâu có xem chúng tôi là người, mà là ma. Xét cho cùng, tôi vẫn giữ một chút dè dặt với người kể câu chuyện. Nhưng ánh mắt chàng nhìn tôi như một người đàn ông. Còn Annatoo, đứng bên cạnh, trông bật lên cái nét quá Amazon được tích tụ nơi nàng, đến độ các nghi ngờ của tôi bắt đầu nao núng. Và khi nhớ lại những chi tiết vụn vặt trong câu chuyện của họ - những chi tiết khó lòng bịa ra một cách vội vã, thậm chí khó lòng bịa ra được dù có thời gian - thì rốt cuộc, tôi đã buông hết ngờ vực. Tôi không còn có thể nuôi dưỡng mối nghi nào nữa.
Bởi lẽ, thẳng thắn mà nói, Samoa có thể có mục đích gì khi đơm đặt một câu chuyện khủng khiếp - ý tôi là về những người trong cuộc tàn sát - trừ phi là để che giấu một thảm kịch nào đó còn tàn ác hơn mà chính chàng mới là người can tội? Một ức đoán mà, vì những chứng cớ rành rành, dường như thật khó tin. Đúng là tôi từng biết đến những trường hợp vài người bán khai như Samoa, từng là thành viên thủy thủ đoàn ở vùng biển này, đột nhiên nổi loạn giết chết bạn đồng hành da trắng của mình, nhằm làm đắm con tàu trên bãi cạn của một hòn đảo gần đó để cướp bóc xác tàu.
Nhưng nếu đó là ý định với chiếc Parki, thì những kẻ phản loạn còn lại đâu? Các phỏng đoán của tôi chẳng có hồi kết; tôi càng đắm mình vào chúng bao nhiêu, chúng càng sinh sôi nảy nở bấy nhiêu. Thế là, chẳng muốn phải giày vò bản thân, trong khi cũng không biết thêm được điều gì ngoài điều mà Samoa đã kể và gắn mình với nó như một người hùng, tôi mặc kệ hết thảy phỏng đoán, gắng hết sức đặt trọn niềm tin vào anh Dân Đảo.
Còn Jarl, tuy vậy, lại hoài nghi đến phút chót và không bao giờ ở trong cái thế hoàn toàn tin câu chuyện ấy được. Ông dứt khoát giữ vững rằng lũ ba bị chắc hẳn phải có cái gì đó với con tàu Parki.
Khi nỗi tò mò của tôi được thỏa mãn về con tàu brigantine, tới lượt Samoa trở thành người dò hỏi. Chàng muốn biết chúng tôi là ai và từ đâu mà chúng tôi tới bằng con thuyền tuyệt hảo này. Nhưng về những vấn đề ấy tôi thấy tốt hơn là đừng nên nói thật với chàng, nhất là nghĩ rằng nếu lộ ra thì chàng sẽ bớt tôn trọng chúng tôi với vai tư cách những người thượng đẳng hơn chàng. Thành thử tôi mập mờ kể về các cuộc phiêu lưu của chúng tôi và chủ trương lấy le trên cơ để đỡ thấy thua kém anh Dân Đảo man rợ. Về phần Jarl và khả năng ông sẽ tiết lộ điều gì, ngay từ đầu tôi tranh thủ cho ông thấy tầm quan trọng của việc không bao giờ được hé ra vụ nhảy tàu Arcturion và dưới bất kỳ hình thức nào cũng không được tự buộc tội mình vì chuyện ấy: những huấn thị mà ông hứa sẽ một mực tuân theo.
Dù không hoàn toàn thấy khó chịu với hình thể lực lưỡng của Samoa - bất chấp những nét hoang dã trên gương mặt và phần cơ thể đã bị tật nguyền - tôi càng ít có thiện cảm với diện mạo của Annatoo, người mà tay chân thì gân, lại chẳng trẻ trung, cũng chẳng có duyên lẫn nhã nhặn, thật là vô cùng đáng ghét. Nhưng làm sao không khỏi ngưỡng mộ những phẩm chất Penthesilea vốn quá nổi bật, đã từng trợ sức cho Samoa trong công cuộc giành lại con tàu Parki khỏi những kẻ chiếm giữ xảo quyệt. Dẫu vậy, điều tối cần thiết là phải biết khôn ngoan phục tùng, phải được bảo ban dứt khoát một lần rằng dù trong gia đình là kẻ nổi loạn thì nàng phải theo lối hàng hải mà vâng. Bởi lẽ ngoài khơi với một người Calmuc trên tàu, chuyện này gần như là bất khả. Trong hầu hết các đơn vị hải quân, xét theo luật thì những chuyện này bị cấm; không một sĩ quan nào được phép đưa nàng Pandora của mình và chiếc hộp leng keng của nàng lên tàu.
Sẵn tiện, cũng chính cái danh từ này, Pandora, cũng từng được đặt cho tàu. Có một con tàu của Anh mang tên ấy từng được phái đi truy lùng đám phản loạn trên tàu Bounty. Nhưng bất kỳ thủy thủ già dặn nào cũng tiên tri được định mệnh của nó. Trong chuyến tàu về, nó đã bị đánh đắm do một rặng san hô ngoài khơi New South Wales. Pandora đấy! Đem đặt tên cho tàu thì đẹp lắm, cứ là vả vào mặt Định Mệnh. Nhưng về chuyện đặt tên thánh cho các con tàu quân sự, các quốc gia Ki-tô giáo lại quá nghiêng về phía những cái tên chẳng ngán ma quỷ nào. Bằng chứng là các tàu sau: toàn tàu Anh: Tàu Chinh Phục, tàu Thách Thức, tàu Phục Thù, tàu Khẩu Pháo, tàu Chiến Hạm, tàu Thần Sấm, tàu Cự Đại; không quên tàu Đèn Cồn, mà trên Đường Đi Corfu bị sét đánh, suýt nữa thì bị lửa trời thiêu rụi. Nhưng chỉ thua mỗi cây gậy của Moses, cây cột thu lôi của Franklin đã chứng minh sự cứu rỗi của con tàu.
Với ca-ta-lô trên, ta so sánh với những tàu Pháp, sặc mùi ý chí Nam Nhi: Tàu Số Phận, tàu Vinh Quang, tàu Cao Thượng, tàu Toàn Thịnh, tàu Chinh Phục, tàu Khải Hoàn, tàu Bất Khuất, tàu Vô Úy, tàu Mont-Blanc. Sau cùng là tàu Dons; những người đã lục lọi thần học của tôn giáo hòa bình để tìm những tên hay đặt cho các tàu chiến của họ; đến mức không ngần ngại gọi một chiếc tàu ba boong(3) của mình là Tam Vị Chí Thánh. Nhưng tại mũi Trafalgar, dù Tam Vị Chí Thánh có nổi rền như sấm núi Sinai thì những hồi sấm của nó cũng bị loạt súng thần công của tàu Chiến Thắng làm cho im bặt.
Và ngay cả khi không bị pháo địch thổi tung thành mảnh vụn, bao nhiêu con tàu Đáng Gờm và Bất Bại đã chịu thua những con sóng, và như những kẻ khoác lác xẹp xìu trước giông bão, với những vẻ yêng hùng hướng mạn phải 45 độ.
Tên các tàu Mỹ thì hay hơn nhiều (không tính các tàu Bò Cạp, Ong Bầu, và Vò Vẽ), như Ohio, Virginia, Carolina, Vermont. Và nếu những tàu Yankees này mà đánh trận ngoài đại dương - lạy Trời xin đừng xảy ra! - thì xét riêng về mặt thi ca, quả là vẻ vang nếu cho cả hạm đội liên bang xếp thành hàng, và tuôn một loạt đạn pháo từ Florida đến Maine. Phải, phải, thật là vẻ vang! Nhưng trong lượt đại bác gáy lên kiêu hãnh ấy, vong hồn William Penn yêu hòa bình hẳn sẽ bàng hoàng biết bao khi thấy tên mình bị gán cho kẻ sát nhân vĩ đại nhất: chiến hạm Pennsylvania. Thực vậy, pháo tàu Pennsylvania phải là thứ pháo gỗ, loại mà dân thủy thủ tàu chiến gọi là pháo Quaker(4).
Nhưng tất cả những điều trên chỉ là một màn chen ngang, chồng chất những đoạn rẽ ngang. Đã đến lúc quay mũi tàu trở lại.
Bây giờ, khi được về đúng chỗ, tôi quên nhắc, rằng ngay sau khi hạ xuống từ giàn dây neo buồm và trong khi Samoa còn đang thuật lại các cuộc phiêu lưu của chàng, thì phu nhân Annatoo đã lẻn xuống khoang mũi để kiểm tra lại đồ đạc. Và khi thấy chúng bị lục tung lên cả, mụ trở lại boong tàu với vẻ mặt cực kỳ kích động, liếc nhìn giận dữ về phía Jarl và tôi, trút cả một dòng mắng nhiếc vào cả hai lỗ nhĩ Samoa.
Sự xem thường sự hiện diện của tôi khiến tôi khá ngạc nhiên lúc đầu; nhưng có lẽ phụ nữ ít bị ấn tượng bởi vẻ đạo mạo tự phụ như đàn ông.
Mà, như cách nói của lính trận: không gì hiệu quả bằng nhảy lên tàu địch giữa làn khói. Thế nên, ngay khi thấy dấu hiệu đầu tiên của bản tính hung hăng ở Annatoo, tôi liền nhân dịp này - xin nàng bỏ qua cho - cho nàng hiểu rằng chẳng có thứ gì, ngay cả con tàu này, là của nàng, và rằng mọi thứ đều thuộc về các chủ tàu ở Lahina. Tôi còn thêm rằng dù thế nào đi nữa, mấy trò ăn cắp vặt của nàng phải thôi đi. Với phụ nữ nói thế là rót lời thô lỗ vào tai; nhưng biết tránh làm sao? Đấy là một người phụ nữ ngu muội, người mà, theo Samoa, cứ luôn bị bắt tại trận đang cố rút những con vít nối các tấm ván lại với nhau. Vậy xin cho tôi biết: có phải nàng ta còn tệ hơn cả Đá Nam Châm, không? cái thứ đá chỉ cần tàu lướt qua cũng khiến từng mảnh ghép vỡ tan, con tàu rã rời ngay giữa biển.
Suốt cảnh ấy, Samoa nói chẳng bao nhiêu. Biết đâu chàng thầm đắc ý rằng quyền lực hôn nhân của chàng đã được củng cố nhờ tôi và ông Viking, những người có các quan điểm về vị trí phù hợp của người vợ trên biển quá tương hợp với quan điểm của chàng; dẫu đưa vào thực tiễn còn khó khăn, những suy nghĩ thuần lý thuyết của chàng giờ đã được công nhận.
Ta trở lại với Annatoo lần nữa, bấy giờ nhìn gì cũng ra ngoại trừ nhã nhặn, tôi nhận thấy, rằng hết thảy những la hét của nàng sẽ vô ích và rằng nếu có xảy ra chuyện tồi tệ nhất thì thân tàu Parki luôn có đủ chỗ cho nàng.
Cuối cùng nàng bùng lên một cơn uất hận, ngồi xuống trên tời và trừng mắt nhìn, hai tay chống nạnh và làm mình làm mẩy, cùng lúc thỉnh thoảng kêu một bài buồn thảm. Nghe như tiếng gọi hồn hai tên Cholo sống dậy và giải quyết chúng tôi.
Khương Anh dịch
- Xà mũi tàu là một cái xà để giăng các buồm tam giác, nhô hẳn ra bên ngoài thân tàu.
- Chiếc thuyền Dê Biển
- Nguyên văn three-deckers những tàu chiến có súng ở cả ba boong.
- Trên tàu chiến, Quaker thường là những họng súng giả được làm bằng gỗ.
Melville
Mardi (1849)
(kỳ 1)
(kỳ 2)
(kỳ 3)
(kỳ 4)
(kỳ 5)
(kỳ 6)
Jacket trắng (1850)
Người 'Gee (1853)
Người kéo vĩ cầm (1854)
Jimmy Rose (1855)
Ngắn (1855-1856)
Cúc-cà-cúc-cu (1856)
Tôi và ống khói của tôi (1856)
Nước Mỹ ấy
Hawthorne (1804–1864)
Edgar Allan Poe (1809–1849)
Thoreau (1817–1862)
Melville (1819–1891)
William James (1842–1910)
Henry James (1843–1916)
Edith Wharton (1862–1937)
Gertrude Stein (1874–1946)
Ezra Pound (1885–1972)
Philip Roth (1933 –2018)
Marilynne Robinson (1943)