Melville: Mardi (kỳ 19, inédit)
CHƯƠNG LXI
MỘT NGƯỜI GIẤU MẶT
Suốt thời gian còn lại của ngày hôm ấy, cùng vài ngày sau, chúng tôi cứ luôn nhận được những thăm viếng từ các đảo lân cận; những nơi có dân cư đi thành các hạm đội và tiểu đoàn tụ tập quanh Odo để được diện kiến các vị khách quý của vua đảo ấy. Trong số họ có nhiều sứ giả từ các vua đảo lân cận gửi đến những bài diễn văn cảm tình lẫn quà cáp.
Song không cần phải kể chi tiết các cuộc gặp mặt đủ kiểu, hoặc thuật lại theo các hình thức khác nhau, mà những người lạ mặt hoàng gia ấy đã biểu hiện mối quan tâm của họ đối với chúng tôi.
Tuy nhiên, vào ngày thứ ba, nhận thấy một nhân vật bí ẩn, như những người giấu mặt bí ẩn vô tình bắt gặp, khi đang băng qua bóng tháp Quảng trường Yến anh Lima. Nó khoác tấm áo choàng tappa tối màu, phủ và xếp chùng khắp chân tay; và với một tay, che mặt, chỉ để lộ mỗi một con mắt. Thế mà con mắt ấy là cả nhân hoàn. Lúc thì nó dán mắt vào Yillah bằng một cái nhìn hiểm ác, lúc thì vào tôi, nhưng mới một biểu đạt khác. Mặc cho dân chúng có đông có cỡ nào, mặc cho có huyên náo cỡ nào, thì con mắt khôn dò ấy vẫn cứ chằm chằm nhìn; đến khi nó dường như không còn là mắt nữa, nhưng là một linh hồn, cứ nhòm nhỏ vào tâm hồn tôi luôn mãi. Thường thì tôi gắng tiếp cận nó, nhưng nó tránh tôi, rồi chẳng mấy chốc lại xuất hiện.
Chỉ cho Media cái sự hiện hình ấy, tôi khẩn nài ông tìm cách đuổi nó đi, để những ngờ vực của tôi có lẽ sẽ được xua tan vì nó chẳng có hình có dạng. Ông đáp, với nhã ý, rằng các vị ẩn danh thì thiêng liêng lắm đấy. Đến độ tấm áo choàng xếp kín và vải trùm cũng được người ta canh giữ cẩn thận như một toà lâu đài. Cuối cùng, thật là nhẹ nhõm, bóng ma ấy đã biến mất, và chẳng còn thấy nữa.
Chúng tôi được vinh dự đón nhận rất nhiều và rất nồng nhiệt những lời mời ghé thăm. Nhưng tạm thời chúng tôi từ chối; bởi muốn xây dựng bản thân chúng tôi trong lòng Media cho thật vững chãi hơn, bởi đâu thể tránh được những lúc thăng lúc trầm mỗi khi đi đây đi đó. Có một người bạn trung tín thì vẫn an toàn hơn ở giữa một đám người quen.
Bấy giờ, khi những phép xã giao ấy đã xong, và vào sáng ngày thứ tư từ hôm chúng tôi đến đây, có ba thiếu nữ mắt đen đến đổ bộ ngoài bãi biển, tóc họ nâu đen, vận những tấm áo choàng dài chấm phá nhiều màu, cùng những bông hoa tươi tắn trên đầu.
Cùng những phép chào salam, những người lạ này được một nô bộc tóc bạc của Media dẫn tới chúng tôi, ông này cúi đầu cáo lui, lầm bầm, “Từ Nữ Hoàng Hautia,” rồi đi khỏi. Bất ngờ, tôi đứng lặng, và chào đón họ.
Người đầu tiên, cười rất nhiều và nịnh hót rất nhiều, vẫy trước mặt tôi một đoá Diên Vĩ nhiều màu: đoá hoa cờ phấp phới cùng những đuôi nheo. Tiến gần, người thứ nhì đoạn trình ra ba đóa Anh Thảo Chiều ánh hồng gân tím, sương vẫn còn bám trên chúng. Người thứ ba đặt vào tay tôi một nụ Mười Giờ; rồi đến một nhành Ô Đầu.[1]
“Xin cảm ơn thiện ý của các nàng! giờ đây các nàng có nhắn nhủ gì?”
Giật mình vì màn đón tiếp này, đã có dụng ý khéo léo, họ bàn bạc một lúc; khi người cầm đoá Diên Vĩ nói với một giọng dịu ngọt, “Chúng tôi từ Hautia đến, nơi có nụ Mười Giờ ngài cầm.”
“Vậy xin gửi lời đa tạ đến Hautia; nụ hoa thơm lắm.”
Rồi nàng chỉ vào nhành Ô Đầu.
“Đóa này cũng ngọt ngào; xin cảm ơn Hautia vì những đóa hoa. Làm ơn, mang đến thêm cho ta.”
“Người này chế giễu bà chủ chúng ta,” và lướt khỏi tôi, họ vẫy những đóa hoa Phỉ[2], để tôi lại một mình và băn khoăn.
Kể cho Media về cảnh tượng ấy, ông cười; tuôn ra những ám chỉ lạ lùng về Hautia; nhưng chẳng biết ý của bà ta là gì.
Ban đầu cái sự tình ấy khiến cho tôi không ít khó chịu, cùng với rất nhiều ngạc nhiên; nhưng trong niềm sung sướng mới lạ về cuộc dừng chân mới mẻ của chúng tôi ở đảo Odo, điều này đã sớm lướt khỏi tâm trí tôi; cũng như trong một khoảng thời gian, tôi đã chẳng nghe tin gì về Nữ Hoàng Hautia nữa.
CHƯƠNG LXII
TAJI RÚT KHỎI THẾ SỰ
Sau một thời gian, khi những người lạ mặt không còn lũ lượt kéo đến như trước, tôi xin phép vị gia chủ của chúng tôi, làm một cuộc dạo chơi trên lãnh thổ của ông; mong muốn được ngắm nhìn toàn bộ lãnh thổ, và bị ngấm ngầm xui khiến bởi niềm hy vọng sẽ tìm được một chỗ ở vừa ý với cái gu khó chiều, hơn là chỗ đã được cắt đặt sẵn cho tôi.
Cuộc dạo chơi — một cuộc dạo chơi khoan khoái quả là — đã dấy lên trong tôi ý muốn rời Odo. Nhưng không phải là đi thật xa; mà là đâu độ chừng mười hay mười hai thước, đến một nhúm cù lao xanh nho nhỏ; một trong số những cù lao, nằm tản mác, chung quanh đảo, làm tổ như tổ chim trên những nhánh của rừng san hô, với rễ bám chắc xuống nền biển sâu. Giữa những cù lao ấy và bờ biển, trải ra những dải đá ngầm, cùng những bãi cạn bên trên, vừa đủ để thả nổi một chiếc xuồng. Một trong số cù lao ấy có nhiều cây gỗ và thân leo; một buồng cây ngoài biển. Và được Media cho phép, tôi quyết định sống tại đây.
Chẳng mất bao lâu để Media chiều theo ý tôi; và cũng chẳng bao lâu trước khi chỗ ở của tôi được sẵn sàng. Bện vào với nhau, những cành cây xoắn được lợp rất chắc. Và bốn bề cũng được lợp với những lá dứa dại đỏ thẫm; những lưỡi giáo dài, chia nhánh của chúng bị gió thổi bốc lên, khiến cả nơi này phừng phừng như những ngọn lửa cháy. Các cây thân đốt, đặt nằm trên các thân cọ dừa, làm thành sàn nhà. Thật là dẻo dai! Khắp Odo đâu đâu cũng có, giữa hàng tù trưởng, nó truyền cho con người cái vẻ oai hùng, đến độ ta có thể bảo, nhờ đấy mà tạo ra cái khí cốt phong nhã quý tộc trứ danh.
Bệnh tưởng! mà cố làm sàn cho đàn hồi! Nó sẽ cho bạn nhún nhảy thật dễ chịu và êm ái, như thể xóc nảy, và tống khứ mấy tâm trạng tù đọng đang phủ lấy vũng hồ tâm hồn bạn.
Đó là nơi tôi ở. Nhưng tôi đã không nhắc gì đến những món phụ tùng nhỏ nhặt lặt vặt trong việc nội trợ vùng nhiệt đới: những bầu những bí, những sọ dừa, và những cuộn vải tappa đẹp; để rồi cuối cùng được cùng Yillah ngồi dưới buồng cây của mình, tôi nhìn khắp chung quanh, và chẳng muốn gì sất.
Nhưng còn Jarl và Samoa thì sao? Tại sao ông lão Jarl lại thấy cần phải bày vẽ kiểu cọ giống tôi làm gì. Như một gã độc thân trong buồng kín, ông sống ổn định ngay đối diện nhà tôi, trên đảo chính, trong một túp lều nhỏ trong rừng.
Còn Samoa, chẳng bắt chước ông bạn mình, chàng vẫn nán lại trong trại của người Khết và người Giơ-vút ở Odo. Lôi kéo thời giờ rỗi rãi của người ta bằng những câu chuyện kỳ lạ: còn, trái tim thiếu nữ bằng những mồi chài kỳ lạ.
Khi thích, tôi hoàn toàn được yên tĩnh trong buồng cây của mình; nhờ Media ra nghiêm lệnh cấm người qua kẻ lại tuỳ tiện. Thế mà cứ mỗi ngày ba lần lại có một ông già hay líu lo mang đến cho tôi đồ ăn của uống.
Tuy được sống ẩn dật như thế, nhưng tôi không thể hoàn toàn tránh được những nhòm nhỏ của người dân các đảo lân cận; những người này thường tạt ngang qua cù lao, chậm rãi đưa chèo, và chăm chăm để ý đến chỗ ở của tôi. Nhưng vì họ đi xuồng cách một khoảng xa, và không bao giờ dám đổ bộ vào, nên sự qua lại hàn hữu của họ tuy có gây phiền phức cho tôi song chẳng đáng là bao. Nhưng đôi khi vào một buổi tối, khi những bóng dày đặc và lướt nhanh đổ xuống, ta sẽ lờ mờ trông thấy một chiếc xuồng; đang lượn quanh nơi tôi ở như một hồn ma. Và có lần, trong màn đêm yên tĩnh, nghe thấy tiếng mũi xuồng gợn sóng rất gần, tôi lao tới, nhưng cái bóng ma đã nhanh chóng đi mất.
Vào đêm hôm ấy, Yillah vừa ngủ vừa rùng mình. “Xoáy nước,” nàng lẩm bẩm, “những tảo biển êm dịu.” Rồi sáng hôm sau nàng lạc trong những mơ mẩn, ngắt những đóa lan dạ hương trầm ngâm, hoặc nhìn chăm chú về nơi đầm phá.
CHƯƠNG LXIII
ODO VÀ CHÚA TỂ CỦA NÓ
Giờ là lúc để đi sâu vào mô tả hòn đảo này và chúa tể của nó.
Bắt đầu với Media: là một quý ông ga lăng và là một vị vua. Ông xuất thân từ một dòng dõi đẹp tướng. Trong gia phả vô tận của ông, thần thánh xét hàng thập phân, các vua vô số, cùng các anh hùng, tù trưởng, thầy tế đông đảo. Mà ông cũng không phải đích thân đi tạo ấn tượng sai lầm về nguồn gốc của mình. Ông không phải là hậu duệ xa xôi của người lùn, là kẻ thấp hèn nhất trong dòng giống đang đà suy thoái. Ông đứng như một cây cọ; quanh đầu cột lá ô rô chẳng rũ xuống tao nhã những mái tóc mềm, cho bằng những lọn tóc trên vầng trán cao quý của Media. Tay ông khỏe để vung dùi, hoặc để ném lao; và thật uy lực, tôi thiết nghĩ, quanh vòng eo người thiếu nữ.
Vậy là bấy nhiêu điều về Media. Giờ ta bàn đến đảo của ông.
Cuộc dạo chơi khoan khoái của chúng tôi đã cho thấy bản thân nó là một thế giới tròn, nhỏ nhắn; đầy vẻ đẹp như một khu vườn; chìm trong những vườn cây mê hoặc; được tưới tắm bởi những dòng suối chảy khắp; và được phủ lá luống cọ viền quanh, có rễ hút dinh dưỡng từ nước. Và tuy rằng có rất nhiều ở các khu vực khác thuộc Quần Đảo, thế nhưng ở Odo lại chẳng có lấy một trái mít bột nào. Một chi tiết đáng chú ý, ta có thể thấy ở những vùng này, nơi các đảo nằm san sát nhau, thế mà lại quá khác nhau về thổ nhưỡng, đến độ, có một số loại trái cây thì phát triển tốt ở đảo này, và xa lạ ở đảo kia. Nhưng đảo Odo trứ danh vì những trái ổi, mang hương vị sánh ngang một đôi môi mới hôn; và cũng trứ danh vì những trái nho, mà cốt nho của nó đã khiến cho bao nhiêu người cười và bao nhiêu người khóc.
Ngoài khu vực đông dân nơi Media ở, còn có những cụm dân cư khác ở Odo. Tầng lớp cao hơn đang sống, tản mác, trong các hộ gia đình riêng biệt; nhưng họ không phải là các ẩn sĩ. Một số vùi mình giữa lòng những lùm cây râm mát, rung rinh trong gió. Số khác, thích ở một nơi gần biển, sống bất di bất dịch ngoài bờ cát trong những chiếc lồng tre nhỏ; để khi sáng ngày họ đã ùa ra với những tiếng kêu vui tươi, và đằm mình vào bồn nước mát lạnh, với mép bồn bọt sóng là ngưỡng cửa nhà họ. Số khác nữa thì như những chú chim, làm tổ giữa những góc rừng trong nội địa được dựng trên cao; để mọi thứ bên dưới, và xanh mờ, bạc nhược trải dốc trái tim đập rộn ràng của đảo.
Các tù trưởng và các nhân vật lỗi lạc vui vẻ ấy đã sinh sống như thế. Còn các dân thường, gồm các nông nô, và các Helots, các nô lệ chiến tranh tù đày, sống ở những nơi kín đáo, khó tìm. Một nơi mà, với người ngoài, toàn bộ hải đảo trông vô tư và xinh đẹp. Nhưng sâu trong các hẻm núi và khe đá, các thụ tạo ấy sống trong các hang động hôi thối, trong hang thú, chứ chẳng phải nhà người; hoặc họ xây cho mình những cái chuồng từ cành cây mục — bởi họ cấm không được bén mảng đến những cây còn tươi tốt — mà khúc ruột mốc của chúng chứa đầy sâu bọ. Lo lắng sẽ bị mắc một loại ôn dịch nào đó, xuất phát từ cái nơi dơ dáy này, nên các tù trưởng ở Odo hiếm khi đi qua con đường ấy; và đi tham quan trong những nơi ở xanh tươi của họ, rồi rót rượu, và hái quả từ những rừng cây ăn trái tốt nhất, tự hỏi làm sao bọn người bẩn thỉu ấy lại có thể chui rúc trong bùn nhơ, và trưng ra mấy bộ mặt vàng bủng như thế. Nhưng họ có khi nào đem tổ ấm đến cho người khác bao giờ; họ có bao giờ ra sức mà kéo người ta khỏi chỗ bùn nhơ ấy; họ chẳng rộng cửa mở vườn cây ăn trái; cũng chẳng can ngăn những lệnh phán đám người làm thân trâu ngựa này vào chỗ đang sống mà như đã chết rồi. Đúng là thảm cảnh! để thấy những Helots vai rộng, còng lưng trong các hầm: do con người đào nên, nhóm ba, và đồng tâm: hầu như bao quanh đảo này. Và ở trong đấy, được nuôi bằng thứ đất mùn nhớp, và đọng sương tự nhiên bởi trời, và bởi mồ hôi đắng của con người, mà những củ Khoai Môn bổ dưỡng ấy phát triển rất mạnh.
Lao động nhọc nhằn là định phận con người; nhọc nhằn đầu óc, hay nhọc nhằn đôi tay, hay nỗi thống khổ còn lớn hơn cả, nỗi thống khổ và tội ăn không ngồi rồi. Nhưng một khi con người làm việc vất vả và thí mạng mình cho các chủ nhân nắm giữ mạng sống của họ — thì, thì, tâm hồn gào lên, và từng gân máu vỡ toác. Những nông nô tội nghiệp này cũng vậy. Và chẳng mấy ai trong số họ lựa chọn khác ngoài tỏ ra là những kẻ thú tính.
Giờ đây ta cần nói, liệu Odo không phải là vùng đất của niềm sung sướng thuần khiết, và dồi dào không vơi? — Odo, trong nơi ẩn náu của nó những đứa con chối bầu sữa mẹ, chẳng có nguồn dưỡng chất nào bởi đấy chảy ra. — Odo, trong những rừng cây tối tăm, ám ảnh thâm sâu, khi băng ngang qua thì bạn nghe những tiếng kêu thảm thiết nhất, và những giọng nguyền rủa Media. Ở đó, con người bị roi vọt; tội của họ, là tội dị giáo; tội dị giáo ấy, là Media chẳng phải á thần. Vì điều này mà họ thét lên. Trước đây cha ông họ đã từng thét lên; cha ông họ, những người, bị tra tấn, đã nói rằng, “Chúng tôi lấy làm hạnh phúc được kêu rên, để con cái của con cái chúng tôi sẽ được vui mừng.” Thế mà con cái của con cái họ đã kêu gào. Nhưng, cả những người này, cũng vọng lại tiếng các thế hệ trước, và lớn giọng thề nguyền, “Cái hố đào cho chúng tôi sẽ cho thấy nấm mồ kẻ khác.”
Nhưng ta hãy cho qua toàn bộ chuyện này. Để nhìn ngắm, và để rong chơi khắp nơi nghỉ ngơi, Odo có vẻ là một vùng đất hạnh phúc. Những cây cọ vẫy chào — dẫu rải rác đâu đó bạn nhận thấy một cây khô héo và tê dại; những đóa hoa bừng nở — dẫu những đóa đã chết thì héo tàn thối rữa; những ngọn sóng chạy dọc bờ biển trong vui sướng — dẫu khi sóng rút, đôi khi chúng để lại những xương xẩu lẫn với vỏ sò.
Nhưng ngoài những điều này ra, khắp đảo chẳng thấy dấu hiệu nào của cái chết. Liệu người ở Odo đã sống từ ngàn đời? Liệu suối nước Ponce de Leon đã từng ở đấy? Bởi lẽ khắp đảo, bạn chẳng thấy những hàng ngũ nấm mồ, chẳng thế hệ nào bị gặt ngã nơi luống cày. Ở Odo, chẳng một quan thái thú lòng chai dạ đá nào lại nằm ngủ dưới một văn một chí cao quý; chẳng có lời cầu requiescat-in-pace[3] nào chế nhạo một tội nhân bị đoạ đày; chẳng một memento-mori[4] nào khuyên răn người ta sống khi họ còn có thể. Nơi đây Cái Chết giấu đi đầu lâu của nó; và đem giấu dưới biển, mộ phần chung ở Odo. Chẳng phải bụi đất trởi về với bụi đất, mà bụi đất trở về với biển khơi; chẳng phải xe tang mà là xuồng đưa linh cữu. Vì hễ ai chết trên đảo này đều được đưa ra rạn san hô bên ngoài, và ở đó mà được chôn cùng cha ông của cha ông họ. Thành thử mới có ý nghĩ, rằng vào những đêm giông tố, khi chung quanh các hải đảo, cao vút trên trời, là khối mây và bọt của rạn san hô trắng ấy, rằng đó đây, cứ ríu rít trông và trực, cho hàng vạn những người đã lấp mộ dưới biển khơi.
Nhưng tại sao lại có những lễ tang chìm dưới nước ấy?
Odo chỉ là một hải đảo nhỏ, và người sống phải nhường chỗ cho người chết, và thuộc địa nhỏ nhoi của Sự Sống bị những vị gia chủ khốc liệt của Cái Chết trục xuất; như các bộ lạc hung dữ Tamerlane lan khắp các đồng cỏ cắm lều của người Khan?
Và giờ đây, điều tiếp theo, những người Dân Đảo nói rằng: “Sao lại gieo sự mục nát vào mảnh đất mang lại sự sống cho chúng tôi? Chúng tôi chẳng muốn hái nho của mình trên những nấm mồ. Đất này là một bình hoa, chứ chẳng phải bình tro.”
Họ nói rằng Oro, đấng tối cao, đã dựng một nghĩa trang ngoài biển.
Và còn nấm mồ nào vinh quanh hơn? Liệu Mausolo được chôn cất trác tuyệt hơn? Hay những ngọn đèn nơi nhà nguyện đã cháy trước lăng Charlemagne, tỏ ra tráng lệ, hơn hết thảy những vì sao, đã sáng rực phía trên người thủy thủ đắm tàu?
Nhưng thôi không nói chuyện chết chóc nữa; con người nhún vai, và chẳng yêu người đồng bạn của mình; dẫu chẳng mấy chốc nữa đây tất cả chúng ta rồi cũng sẽ là bạn bè với họ.
Khương Anh dịch
[1] Trong Poetry of Flowers and Flowers of Poetry của Frances Sargent Osgood, hoa Diên Vĩ là một loài hoa tượng trưng cho truyền tin, dựa theo tích về sứ giả của nữ thần Juno; hoa Anh Thảo Chiều mang nghĩa mê hoặc, đặt tên theo nữ phù thuỷ Circe; hoa Mười Giờ biểu tượng của niềm vui trọn vẹn; và hoa Ô Đầu mang ý nghĩa bay cùng ta, dựa theo cỗ xe của nữ thần Venus.
[2] Hoa Phỉ mang ý nghĩa bùa chú.
[3] Tiếng Latin: mong cho linh hồn đã qua đời được nghỉ ngơi bình an
[4] Tiếng Latin: hãy nhớ, phận người phải chết
Melville
Billy Budd (1924)
Mardi (1849)
Jacket trắng (1850)
Hawthorne và Rêu của ông (1850)
Người 'Gee (1853)
Người kéo vĩ cầm (1854)
Pudding của người nghèo và mẩu vụn của người giàu (1854)
Jimmy Rose (1855)
Ngắn (1855-1856)
Cúc-cà-cúc-cu (1856)
Tôi và ống khói của tôi (1856)
Nước Mỹ ấy
Hawthorne (1804–1864)
Edgar Allan Poe (1809–1849)
Thoreau (1817–1862)
Melville (1819–1891)
William James (1842–1910)
Henry James (1843–1916)
Edith Wharton (1862–1937)
Gertrude Stein (1874–1946)
Ezra Pound (1885–1972)
Philip Roth (1933 –2018)
Marilynne Robinson (1943)