Melville: Mardi (kỳ 24)
CHƯƠNG LXXVI
MỘI CHỖ THOẢI MÁI ĐỂ NGHỈ NGƠI
Không biết có phải vì tình trạng khắc nghiệt trong chế độ quân chủ bên đây, vốn lẽ tự nhiên đòi hỏi một sự đền bù xa xỉ nào đó, mới khiến cho các quốc vương đảo Juam rất vui lòng mà tự nhốt mình như vậy; hay vì bị chôn sống bên trong thung lũng hẹp của mình, nên họ mới tìm cách tập trung ở đó một thế giới hưởng thụ bí mật nào đó hay chăng; nhưng dẫu có là gì, khắp Quần Đảo này truyền tai nhau câu tục ngữ — “Ăn sung mặc sướng như đế vương Willamilla.” Bằng cách này mà người ta ám chỉ đến sự xa hoa tột bậc của một cung điện.
Câu này rất chính xác; bởi lẽ trong hết thảy những nơi sáng sủa mà tâm hồn tôi thích nấn ná, những nơi mà Donjalolo thường xuyên lai vãng chính là những nơi tuyệt hảo nhất.
Ở khu phía đông thung lũng là Nhà Buổi Sáng. Cung điện kỳ khôi này được dựng trên một gò đất tự nhiên, khoảng mấy mẫu đất, thiếu điều lấp hẳn cả một cái hốc rất sâu nằm giữa hai vách đá nhô cao xanh thẫm, trông xuống dưới sẽ thấy nhiều nhà dân nằm phân bố bên dưới những bóng của đám rừng cây phía trên.
Vậy, nếu quả thực là, ngay từ giây phút xây dựng công trình, ta đã có thể hình thành được bất kỳ ý niệm đúng đắn về vẻ oai nghiêm của một toà nhà, thì ta cũng cần phải xác định rõ ràng, rằng nơi ẩn dật này của Donjalolo không thể nào gọi là không có bề thế.
Đã trọn năm trăm kỳ trăng qua, cung điện ấy mới được dựng xong; nhờ một chuyên gia kiến trúc cây xanh nọ, mà các nền tứ giác của nó được đặt trong những trái dừa hạt; vốn cần đủ chu kỳ để nảy mầm thành các cột. Ở đằng trước, chúng được kết nối với nhau bằng các dầm ngang được chạm khắc tỉ mỉ, màu đỏ hồng điều, được đưa vào đúng khớp của khúc gỗ chính; mà, đến khi gỗ phồng, và chèn lên nhau, sẽ nén chặt với nhau cho thật chắc. Các dầm ngang đỡ cho các rui, từ phía sau nghiêng tới; trong khi bên trên những ngọn cỏ thơm được phủ làm mái, thì vẫy những ngọn Cọ Dừa rậm lá, những đầu cột xanh trên thân cây sẫm màu của chúng.
Khắp cả cái khối xanh rung động này, bầy chim tươi tắn chuyền quanh và chiêm chiếp; tấm mái tranh tỏa hương và điểm màu tựa như một khu vườn treo; và ở giữa nó và các ngọn Cọ Dừa, một vòm lá treo lơ lửng trong không khí.
Bên ngoài các cột này, sừng sững dãy cột thứ nhì và thứ ba, tạo nên những buồng cây đẹp nhất; tiến vào đó, bạn tưởng cung điện trên kia hẳn phải được đặt trong một suối nước, hoặc bị đóng băng trong một khối pha lê. Ba con lạch lấp lánh chảy từ trên cao được dẫn qua đỉnh của nó, qua các thân cây lớn được vùi một nửa bên trong mái tranh; và được trút vào một con mương được chạm khắc, chảy dọc theo các mái chìa, đổ dồn thành một tấm lá rộng, tết hạt và trong suốt. Đổ xuống vào một lưu vực bên dưới, rồi sau đó chúng được dẫn xuống thung.
Các mặt của cung điện được bao quanh bởi các bụi Diomi với một bông hoa, nhờ hương thơm của nó, nên được gọi là Lenora, hoặc Hơi Thở Ngọt; và bên trong những bụi cây thơm này, là các chồng thảm nặng, được nhuộm màu rất đậm và thêu hình rất dày.
Đây chính là nơi nghỉ ngơi giữa một buổi trưa bừng bừng, thác nước tết hạt nô đùa, khối cây xanh phấp phới, và tiếng chim hót êm tai; cứ tưởng đang sống trong một khu vườn trong thung, chứ đâu ai nói được đấy là một cái hang ngoài biển.
Nhưng bấy nhiêu là đủ về Nhà Buổi Sáng, chúng ta đi qua khu lòng chảo, hướng đến Nhà Buổi Chiều.
CHƯƠNG LXXVII
NHÀ BUỔI CHIỀU
Phần lớn, Nhà Buổi Chiều chỉ là một chái nhà được xây vào sát một biệt thự do chính bàn tay Tự Nhiên làm ra; một hang đá lớn chạy vào trong sườn núi. Phía bên trên của miệng hang này, là một con đường dài vòm lá, dựng trên những tảng đá lớn, được đục đẽo thô sơ sao cho giống những tượng thần, trên ngực mỗi tượng đều có khắc hình một con thằn lằn: đội cận vệ của các vị thần đang thực hiện nghĩa vụ canh gác.
Từ tiền sảnh hang đá ấy, có một con suối lớn bậc nhất trong thung vui nhộn chảy ra; thứ mà, dường như quá vui mừng khi được thấy ánh sáng ban ngày ở Willamilla, đã phóng vào con đường vòm lá với một cú nhảy hân hoan, trắng xóa. Thế nhưng niềm nhiệt huyết xuân xanh của nó đã sớm phải dồn nén; dòng nước của nó đổ vào trong một bể đá lớn, được nạo từ đá tự nhiên; từ đó, trầm tĩnh và đứng đắn, chúng chảy qua những đường hào cỏn con; sau cùng uốn lượn chảy đi, để hoà nước triều với những dòng nước đã được dạy dỗ để đi phục vụ ở đầu bên kia thung.
Những con suối lêu lổng: cả ngày dài la cà dọc đường đến tận lối thoát nước dưới mặt đất, một khi đã chảy vào, là chẳng thấy đâu nữa. Nhưng chẳng trách sao mà chúng la cà; bởi vì chảy qua những quang cảnh mê hồn dường ấy. Ở đời cũng vậy: con người bật ra khỏi màn đêm; chạy và bập bẹ dưới ánh mặt trời; để rồi lại trở về với màn đêm của mình; dẫu, biết đâu chừng, là để thêm một lần nữa xuất hiện.
Nhưng cái hang ấy không chỉ là một lối thoát cho dòng suối. Chảy qua một khe suối tối giữa lòng đá, cả hai bên, nó tạo thành một thềm đá khô, được nâng cao, nơi bạn sẽ bước lên từ vòm lá bằng ba bậc thang nhân tạo, được bố trí nghiêng một bên, để chắn tia nước từ thác nước vui mừng. Leo lên những bậc này, và men theo rìa khe suối, cái hang đá dần dần mở rộng và cao lên; con đường bạn đi được chiếu sáng nhờ những tia sáng ở khoảng xa bên trong. Sau cùng bạn đến một mái vòm cao dưới đất, được chiếu sáng bằng một khe nứt trên núi; trong khi trải trọn trước mặt bạn, trên tường đá đối diện, từ một cửa vòm thấp, màu đen, lưng chừng, và không thể thiếp cận, chính là con suối, với một vòng tròn rỗng và một cú giội, đổ xuống thành một cột nước dài, trắng tuyết vào một hồ nước không đáy, từ đó mà, sau nhiều xoáy nước và quay cuồng, nó chảy vào khe suối, và vội vã đi mất. Một phần bị che khuất khỏi tầm mắt bởi một mỏm đá chìa ra, thác nước trắng trông như một hồn ma trùm trắng trong hang.
Thế nhưng hang đá này được trang trí rất nịnh mắt, như hội trường huy hiệu cổ xưa được treo những ngọn cờ và thảm hoa khắp nơi. Đổ dòng từ trong khe suối ấy, các cây thân leo đu đưa trong gió; hoặc lan dọc trên các tảng đá, bất kỳ nơi đâu có tua quấn bám vào. Tít trên cao, lá của chúng xanh màu tươi tắn; nhưng thấp dần bên dưới thì chúng héo khô; và được nhuộm nhiều màu; vừa tả tơi vừa tuệch toạc với nhiều tiếng sột soạt; lại như mấy ngọn cờ cũ nát; đau đớn giằng chéo với biết bao khải hoàn.
Ở giữa đại sảnh trên đồi này cất giữ tượng đá của một Demi nọ, vị thần hộ mệnh của Willamilla. Toàn bộ đều xanh và rỉ nước như một khối đá dưới nước, thần Demi đáng thương ấy mặt trông như thể nhức nhối vì những cơn đau thần kinh toạ và thắt lưng quấy rầy.
Thế nhưng ngài ấy được khích lệ từ trên cao, nhờ lời hứa sẽ được một tràng hoa nở bung làm vương miện cho ngài; các Tiên Rừng vui đùa trong những cánh rừng bên trên, mãi ghé mắt nhìn xuống từ khe nứt, và gắng sức thả cho ngài một vòng hoa đội đầu.
Bấy giờ, thung lũng tĩnh lặng, phập phồng của Willamilla, nép mình vào sát các chân núi, và là một điểm xanh tươi ưa mắt dành cho cung thủ dưới ánh mặt trời, mà nếu không vì cái hang ấy, thì hẳn không thể giải thích được. Nhờ đó, nó hít thở những làn gió phúc lành của Omi; một mũi nhô ra trên núi đóng vai trò cuốn bay ở phía đông cho hòn đảo, đón nhận con suối mát của các dòng Mậu Dịch thượng nguồn; vốn dễ chịu hơn nhiều so với những dòng hải lưu bên dưới.
Mọi thời điểm trong ngày, thậm chí vào ban trưa ủ ê, một luồng gió mát cùng những dòng nước mát dắt tay nhau, dội một tiếng kêu ùa vào điện vua Donjalolo. Và cũng như sau khi lúc đầu làm cho lòng vua thêm tươi tắn, trong phạm vi hoàng gia, dòng suối ấy tự do chảy xuyên qua thung lũng hẹp, và tắm mát cho các cây xanh; tương tự, những làn gió phúc lành của Omi, không chỉ khiến cho Nhà Buổi Chiều thêm phần dễ chịu; mà còn tìm thấy lối ra rộng rãi nơi mặt tiền thoáng đãng của nó, đã thổi vào lòng toàn bộ Willamilla.
“Nào ta hãy đến hưởng làn gió của Omi,” là câu phổ biến ở thung lũng này. Và người nói sẽ cùng bạn mình mà đi về phía hang; và gieo mình trên bãi cỏ, luồn tay vào những lọn tóc, rồi ngả mình; lấy chuyện hít thở làm niềm vui và công việc; vì quả thực những làn gió Omi như thể luồng rượu vang gió để rót vào phổi.
Nhưng không phải cơn gió này quá mát; tuy rằng lắm phen các cơn gió hiu hiu cũng trở nên huyên náo. Mà nhất là vào mùa biển động, khi các dòng Mậu Dịch chảy xuống từ khe núi, lao khỏi hang với một lực tuyệt vời. Rồi khi băng qua nó, phải vất vả nhiều lắm mới giữ được tấm áo choàng trên lưng.
Như vậy là bấy nhiêu điều về Nhà Buổi Chiều. Một nơi mà — sau khi dành cả buổi sáng râm mát dưới những vách đá phía đông của thung lũng hẹp — ngày ngày, vào một giờ nhất định, Donjalolo trong chiếc kiệu của chàng được người hầu đưa tới; ở đó, thấy những bóng râm mới; và ở đó nấn ná lại tới khi tối trời; khi một lần nữa chàng lại được đưa về nơi mình đã đến: cứ theo cách ấy mà ta dự đoán chu kỳ của mặt trời. Mãi mãi trốn tránh ánh sáng ban ngày như thế đến hết đời, vị quốc vương đã hối hả tới lui trong lãnh thổ của mình; các tia nắng của thần Sol chưa bao giờ được chiếu sáng trên vầng trán láng, không tì vết của chàng.
CHƯƠNG LXXVIII
BABBALANJA MỘT MÌNH
Về Nhà Buổi Chiều vẫn còn đôi điều cần kể.
Chủ yếu dựa vào mặt lát của nó mà ta có thể phân biệt được, đâu là nơi, theo tập quán kỳ lạ trên đảo, có khảm những bộ xương của cha ông Donjalolo; mỗi bộ xương nằm giữa một khảm san hô, — đỏ, trắng, và đen, lẫn với những viên đá tựa thủy tinh rơi xuống từ các tầng trời trong một trận mưa sao băng. Những viên đá này mô tả hình xăm của người đã khuất. Gần bên, các loại vũ khí cũng được gắn vào cánh tay họ: chùy, cung, và giáo, theo kiểu dát tương tự; và ở trên mỗi xương sọ có hình giống một quyền trượng.
Đầu tiên và dễ thấy nhất là di hài đã nửa phân huỷ của Marjora, cha của các Vua San Hô này; bên cạnh, là thứ vũ khí lừng danh, hình lưỡi liềm, mà ông đã dùng để giết người anh Teei của mình.
“Hàng các vua và dãy các quyền trượng,” Babbalanja vừa nói vừa nhìn chăm chú. “Donjalolo, này ngài hãy đến đây và ngẫm về cha ông ngài. Họ nằm đây, từ Marjora đáng sợ trở xuống tới tận đời ông thân sinh ngài đây. Đây là xương của họ, giáo của họ, và lao của họ; quyền trượng của họ, và cả hình xăm của họ: hết thảy những điều ấy có thể chắp lại cho thành con người họ trước đây. Nói cho tôi hay, hỡi đức vua, ý của ngài ra sao? Ngài có yêu thương những đấng bậc này là cha ông ngài? Có thực ngài được nên hoàng gia hơn, bởi họ là những vị vua? Hoặc con người hơn, bởi họ là những con người? Liệu đây là một truyện ngụ ngôn, hay là chuyện có thật về Marjora và Teei kẻ bị sát hại? Thế mà nằm đây là một kẻ chinh phục hùng mạnh, — hỏi ông ta đi. Nói với ông ta: con trai nói với cha: vua nói với vua. Đâm chọc ông ta đi; van xin đi; xô đẩy đi; nài nỉ đi; cự tuyệt đi; chia đôi địa cầu đi, ông ta sẽ chẳng nhúc nhích. Đi qua bước lại trên hàng tổ tiên của ngài, và họ sẽ chẳng động đậy mảy may. Họ không có ở đây. Đúng vậy, người chết không phải là để được tìm thấy, ngay cả bên dưới mồ chôn của mình. Họ cũng chẳng đơn giản là đi xa; bởi họ đâu có muốn đi; họ chết đâu phải do chọn lựa; họ mà có đi đến đâu, ấy là họ bị lôi đến đấy; và nếu như vậy, thì họ không còn tồn tại nữa, những sự hư vô của họ chẳng đi ngược với ý muốn của họ, cho bằng bị ép buộc phải rời Mardi. Dẫu theo cách nào, thì có điều gì đó đã hình thành nơi họ mà họ chẳng kiếm tìm. Thật vậy, nếu như Marjora can đảm có thề sống ở Willamilla này mãi muôn đời, và giữ lời thề ấy, thì đấy mới thật là hoàng gia; thế mà ông ta lại nằm ở đây. Này Marjora! Trỗi dậy! Này Juam nổi dậy! Nhìn này, tôi giẫm lên quyền trượng của ông; đám người đầy tớ hèn hạ của ông giẫm đạp lên ông ngay chính nơi ông đang nằm! Dậy, hỡi vua, dậy! Làm sao? không đáp à? Chớ thì những khúc xương ấy chẳng phải là của ông sao? Ôi, kẻ sống mới thắng lợi trên kẻ chết biết dường nào! Marjora! trả lời đi. Có? hay chẳng có? Tôi chẳng nhìn thấy ông; tôi chẳng nghe thấy ông; tôi chẳng cảm thấy ông; mắt này, tai này, tay này, hầu chứng minh ông có thật đều thành ra vô dụng cả; mà ví bằng có là thật, thì đấy là một cái gì vượt khỏi trí năng loài người ta. Chúng tôi phải có những tài năng khác mới nhận biết ông cho được. Phải, ông còn chẳng là một âm thanh vô hình; chẳng là tiếng dội của một tiếng dội; ngoài những khúc xương này đây. Donjalolo, tôi thiết tưởng ngài đã sa bẫy bọn sát nhân rồi: — ai trong số cha ông ngài sẽ trỗi dậy mà cứu đây? Tôi thấy ngài đang chết dần chết mòn: — ai trong số họ sẽ bảo ngài rằng có niềm vui nào đấy phía sau nấm mồ? Thế mà họ đã đến miền vô định cả rồi. Một câu rất đúng. Nó ở đâu? Đã chẳng có thầy tế Oro nào từng nói về nó cho tỏ tường; nên chi sẽ khó lòng mà tìm ra thiên đường của họ. Trong câu chuyện về cuộc đời Alma, thuộc bộ sử biên niên của Mohi, đã chép rằng một người đàn ông nọ có lần đã trỗi dậy khỏi mồ. Nhưng đã chẳng dụi mắt mình, và ông này chẳng phải đã trố mắt nhìn trống rỗng hơn bao giờ hết sao? Ông này còn chẳng tiết lộ được một điều gì. Hỡi các vị thần! để là một người qua đường ngoài kia!
“Cùng lắm, nó chỉ là một niềm hy vọng. Nhưng một niềm mong có mang lại cái điều ta hằng ao ước chăng? Có thật nỗi khiếp sợ tránh mặt đối tượng của nó hay chăng? Bản năng thì đâu phải chất bảo quản. Ngọn lửa mà tôi né tránh, có lẽ sẽ thiêu rụi tôi. — Thế nhưng đã chết, mà như còn sống; sống, mà như đã chết; — các hiền nhân của Maramma đã phán như vậy. Nhưng ta có chết khi đang sống? Nhưng nếu các bậc cha ông đã chết của chúng ta vẫn còn sống ở đâu đó và bằng cách nào đó, thì tại sao những đứa con chưa ra đời của chúng ta lại không? Bởi tiến hay lùi, thì sự vĩnh cửu đều như nhau; chúng ta đã sẵn là cái hư vô mà chúng ta khiếp sợ trở thành. Một suy nghĩ thật phũ phàng! Nhưng thôi bỏ qua, — chuyện sẽ chẳng khác. Đây này, quả tim nóng rực của ta: để đập cuồng nhiệt như vậy một thời gian, để cảm thấy trong dòng máu đỏ chảy dồn, và rồi để hóa thành tro bụi, — liệu có thể như vậy được chăng? Nhưng kiềm lại, kiềm lại, mi, kẻ nói dối trong ta, mi nói với ta rằng ta bất tử — chẳng phải ta cũng sẽ như những khúc xương này? Để thành ra thế này đấy! Thế mà những cây cọ nhỏ giọt thơm ngát, cùng các thân cây của chúng đổ nhựa trắng, cùng các cùm lông vũ của chúng dập dờn khoe khoang trong gió, chúng tàn lụi đang khi còn sung sức nhất, và cúi khòm những thân cây hư hại của mình. Chẳng còn gì rốt; dòng sông hôm qua không chảy hôm nay; mặt trời mọc là một mặt trời lặn; đang sống nghĩa là đang chết; các ngọn núi tan đi; và hết thảy đều quay tròn: — các hệ và các tiểu hành tinh; mặt trời lăn bánh qua hoàng đạo, và hoàng đạo là một vòng quay. A các vị thần! trong toàn bộ sự chuyển động phổ quát này, tôi là ai mà dám minh chứng một cái gì bền vững?
“Này các tù trưởng nhăn răng dưới hình dáng xương cốt, cút đi! Tất cả chỉ là tro bụi; biết đâu chừng đấy là tro bụi kẻ ăn mày; bởi lẽ trên thứ giường đất này, kẻ bần cùng có khi nằm chung với vua chúa, và thó mất đầu lâu của họ không chừng. Khúc xương này, là cánh tay của Marjora vĩ đại ư? Không, của ông liệt lào nào đấy. Bọn mi, là vua ư? Bọn mi, là người ư? Tờ chữ vi bằng đâu? Ta chẳng nhận tình bằng hữu của bọn mi, những bộ xương bôi bác bọn mi. Nhưng không, không; dẫu không phải, ôi Babbalanja! Thì bộ xương của chính mi, chính bản thân mi đang mang nó trong mình đây, qua cuộc đời phải chết này, rồi có kẻ sẽ nhìn nó, nhưng là qua tấm màng tự nhiên; mi đã sống đời sự chết; và mi sẽ trở thành thứ mà mình đang thấy nhãn tiền đây. Phải, con cháu của con cháu mi sẽ bước qua xác mi: chính mi ấy, câm nín như một đợt biển lặng.”
Và trên các Vua San Hô, Babbalanja bước đi trong suy ngẫm sâu sắc.
Khương Anh dịch
Melville
Billy Budd (1924)
Mardi (1849)
Jacket trắng (1850)
Hawthorne và Rêu của ông (1850)
Người 'Gee (1853)
Người kéo vĩ cầm (1854)
Pudding của người nghèo và mẩu vụn của người giàu (1854)
Jimmy Rose (1855)
Ngắn (1855-1856)
Cúc-cà-cúc-cu (1856)
Tôi và ống khói của tôi (1856)
Nước Mỹ ấy
Hawthorne (1804–1864)
Edgar Allan Poe (1809–1849)
Thoreau (1817–1862)
Melville (1819–1891)
William James (1842–1910)
Henry James (1843–1916)
Edith Wharton (1862–1937)
Gertrude Stein (1874–1946)
Ezra Pound (1885–1972)
Philip Roth (1933 –2018)
Marilynne Robinson (1943)