Melville: Mardi (kỳ 27)
CHƯƠNG LXXXV
SAU BỮA CHIỀU
Như trong những giấc mơ ta lại trông thấy mi, Willamilla! như trong những giấc mơ, một lần nữa ta lại tản bộ qua những rừng cây mát bóng của mi, ôi những thung lũng đẹp nhất của Mardi! cái ý nghĩ về cuộc tiệc tùng vui vẻ điên cuồng ấy xâm chiếm tâm hồn tôi đến khi tôi ngất đi.
Nằm sóng soài khắp nơi trên những khúc xương của cha ông Donjalolo, các bacchus hoàng gia say sưa tới tận trưa.
“Đâu mới là kẻ chết hơn cả?” Babbalanja nói, trộm nhìn vào trong, “các vua còn sống, hay những vua đã chết?”
Nhưng các vua sống thì như những bông hoa rũ đang ra sức hồi tỉnh nhờ rẫy nước. Thi thoảng có những người hầu cần mẫn đi qua đi lại, rắc lên đầu họ cái chất thơm trong bình.
Cuối cùng, từng người một, hăm lăm vua cầm lấy những món tóc xoăn thơm hương; và giũ sương khỏi đó, như những con đại bàng mở những con mắt hoàng gia chính phép, và nở những lỗ mũi đại bàng của chúng, đầy trọn những tia nắng mặt trời vàng.
Nhưng sao chàng lại vắng mặt, Donjololo? Liệu chàng đã theo lối kỵ sĩ mà để các vua này tự mình sống sót qua buổi yến tiệc? Nhưng hành động bất nhã hiển nhiên ấy đã sớm được những người đưa tin đến thanh minh, thông báo với các quý bệ hạ đang nằm sóng soài, rằng bởi sự quan tâm lo lắng của các nô lệ của vua, vị chúa tể của họ, đức vua, đã được đưa vào hậu cung, và xin được một mình đến đấy. Nhưng để bù lại, trên kiệu của mình, Donjalolo thậm chí lúc này còn đang tiến gần. Song chẳng phải, là được say sưa một lần nữa; nhưng là lịch thiệp để được an giấc cùng các vị khách quý của chàng; vì, hết thảy bọn họ đã cùng nhau lên tận chín tầng trời, thì hết thảy bọn họ cũng phải cùng nhau nằm xuống ngủ thật sâu.
Thế là họ lao vào: mỗi vua với những khúc xương của mình, và say giấc nồng như những anh hùng đến lúc tối trời; tới khi, họ tranh thủ ánh trăng mát đang đến gần, thì các vị khách quý hoàng gia mới từ biệt gia chủ; và cho gọi những kẻ hầu người hạ của họ đến, rời khỏi thung.
Sớm ngày hôm sau, khi đã quyết khởi hành bằng xuồng của mình, chúng tôi tiến đến Nhà Buổi Sáng, để chào tạm biệt Donjalolo.
Chỉ mới một đêm tĩnh mịch mà đã có sự thay đổi kinh ngạc vô cùng! Tái nhợt và lừ đừ, chúng tôi thấy chàng đang nằm: một tay để trên hai thái dương giần giật.
Sát bên một chiếc thuyền rượu bị lật, là chiếc đai lưng hoàng gia nằm ngổn ngang dưới chân. Chàng vẫy tay cho những người hầu hoảng sợ ra ngoài, những người này cúi mình lui khuất mắt.
Chúng tôi lại gần.
“Ngài bỏ ta sao? Chưa bao lâu mà ngài đã chán ngấy dự những tiệc tùng ta dọn, những thứ mà, đối với ngài, chỉ là những sự kiện hoang đàng trong một chuỗi thêm vào những trò giải trí tĩnh lặng mà thôi. Nhưng đừng để ý đến ta làm gì, Media; — Ta điên rồi. Hỡi các vị thần! Liệu ta mãi mãi là một tù nhân sao? — Phải, hơi đức vua tự do của Odo, khi ngài lên đường, đã hạ cố ghé thăm kẻ nô lệ đáng thương ở chốn Willamilla này. Ta xin xem chúng, các cuộc ghé thăm của ngài, chỉ là lòng thương hại mà thôi; và sẽ đành phải lôi kéo ngài bằng của ăn thức uống xa hoa. Xin hãy đi đi, cứ để mặc ta; đi đi, và hãy lại lang thang khắp Mardi tươi thắm. Còn ta, ta ở đây đến mãi mãi muôn đời. — Nô lệ đâu, mang rượu cho ta! nhanh! để ta được nâng cốc với các vị khách quý cho hợp tình hợp lý. Than ôi, Media, ở đáy cốc này chẳng lấp lánh được như ở miệng cốc. Ôi, người bạn dối trá, dối trá! đầy những nụ cười và dao găm. Song, với kẻ như ta, hỡi rượu, mi thậm chí chỉ là một cái trụ chống, dẫu rằng trụ ấy đâm xuyên qua cả mạn sườn; bởi, phận con người là phải ngả nghiêng. Thứ rượu mi đây là bạn của những kẻ không bạn, ấy vậy lại là kẻ thù của hết thảy mọi người. Vua Media, nào ta cùng uống. Thêm cốc! — Và giờ thì, tạm biệt.
Lui bước, chàng ngoảnh mặt đi; và chúng tôi lặng lẽ rời cung điện.
CHƯƠNG LXXXVI
VỀ MẤY TÊN NHÃI RANH PLUJII
Khi đã đến bờ biển, chúng tôi lên xuồng.
Ngay khi đoàn chúng tôi được hồi phục khỏi cảnh nghiêm túc mà chúng tôi bị đưa vào; phải khi ấy là một khoảng còn xa trước mặt, thì chúng tôi tranh thủ thời gian, được chừng nào tốt chừng ấy.
Trong số các câu chuyện giải trí, ông già Râu Bím, chân bắt chéo và tay vuốt râu, thết đãi chúng tôi một chuyện có liên quan đến các linh hồn vô hình, gọi là Plujii, những đại ranh con mãi nuốt ực bóng trăng.
Nghe đâu chúng sống ở đảo Quelquo, trong một xó xỉnh nọ nơi đầm phá; đáng buồn thay cho những con người vô tội trên đảo ấy đã phải chịu cảnh bực dọc và quấy rầy vì các nghi thức quỷ ma của chúng. Xin chớ lấy làm lạ; bởi, chúng sống trong gió, và hoàn toàn không thể động tới được, các linh hồn này rất giỏi khiêu khích cơn tức giận.
Plujii đáng ghét! Với ác tâm đã định từ trước, chúng mang tới những trận gió lớn phá tan các đồn điền chuối, và chạy lộn xộn trên mái những ngôi nhà tre của dân cư ở đó. Chúng đập bể những bầu rượu, làm chua món “poee”[1]; gây đau bụng; sinh ra u uất; và thiếu điều xé người ta ra làm đôi bằng cơn xóc hông. Tóm lại, hễ có tai hoạ nào, mà những người Dân Đảo chẳng thể trực tiếp quy nguyên nhân ấy cho các vị thần của họ, hay họ cho rằng nguyên nhân ấy không thể quy cho chính mình, — thì đấy phải để cho bọn Plujii vô hình lãnh tội hết thảy. Bằng những giấc mộng kinh hoàng, cùng những thứ muỗi khát máu, bọn chúng làm giặc trên những giấc ngủ vô tội nhất.
Bọn chúng làm cho tất cả mọi thứ ra rối loạn. Một người có một cái cổ nhăn nheo quy nó cho bọn Plujii; người kém trí nhớ oán trách bọn Plujii; và cậu bé, với ngón tay bị bầm, cũng nguyền rủa bọn linh hồn đáng tởm ấy.
Hoặc, với vài người, ít ra, cũng chẳng thiếu chứng cớ suy diễn cho chắc, rằng lắm phen, bằng những ngón tay vô hình, bọn Plujii được nhắc đến ở trên đã để dấu vết trực tiếp và rõ ràng về sự hiện diện của chúng; cấu và đập những người Dân Đảo xui xẻo; giật tóc họ; búng tai họ, và giật râu véo mũi họ. Và cứ thế luôn gây bực mình, hành hạ, tra tấn và chọc điên những nạn nhân bất lực của chúng, bọn Plujii lấy làm khoái chí với sự thống trị tác oai tác quái của chúng trên tâm hồn và thân xác người dân Quelquo.
Điều gì, đã xui khiến chúng làm gây ra những việc như vậy, thì chỉ có Oro mới biết; và dường như, chớ hề dù chỉ một lần, ông già Mohi ra sức tìm hiểu.
Ngày xửa ngày xưa, đang khi ghé thăm Quelquo, ông vô tình gặp một bà già suýt nữa là gập đôi người lại, cả hai tay bà đặt trên bụng; theo lối quẫn trí mà chạy ngược chạy xuôi.
“Này hỡi bà tốt lành,” ông bảo, “dưới gầm trời này bà bị làm sao thế bà?”
“Bọn Plujii! Bọn Plujii!” trìu mến xoa xoa hai phần bị bổ đôi của bà.
“Nhưng làm sao chúng nó hành hạ bà?” ông dịu dàng hỏi.
“Tôi biết thế nào được? mà nếu có biết thì tôi làm được gì?”
Và bà chạy tiếp.
Khi câu chuyện đến đây, Mohi bị Media cắt ngang; người mà, đã khiến mọi người có mặt ở đấy đều lấy làm ngạc nhiên vô cùng, đã nhận xét, rằng, ngươi (Râu Bím) không biết, rằng ta tình cờ cũng đang ở trên chính cái hòn đảo ấy, rằng vào ngay cái lúc ấy, đã thấy chính cái bà già ấy trong nỗi khốn khổ bụng dạ ấy.
“Cái chuyện bà ta thực sự đau khổ lắm,” ông tiếp tục nói, “nhìn vào đã thấy rành rành; thế nhưng trong trường hợp cá biệt này, cái chuyện Plujii của ngươi đã nhúng tay vào hành hạ bà, thì ta có đôi điều nghi ngờ. Vì, nghe rằng một hai tiếng trước bà ấy đã ăn khoảng hai chục trái chuối chưa chín, ta thiết nghĩ rằng trường hợp ấy ắt phải có liên quan đến nỗi đau của bà. Nhưng dù thế nào, thì trên đảo này sẽ chẳng có thầy lang nào mà chữa cho bà ấy khỏi cái quan niệm về vấn đề này.”
“Thưa không,” Râu Bím nói; “một cuộc khám nghiệm tử thi sẽ chẳng làm cho linh hồn bà ấy được vừa ý.”
“Kể cũng lạ,” ông tiếp, “những người ở đảo ấy chưa bao giờ lăng mạ bọn Plujii, bất kể mọi thứ họ đã phải luôn chịu đựng, trừ phi bị khiêu khích trực tiếp; và người ta thu xếp một vấn đề về niềm tin, rằng vào những lúc như vậy, thì mọi lời cay đắng và những nhiếc móc khinh suất được bỏ qua hoàn toàn, đúng ra, được miễn tội ngay tại chỗ, bởi các thần vô hình kẻ mà họ nhằm vào.”
“Plujii cao thượng!” Media kêu lên. “Nhưng, Babbalanja, liệu ngươi, người xông vào công kích mọi thứ, có để cho cái suy nghĩ ngớ ngẩn ấy được thốt ra mà không bị trừng phạt trước mặt ngươi chăng? Sao lại im lặng như vậy?
“Tôi đang nghĩ, thưa chúa tể,” Babbalanja nói, “rằng dẫu rằng người dân đảo này có thể đôi lúc sai phạm, khi đổ những tai họa của họ cho bọn Plujii, tuy nhiên, xét về mọi mặt, họ vẫn tin vào một thứ niềm tin hợp lý. Vì, dẫu có Plujii hay không Plujii, thì rõ ràng, theo một vạn cách, như thể thông qua một trung gian hiềm thù, các phàm nhân chúng ta bị quấy rầy và hành hạ đến thảm thương; và cả, rằng, xét về bản chất lại quá vặt vãnh, đến độ đấy tựa như là bất kính khi quy chúng cho các vị thần tối cao. Không thể được; phải có những linh hồn vô cùng hạ cấp; quá tầm thường, theo cách tương đối, đến mức bị các quyền lực siêu nhiên lờ đi; phải khi thông qua chúng, thì ta mới phải chịu phiền phức nghiêm trọng như vậy. Dẫu có ra sao, một lý thuyết như thế sẽ gây ra một sự thiếu sót trong hệ thống siêu hình học của tôi.”
“Vậy thì, yên ổn với bọn Plujii,” Media; “chúng chẳng gây phiền toái gì cho ta.”
CHƯƠNG LXXXVII
NORA-BAMMA
Chúng tôi tiếp tục dong buồm, qua nơi đầm phá lặng ngắt như tờ.
Hàng giờ trôi qua; và trọn vẹn trước chúng tôi, vừa tròn vừa xanh, một chiếc khăn xếp Hồi Giáo trôi lững lờ bên chúng tôi — Nora-Bamma, Đảo Gật.
Triều trưa cuộn sóng. Rung động không khí, và run rẩy. Và được ảo thị phủ một lớp sương mỏng thiên thanh, trôi giạt đó đây các vùng đất rực rỡ: những con thiên nga, khoác lông công, lướt trong không trung. Thiên đường đã xuống mặt đất; những đám mây trời hay các hải đảo thì thật khó mà phân biệt.
Và cao trong gió gật gù Nora-Bamma. Các đỉnh mọc thành cụm của nó gà gật như ba chùm lông đà điểu; những vách đá cheo leo của nó, những bông anh túc cúi đầu, những bóng nhập nhoạng, những hải ngạn liễu rũ, mọi thứ nơi đây đều gật gù; các dòng chảy của nó rì rầm chảy xuống đồi; những con sóng gợn lăn tăn của nó ru bờ cát.
Ai sống ở Nora-Bamma? Những người mơ mộng, những người bệnh tưởng, những người mộng du; những người, trốn chạy khỏi mối bận tâm lo lắng Mardi, trong những hương anh túc lả mình, tìm sự lãng quên khỏi quá khứ, và những ngây ngất sắp đến.
Mắt vẫn mở, họ vừa ngủ vừa mơ; trên những cây làm mái che đầu, những trái nho rụng chẳng ai hay. Ở Nora-Bamma, những lời thầm thì như những tiếng thét; và trong hơi gió thở, từ các vùng rừng những chiếc lá rung lên, như tiếng chim ruồi, một đàn vỗ cánh.
Toàn bộ điều ấy về hòn đảo đã được Râu Bím kể lại. Làm sao lại chưa hề có ai từng đặt chân lên bờ cát của nó, mà không phải dánh một giấc ngủ ngắn làm lễ cống dâng đảo này; làm sao những người từng đến đây, trong cuộc săn lùng những trái bầu vàng, trước khi hái được một trái cho mình, đã chóng rơi vào cơn mê ngủ; đến tận đêm về mới tỉnh; làm sao bạn lại phải dụi mắt cho thật kỹ, nếu bạn lang thang khắp hòn đảo này; và làm sao lại gặp những hồn ma bóng quế lặng lẽ, những rừng cây ám ảnh chập choạng, và những đồng cỏ mơ màng; lướt đến chỗ này, mờ dần chỗ kia, chẳng có điểm dừng chẳng có mục đích.
Thực hư, thế nào, ấy là quá mức với Nora-Bamma của Mohi.
Nhưng đang khi chúng tôi lênh đênh trên biển, trông thấy một nơi rất giống như được mô tả. Chúng tôi đã ngáp, và ngáp, cả đoàn xuồng đã ngáp; như trong những vùng biển Ấn Độ ấm áp, những lá buồm đập sàng của họ lá nào cũng rũ ngất, mỗi khi có một chiếc thuyền buôn thuốc phiện nào đó lướt ngay bên.
Khương Anh dịch
[1] Một món bánh làm từ trái cây hoặc khoai nghiền (xem Typee, chương X; và Omoo, chương LXVIII)