Melville: Mardi (kỳ 29)
CHƯƠNG XCI
VỀ VUA UHIA VÀ THẦN DÂN CỦA ÔNG
Xét về phần đức vua, cuộc sống của Uhia vô cùng sung túc. Mái nhà ông rộng rãi. Bên dưới nó là một trăm kẻ hầu đêm đêm tựa đầu. Nhưng đã từ rất lâu, ông đã cho các phụ nữ của mình được giải tán.
Bật khỏi cái ôm mê đắm — “Họ sẽ chẳng còn làm ta suy yếu và đục khoét ta nữa” ông kêu lên “số phận ta đã ra lệnh cho ta. Ta sẽ khoác lên mình cái khí chất nam tử. Nhân danh thần Keevi! ta sẽ không ôm siết một tấm lưng ong nào nữa.”
“Từ lúc ấy trở đi,” Râu Bím nói, “chàng trai trẻ Uhia lớn lên như cụm đỉnh một cây Cọ Dừa; bắp đùi của chàng rắn chắc như cành Đa; tay chàng to khỏe như xương sống cá mập; phải, giọng chàng sang sảng như vỏ ốc xà cừ.
Và khi ấy chàng đã dốc trọn lòng mình hầu thực hiện số mệnh được cho là của chàng. Chẳng khác gì là dùng vũ lực mà dời Ohonoo đến trung tâm đầm phá, để ứng nghiệm lời tiên tri xưa — “Một hòn đảo sẽ cất khỏi nền của nó và ngự giữa mặt nước lặng, rồi người cai trị hòn đảo ấy sẽ trở thành người cai trị khắp Mardi.”
Công việc quả là khó khăn, nhưng phần thưởng mới thật vinh quanh làm sao! Thế là cứ vậy mà làm, và toàn thể Ohonoo đều giúp sức cho vua. Nhưng không phải là bỏ công ra giúp, mà là bỏ sức ra mời các pháp sư. Thế mà cho đến lúc này, mọi sự vẫn chẳng mang lại kết quả. Nhưng vua Uhia thì nuôi hy vọng lắm.
Lúc bấy giờ, khi biết được hết thảy việc này, Babbalanja nói với Media, “Thưa chúa tể, nếu như việc kiên trì mong mỏi điều gì lớn lao hơn, mà tốt hơn việc chấp nhận những thứ ở hiện tại; thì, điều này nghe quả là ngông cuồng, niềm tin ấy của Uhia, ngài ấy nên ấp ủ nó trong lòng, như ấp ủ mấy người vợ trước đây của ngài ấy. Nhưng thưa chúa tể, niềm tin này, nó cướp mất những ngày bình an của ngài ấy; những đêm của sự vô tư ngọt ngào của ngài ấy. Vì khi định sẵn cho mình cái quyền thống trị toàn bộ Quần Đảo, ngài ấy quở trách các vị thần là những kẻ tụt hậu, và nguyền rủa chính mình vì bị tước đoạt các quyền của mình; nói cho đúng, vì đã bị giật khỏi tay, cái thứ mà ngài ấy chưa bao giờ có. Nỗi bất mãn khiến cho chân trời của ngài ấy trở nên còi cọc đến khi nào ngài ấy phải dụng tay mà trải rộng nó ra. ‘Kẻ khốn khổ nhất trong số các á thần,’ ngài ấy kêu lên, ‘ta đây đã bị nhốt lồng ở cái nơi cù lao nhỏ bé tầm thường này, chỉ có một trăm lý nhân năm mươi, trong khi những khoảng đế chế rộng lớn chẳng có ta làm chúa tể.’ Thế mà chính Uhia lại bị ganh tị. ‘A!’ Karrolono kêu lên, một người trong số các tộc trưởng, chủ nhân của một thung lũng bé nhỏ ấm cúng, ‘Ta đây chôn xác trong cái xà lim hèn mọn giữa những ngọn núi này, trong khi Vua Uhia kia là chúa tể của cả một hòn đảo, lẫn từng khối chất ở đó.’ Thế nhưng chính Karrrolono cũng bị ganh tị. ‘Khó khăn thay, ôi cái số phận nghèo xác nghèo xơ của tôi,’ Donno kêu lên, một người trong số các lão bộc của ông kia. ‘Tôi đây bị cắm chặt và cầm tù ở đồn điền thấp hèn này, trong khi Karrolono chúa tể tôi có trọn cả một thung lũng, đi từ vách đá ra tới biển những mười ngày đường.’ Nhưng cả Donna cũng bị ganh tị. ‘Than ôi, số phận đáng nguyền rủa!’ Flavona gia nhân của ông ta kêu lên. ‘Tôi đây phải lê bước, đổ mồ hôi, và lao động suốt ngày, trong khi Donna chủ tôi chẳng làm gì ngoài ra lệnh.’ Nhưng những người khác ganh tị với Flavona; và những ai ganh tị với ông ấy cũng bị ganh tị suốt lượt; ngay cả Manta liệt giường tội nghiệp, người đang sắp chết vì thiếu thốn, rên rỉ rằng, ‘Tôi là một kẻ khốn nạn bị người đời ruồng bỏ! tôi đây mục rữa vô cùng thảm thương, trong khi những kẻ ăn mày thì nhởn nhơ vui sống!’ Nhưng chắc chắn, chẳng ai ganh tị với Manta! Phải; Uhia vĩ đại. ‘A!’ vua kêu lên. ‘Ta đây phật ý và đau khổ vì tham vọng; cả ngày lẫn đêm chẳng có được bình an; hai thái dương của ta đau nhức vì cái vương miện đáng nguyền rủa mà ta mang trên đầu; trong khi cái tên Manta hèn hạ ấy, hồn lìa khỏi xác mà chẳng ai quấy rầy.’”
Chúng tôi vô vọng lang thang lên xuống hòn đảo này, và soi kỹ vào những ngóc ngách tận cùng nhất của nó, nhưng chẳng thấy Yillah đâu.
CHƯƠNG XCII
THẦN KEEVI VÀ VÁCH NÚI MONDO
Một điểm thú vị ở Ohonoo chính là bức tượng nguyên bản của Keevi vị thần của các Kẻ Trộm; từ thời thượng cổ đã là vị thần giám hộ của hòn đảo này.
Miếu thờ của thần là một cái hốc tự nhiên trong một vách đá, được bao quanh giữa thung lũng Monlova. Và Keevi ngự nơi đây, với năm mắt, mười bàn tay, và ba đôi chân, được trang bị về mọi mặt cho thiên hướng mà thần nắm quyền điều khiển. Vóc dáng to lớn, các cánh tay của thần có nhiều bàn tay, mỗi ngón tay là một cánh tay, xoè ra theo cấp số nhân: lòng bàn tay hai lần năm, và các ngón tay lần năm mươi.
Theo tương truyền, thần Keevi rơi xuống từ một đám mây vàng, cắm mình trong đất xuống tận đùi, khiến đất đai chung quanh toác ra khắp cả. Có ba người phàm hay trầm ngâm, khi ấy đang rảo bước, đã thoát thân trong gang tấc.
Một câu chuyện tuyệt vời; nhưng chẳng ai trong số các lữ khách chúng tôi dám coi thường nó. Chẳng phải họ đã cho chúng tôi thấy đúng cái địa điểm nơi vị thần ấy rơi xuống sao? Chúng tôi đi xuống thung lũng, lúc này xanh tươi. Chẳng cần phải hỏi, chính Keevi cũng sẽ bảo đảm cho cái phép màu ấy là thực, nếu như thần đã chẳng may mà bị câm. Nhưng cho đến thời điểm này, lập luận vững vàng và sắc sảo nhất được đưa ra hầu nâng đỡ cho câu chuyện này, ấy là một ngọn giáo mà các thầy tế của Keei mang tới, để Babbalanja xem.
“Để tôi được nhìn nó kỹ hơn,” Babbalanja nói.
Phải khi xoay tới xoay lui và tò mò xem xét nó, “Ngọn giáo tuyệt vời,” ông kêu lên. “Chắc hẳn, thưa các vị, cũng chính ngọn giáo này hẳn phải thuyết phục được nhiều người không theo Quốc Giáo lắm!”
“Chẳng những thế, lại còn những người cứng đầu nhất,” họ đáp.
“Và sau đó tất cả đều được dẫn ra làm cứ liệu bổ sung cho tính xác thực của truyền thuyết này?”
“Hẳn rồi.”
Từ ngoài biển vào đến miếu thờ của vị thần này, thung lũng xinh tươi Monlova hướng lên với một độ dốc thoai thoải, hầu như không thể nhận ra; nhưng khi quay ngược về phía biển, ta sẽ lấy làm ngạc nhiên khi thấy mình được nâng lên cao khỏi bề mặt. Đi tiếp, và cũng chính cái sự nâng hướng lên êm ắng ấy phỉnh gạt bạn; và thung lũng đã chúm lại; và các vách đá ở hai bên thung hiện ra; đến khi sau cùng bạn đến một khu vực hẹp, được các vai núi che chắn. Bên kia, qua khe đá này, là cả một bầu trời xanh. Nếu các cơn Gió Mậu Dịch thổi mạnh, và bạn vô tình xuất hiện ngay tại điểm ấy, bạn sẽ tưởng rằng chính thần Keevi ấy đang đẩy bạn tới bằng các cánh tay của thần; luồng gió ấy quả thật quá mạnh thổi xốc qua hẻm núi cao này. Nhưng chớ chống đối với cơn lốc cuốn bạn đi; dong tiếp; nhưng nhẹ nhàng; trông xuống; đất tách ra thành một con dốc đứng cao một ngàn bộ, ngay ở đồng bằng bên dưới. Cái vách núi ấy quá sâu và đột ngột, đến độ bạn như nhìn xuống từ một thế giới này sang một thế giới khác. Vào một ngày nắng, mơ màng, vùng đồng bằng trang kim bên dưới mang một vẻ phù du bất định. Nếu bạn là một sợi dây dọi ngoài biển, thì bạn suýt nữa là muốn lao xuống mà đo làn sương biển dưới chân mình.
Đây, hỡi phàm nhân! là vách núi của Mondo.
Từ trên miệng vực ấy, tay cầm giáo, năm chục chiến binh nổi loạn bật lên trên, bị cuốn vào thung lũng bởi một quyền năng trổi vượt. Chẳng thấy chỗ phòng thân, họ nhảy một cú trí mạng với một tiếng hét dữ dằn.
Mohi nói, “Linh hồn của họ bay lên, trước khi cơ thể họ được chạm vào.”
Sự kiện bi kịch ấy xảy ra trong nhiều thế hệ đã qua, và bây giờ là một lối quanh co, chóng mặt để dẫn một người, bước chân vững vàng, từ bờ vực về đồng bằng. Thế nhưng chẳng có ai từng lên đấy cả. Quả thực, quá nguy hiểm, con dốc ấy, đến mức những người dân đảo chẳng ai dám liều mạng bỏ công, mà không khẩn cầu xin cho được thần linh giúp đỡ. Bên sườn vách đá, dưới những tảng đá cheo leo, ngự các vị thần bản mệnh của Mondo; và trên các bàn thờ trước họ, có đặt các lễ vật cầu an của lữ khách.
Về phía bên phải miệng vực, và ở đằng xa, một gờ đá hẹp nhô ra. Để thử thách tính hợp pháp của các quốc vương Ohonoo, đó là họ đứng ở đấy, khoanh tay, và các ngọn lao phóng tới.
Và thời trai trẻ Uhia đã đứng ngay miệng vực ấy.
“Lúc ấy cảm thấy thế nào, hỡi người anh em?” Media hỏi.
“Như một vị Vua của Ohonoo,” ông đáp. “Cũng như ta sẽ lại cảm thấy điều này một lần nữa, khi là Vua của toàn thể Mardi.”
CHƯƠNG XCIII
BABBALANJA NGẮT LỜI MOHI VÀ YOOMY; VÀ YOOMY THUẬT LẠI MỘT TRUYỀN THUYẾT
Lên xuồng từ Ohonoo, cuối cùng chúng tôi cũng thấy mình lướt qua những hải ngạn xinh đẹp của Tupia, mà theo lời Râu Bím, là một cù lao mà từ xưa đến nay không người sinh sống. Thấy nhiều người tò mò muốn biết thêm về cù lao, Mohi đang khi toan giở bộ sử biên niên của ông, thì, với lòng khiêm nhường, thi sĩ Yoomy xen vào; nói rằng nếu như Chúa Tể Media cho phép, thì xin để chàng đây được thuật lại truyền thuyết này. Bởi xét về bản chất của nó, nhận thấy điểm tương đồng trong lĩnh vực của chàng với vai trò là một nhà thơ; tuy rằng, cho đến nay, vẫn chưa được phổ thành thơ. Nhưng chàng còn nói thêm, rằng những vỏ trai ngọc đích thật vẫn phát ra tiếng reo du dương, tuy rằng còn chưa được xỏ qua dây.
Trước sự can thiệp cả gan ấy, Mohi tỏ vẻ khó chịu vô cùng; rồi bực dọc vuốt râu, thốt ra điều gì đó ác ý về đám nhà thơ xoàng, non nớt, sáo rỗng, toàn những tưởng tượng ngớ ngẩn mà lại đi kể một câu chuyện đơn giản.
Để đáp lại, Yoomy nói, chỉnh lại chiếc khăn xếp của chàng, “Già Mohi, chúng ta đừng có xích mích với nhau. Tôi tôn trọng công trình của ông; thế nhưng, xin lấy làm kính nể mà nói rằng, bộ sử biên niên của ông còn hoang đường hơn mấy khổ thơ của tôi. Tôi thích những hình tượng thuần tuý của riêng tôi; chúng mang một sự cân đối và thống nhất, dẫu không có thật; còn ông, Râu Bím, lại thích những thứ có thật sứt sẹo nham nhở. Trong tất cả các chương sách của ông, chính bản thân ông dò dẫm trong bóng tối. Sự thật nhiều thứ ở trong ông chẳng có, thưa ông sử gia. Thêm nữa, Mohi: những bài ca của tôi lưu giữ được nhiều thứ mà các kinh sư thông thái như ông đây hoàn toàn bỏ qua. Chẳng phải ông thường tìm đến tôi, cũng như những khúc nhạc ướt sương của tôi để lấy thông tin, mà ông và bộ sử biên niên cũ kỹ ẩm mốc của ông còn thiếu hay sao? Có nhiều thứ quý báu, Mohi, mà các nhà thơ chúng tôi mới là sử gia đích thực; chúng tôi ướp thơm; còn ông mục ruỗng.”
Nghe vậy, Mohi, giận dữ đôi chút, đã toan đưa ra câu trả lời, thì, hất một nếp áo mới qua vai, Babbalanja đã nói thế này: “Hòa bình, hỡi các đối thủ. Như Bardianna có nói, giống như hết thảy những ai tranh cãi về luận cứ của chính mình, mỗi người các bạn ở gần cái đúng nhất, khi bạn nói về về người kia; và xa với cái đúng nhất, khi bạn nói về chính mình.”
Mohi và Yoomy đều đáp lời một lượt, “Ai mời ông nêu ý kiến, ông triết gia? ông thó từ cái lão Bardinna, rồi đi làm lái buôn ba cái châm ngôn ấy!”
“Ông đấy, đã quen với thói hư tật xấu của Mardi này lâu quá rồi, đến độ ông tự xu nịnh lấy mình chứ ông chẳng có gì là của riêng ông cả,” Râu Bím thêm vào.
“Ông đấy, có vẻ khôn ngoan chẳng qua là vì đi ngược với những cái ngu của kẻ khác, chứ bản thân ông chẳng có khôn ngoan nào lớn lao cả,” anh thi sĩ tiếp tục, với vẻ cộc cằn hiếm thấy.
“Thế là bây giờ,” Babbalanja nói, “tôi bị một con cừu đực già có râu, và một con cừu non xông vào tấn công. Một con đang húc bằng cái trán vừa mục vừa giòn; con kia đang thúc bằng cái đầu ngu ngốc của nó trước khi mấy cái sừng kịp mọc ra. Nhưng điều này xảy ra là vì tôi chẳng thiên vị ai cả. Nếu tôi có tán thành nguyên nhân để Yoomy chống Mohi, hay nguyên nhân của Mohi chống Yoomy, thì tôi chắc chắn đã có ít nhất là một tiếng nói về phe mình. Những người không thiên vị lăng mạ hết thảy các bên, như Bardianna xưa đã phán; nhưng một tay thì để đánh, và còn tay kia thì để được hôn. — Ôi Bardianna vô song!”
“Sẽ chẳng có ai xua đuổi được cái vong hồn già nua phiền phức kia đâu,” Media thốt lên, một cách tôn kính. “Bắt đầu truyền thuyết của ngươi đi, Yoomy; và nhớ, rằng ngắn gọn thôi; vì ta nghi rằng, các truyền thuyết ấy chỉ thử thách sự kiên nhân của người nghe mà thôi. Nhưng hãy hít một hơi đầy lồng ngực, và bắt đầu.”
“Để còn có sức mà thổi phồng,” Mohi lẩm bẩm.
Và Yoomy bắt đầu.
“Khi ấy khoảng một trăm vạn kỳ trăng —”
“Lạy thần Oro vĩ đại! Anh nói bao lâu từ khi ấy?” Mohi kêu lên, chân mày nhướng thành vòm Gothic.
Nhìn ông với vẻ khinh khỉnh, nhưng chẳng hạ cố đáp một lời, Yoomy bắt đầu lại.
“Khi ấy khoảng một trăm vạn kỳ trăng, từ khi người cuối cùng của chủng tộc phi thường ấy chết đi, từng sống ở các hải ngạn mà chúng ta đang đi qua. Họ là những người rất nhỏ nhắn, chỉ cao vài tấc —”
“Ngưng, anh thi sĩ,” Mohi kêu lên; “mấy người này nặng bao nhiêu?”
Yoomy tiếp tục, không thèm quan tâm, “Họ được phủ khắp người bằng một lớp lông tơ mềm, mướt, như của trên biểu bì Avee; và mọc trên đầu họ một loại dây leo xanh, lá hình cây lao, có kết cấu tinh vi bậc nhất. Để thuận tiện, những người lùn đã rút bớt các tua quấn của họ, chẳng diện gì ngoài những vòng hoa đội đầu. Trong khi đó, lấy làm tự hào về sự dư thừa bím tóc của mình, các trinh nữ nhỏ bé chuyên cần tưới cho chúng bằng giọt sương sớm; để tất cả đều được kết vòng và kết tràng bằng cây xanh, họ di chuyển trong các vòm lá, những dây leo lê bước theo họ.”
“Tôi không thể nghe được nữa,” Mohi thốt lên, bịt tai.
Yoomy tiếp, “Các thiếu nữ lùa vào các buồng cây, một loài chim ăn côn trùng lông đỏ nào đó, và dạy chúng làm tổ ở đó, và hót líu lo; mà, cùng với sự rung động dễ chịu của lá cây, khi các trinh nữ di chuyển, tạo ra những âm thanh du dương, ngọt ngào. Các trinh nữ nhỏ bé chẳng ôm bằng tay, nhưng là bằng những lọn tóc dây leo của mình; tua quấn của họ cứ theo bản năng mà quấn khắp những người tình của mình, đến khi cả hai đều chìm đắm nơi buồng cây.”
“Và rồi sao nữa?” Mohi hỏi, người mà, bất chấp ngón tay bít lỗ tai, chẳng biết đã xoay xở mà nghe thế nào; “Rồi sao nữa?”
Chẳng hạ cố đáp một lời, Yoomy tiếp tục.
“Vào một độ tuổi nhất định, trong khi các trinh nữ vẫn còn rất trẻ, các dây leo của họ ra hoa. A! dấu hiệu chí tử. Bởi ngay khi họ trổ hoa, các trinh nữ chết ngay trong buồng cây của mình; và được chôn trong các thung lũng; và các dây leo của họ lan ra ngoài; và những bông hoa nở rộ; thế mà chính các trinh nữ ấy thì chẳng còn nữa. Và khi ấy coi thường mặt đất, các dây leo đâm nhánh hướng lên trên: leo đến những cành cây cao nhất; và nở hoa dưới ánh mặt trời vĩnh hằng và bất tuyệt.”
Yoomy tới đây dừng lại một chốc; nhưng đã nhanh chóng tiếp tục:
“Những đôi mắt nhỏ nhắn của người dân Tupia nhìn rất lạ thường: đầy những sao, tỏa sáng từ bên trong, như chòm Thất Tinh, tận sâu giữa lòng biển xanh. Và những ngôi sao ấy, chúng chẳng chịu được ánh mặt trời; và ngủ cả ngày, người dân Tupia chỉ ra ngoài vào ban đêm. Nhưng chủ yếu là vào lúc trăng tròn, lúc ấy họ mới có tinh thần nhất.
“Thế rồi những người lùn nhỏ nhắn ấy sẽ lặn sâu xuống lòng đại dương, và lang thang ở các rừng san hô, làm tình với những nàng tiêng cá. Hoặc, vội vã khắp nơi, làm nên một đêm vui vẻ điên cuồng với những con nhím biển: — vặt râu những con cá dê đáng kính; chơi khúc serenade cho những con rùa ở trong mai; khiến cho những cây tầm ma biển phải lo lắng; hoặc hành hạ những con cá đuối điện hay dỗi bằng những trò hề của họ. Đôi lúc họ còn đi tọc mạch với những con sao biển, có mắt ở đầu mỗi cánh sao; và thường những chiếc dũa san hô trong tay mà họ rình những chú cá kiếm đang say ngủ, ranh mãnh mài mòn vũ khí của chúng. Tóm lại, những người lùn nhỏ nhắn gan lì này thích biển đến say mê, đã lấy sóng và gió mà thề nguyền, rằng sớm muộn gì họ cũng từ đó mà ra khơi trong những vỏ ốc anh vũ, và dành phần còn lại trong những ngày rong ruổi hàng ngàn tấc cách Tupia. Quả đúng thay, họ là những kẻ phóng đãng nhỏ bé không biết xấu hổ. Thường thì họ sẽ trở về bên người yêu của mình, diện những thắt lưng tảo biển thơm như xạ, bắt tua bằng những túi cỏ xanh nhỏ nhắn, đầy ắp những hạt trai nhỏ; và xủng xoẻng đồng xu của họ vào tai các nàng thiếu nữ, tung ra những bóng gió về những nàng tiên cá xinh đẹp và rộng rãi: họ giàu có và si tình cỡ nào, và họ thích thú được bầu bạn với những chàng trai bảnh bao can đảm của Tupia này biết bao. A! thứ tay anh hùng rơm nhẫn tâm, các nàng tiên nhỏ tội nghiệp ấy đã khóc than biết chừng nào. Họ tiến sâu vào buồng cây của mình; và những trái tim nhỏ bé của họ nở bung như những nụ hồng, và rót vào trong toàn bộ không khí một nỗi đau khổ hương hoa. Nhưng những khi người tình của họ dịu dàng và chân thành, chẳng trinh nữ nào hạnh phúc hơn lại năng lui tới những đóa huệ tây như họ. Bằng một phương pháp huyền bí nào đó họ đã làm nên những quả cầu ánh sáng bé nhỏ: những giọt hay dỗi, hay đổi ý, khó chiều; và bằng những quả cầu ấy, tung và hứng, họ chơi trong những rừng cây. Hoặc khi có hướng tinh nghịch, họ vất vả cả đêm dài để tết ánh trăng lại với nhau, và quấn đuôi sam ấy lên một cành cây; để khi đêm về, hành tinh tội nghiệp kia có khối việc phải làm.”
Đến đây Yoomy một lần nữa ngưng tiếng.
“Anh ngừng để khi tiếp tục thì có chuyện để bịa chứ gì?” ông già Mohi nói, hếch cằm, tới mức râu ông ngang với đường chân trời.
Yoomy trở lại câu chuyện.
“Chỉ thêm chút nữa không hơn, thưa các quý ông, là phần còn lại của truyền thuyết này; duy chỉ có điều cần phải đề cập, rằng những người nhỏ bé ấy rất biết tô điểm bản thân; những người lùn đeo đai lưng làm từ những lá hương, và vòng cổ là những hạt thơm; và những thiếu nữ nhỏ nhắn, chưa hài lòng với những dây leo, và sự xanh tươi của mình, diện những hạt ngọc trai bên tai; và những lắc tay từ răng cá heo con; thường nhảy nhót với bạn tình của mình trong những trảng cỏ sáng trăng, điệu đà xòe quạt cho mình những lớp cánh trong suốt của loài cá chuồn.”
“Giờ, tôi khẩn nài với ngài, Media hoàng gia; với ngài, Taji cao quý; với ông Babbalanja;” sử biên niên gia nói, với một cử chỉ gây ấn tượng, “dẫu câu chuyện này nghe có như là một lịch sử đáng tin: nhưng Yoomy đã bịa ra đấy.”
“Nhưng, già Mohi có khi anh chàng cũng đã giải trí cho cả đoàn,” Babbalanja nói.
“Người này đã chẳng nói sự thật,” sử biên niên gia khăng khăng.
“Mohi,” Babbalanja nói, “sự thật nằm ở trong sự vật, chứ chẳng trong ngôn từ: sự thật thì không có tiếng nói; ít nhất là Bardianna xưa đã nói thế. Và tôi, Babbalanja, xin khẳng định, rằng thứ mà tục gọi là những truyện hư cấu thì cũng nhiều sự thật như cái cuốc chim thô của Dididi, người đào các hầm hào; vì những vật nhìn thấy được chỉ là những hình ảnh của con mắt: với các vật tưởng tượng, thì hình ảnh của huyễn tưởng. Nếu bị lừa bởi thứ này, thì ta cũng bị lừa bởi thứ kia như nhau.”
“Rõ ràng như nước biển này vậy,” Yoomy nói.
“Mờ đục như cái mái chèo này,” Mohi nói, “Nhưng, tiếp đi, nhà tiên tri ông đây, nếu như mọi sự đều gây đánh lừa, thì hãy nói cho chúng tôi biết đâu mới là thật?”
“Câu hỏi cũ mèm; chẳng phải người ta đã hỏi câu ấy ngay từ thuở khai thiên lập địa hay sao? Nhưng đừng hỏi nữa. Như Bardianna xưa có nói, rằng câu hỏi thì còn sau cùng hơn cả bất kỳ câu trả lời nào.”
Khương Anh dịch


