Melville: Mardi (kỳ 12)
Kỳ trước, sau một đợt biển lặng ngột ngạt, tàu Parki bất ngờ hứng trọn một cơn bão dữ dội, giết chết người phụ nữ duy nhất trên tàu. Jarl gan dạ đã kịp thời chặt buồm và cứu tàu thoát khỏi lật úp, nhưng tàu đã bị thủng, nước tràn vào ngày một nhanh dù mọi người thay nhau bơm cật lực. Khi bình minh vừa lên, họ buộc phải bỏ Parki, xuống thuyền Dê Biển nhỏ. Đêm đó, họ chứng kiến cảnh tượng biển lân tinh, với một đàn cá nhà táng bơi quanh, vừa huyền diệu vừa nguy hiểm. Cuối cùng, họ chèo thuyền đi thoát, tiếp tục hành trình lênh đênh, mang theo hy vọng sẽ tìm thấy đất liền trước khi quá muộn.
CHƯƠNG XXXIX
HỌ NHẬP HỘI VỚI NGƯỜI LẠ
Sau khi rời tàu Parki, chúng tôi được hưởng kha khá thời tiết êm ả, những làn gió nhẹ thổi cho có thay đổi gọi là. Lướt êm ả trên mặt biển, nơi mới chỉ trước đó không lâu còn là một tấm bọt trắng xóa, tôi không khỏi tự nhủ mình thật may mắn biết bao khi trận cuồng phong ập đến lúc chúng tôi còn ở trên chiếc brigantine, chứ không phải trên chiếc thuyền Dê Biển. Dẫu chiếc thuyền săn cá voi vốn nổi tiếng là chắc chắn giữa sóng nước, thì trong một cơn bão khốc liệt, tàu thuyền càng lớn thì cảm giác an toàn càng lớn. Do đó, cả ngàn tâm hồn liều lĩnh mới dám ở trên một con tàu trận tuyến để khêu gan những cơn bão khủng khiếp nhất, dù thực ra trên một chiếc tường-gỗ-thành-Troy, họ có khi lại kém an toàn hơn so với những kẻ lênh đênh đối mặt bão tố trên một con tàu buôn dáng lướt.
Nhưng tôi không chỉ tự chúc mừng mình đã thoát nạn, mà còn mừng cho viễn cảnh phía trước. Đối với những cơn bão, hiếm hoi lắm mới xảy ra ở các vùng biển này, một cơn vừa xong thì hầu như là một lời đoan chắc rằng ta sẽ biển yên sóng lặng trong nhiều tuần tới.
Lúc này đây, mặt trời vẫn nối tiếp mặt trời và đất liền chẳng có. Và cuối cùng có vẻ như thể chúng tôi hẳn phải đi quá giới hạn xa nhất về hướng tây của quần đảo mà chúng kiếm tìm: mối nghi ngờ đang rình rập mà tôi canh cánh trong lòng. Song, tôi không thể không ấp ủ niềm tin âm ỉ rằng rồi mọi sự đều sẽ tốt đẹp.
Vào ngày thứ chín, những lo toan của tôi kết thúc. Dưới ánh rạng đông xám, đậu trên đỉnh buồm của chúng tôi là một chú nhàn đang say ngủ. Con quái thú này theo đúng bản chất là loài dã cầm hiếu kỳ, với cái tên mang nghĩa cái sự buồn ngủ của nó. Lông nó màu trắng tuyết, mỏ và chân nó màu đỏ máu, phần sau trông như quần vải lót trẻ con. Cố tình đùa ác để bắt chim, Samoa túm được ba chiếc lông đuôi; con vật hoảng sợ hét lên một tiếng rồi bay mất, để lại mấy cuống lông của nó trong tay chàng.
Đi tiếp, chúng tôi dần dà cũng bắt gặp những chuyến bay thấp lồng lộng của những loài thủy cầm khác, đa phần là những loài ít khi thấy ở đất liền: nhạn biển, cốc biển, hải âu, bồ câu san hô, chim ưng, mòng biển, và những loài tương tự. Chúng bay tối cả trời; cánh của chúng tạo ra tiếng sột soạt trên đầu như mười ngàn chiếc lá đồng loạt lật úp. Những loài nhỏ hơn thì lướt trên mặt biển như sỏi ném thia lia từ bờ. Phía trên chúng là vô vàn những loài chim có sải cánh rộng. Trong khi bay cao hơn cả, vút liệng trong không trung là những chú “Thợ Lặn” táo bạo, hay diều biển, một loài có tầm nhìn với khả năng thật sự phi thường. Nó nhìn thấy bọn cá chuồn nhỏ dưới nước, từ một độ cao không dưới bốn trăm bộ. Xoáy tròn và gào lên khi tấn công, chim diều biển, trước là mỏ, găm xuống, sà vào trong nước, và trong giây lát biết mất hoàn toàn, sau rồi nhô lên, con mồi của nó bị quắp chặt trong móng vuốt. Nhưng khi mang nó lên cao, kẻ cướp táo bạo nhanh chóng bị những loài chim săn mồi khác tấn công, ra sức giành lấy chiến lợi phẩm của nó. Và bạn thấy con cá bị giật khỏi móng rớt trong không trung, tới khi một lần nữa lại bị quắp mất đang khi rơi xuống bởi những kẻ đuổi theo nhanh nhất.
Bỏ lại những cảnh tượng này sau đuôi thuyền, chúng tôi bỗng vớt được một vỏ dừa nhớp, phủ đầy hàu xanh. Và không lâu sau thì lướt qua hai ba cành cây và một thân cọ trơ trọi mà khi đi thuyền đến gần hơn thì có vẻ như chỉ mới bắt đầu chuyến hải trình bất tận của nó. Khi tới ban trưa, màn mù tím đất liền, được nhận ra lờ mờ đang ngự ở chân trời phía tây, gần như bị che khuất. Tuy vậy, đằng sau tấm màn mù ấy, chúng tôi chắc rằng những cành cây đầy hứa hẹn đang vẫy gọi.
Lúc bấy giờ chúng tôi đang khấp khởi lắm. Samoa thi thoảng một mình ngâm nga những bài vè ngoại giáo, còn Jarl thì gấp mười lần miệt mài với sự im lặng của ông hơn bao giờ; nhưng ánh mắt ông tràn đầy hy vọng và từ mũi thuyền mà phóng nhìn xa xăm. Bỗng, đưa tay che nắng, ông chăm chú nhìn trong chốc lát, đoạn bật dậy, thốt ra một tiếng kéo dài: “Có buồm!”
Chỉ chấm nhẹ ở rìa xa nhất trên trời là một đốm nhỏ, đang nhảy múa vào tầm mắt mỗi lần chúng tôi leo lên những đỉnh sóng. Nó trông như một chú chim, bởi khuất nửa tầm mắt của chúng tôi đổ những cơn mưa lông vũ: một cú lao mình của bọn nhàn biển trắng sữa hướng xuống biển.
Bọn chim chóng mất dạng. Nhưng cái đốm ấy thì vẫn còn - rõ là một cánh buồm, nhưng quá nhỏ so với một con tàu. Liệu có phải một thuyền săn cá voi - cái thuyền ở xa phía đuôi, và được che phủ nhờ cái màn mù ấy? Có vẻ như vậy.
Thế nhưng, lặng lẽ, chúng tôi vẫn chờ cho người lạ tiến gần hơn, tin rằng trong một khoảng thời gian người ta sẽ chẳng nhận ra được chúng tôi, vì chúng tôi đang trong khu vực mà các thủy thủ gọi là “phản mặt trời”, hoặc phần đại dương mà các tia mặt trời chóe lên với cường độ khác thường.
Khi cánh buồm ấy tiến gần, chuyện nó không tỏa trắng khiến chúng tôi nghi ngờ liệu nó có thực là một thuyền săn cá voi hay không. Lúc này nó có màu vàng và Samoa giải thích rằng nó ắt phải là buồm của một thuyền hải đảo nào đó. Đúng vậy. Đã hiện ra một xuồng đôi lớn, như những chiếc xuồng mà người Polynesia dùng để di chuyển giữa các hòn đảo xa.
Người Upolu sốt ruột muốn gặp gỡ, cũng là điều mà Jarl không thích. Cân nhắc chốc lát, tôi mới bảo nạp đạn mấy cây súng hỏa mai; rồi căng buồm - gió thuận chiều - chúng tôi tiến về phía chiếc xuồng lúc này đang xuôi hướng vuông góc với đường thuyền trước đó của chúng tôi.
Ở đây ta cần nhắc rằng từ những thứ áo quần sặc sỡ và những món khác đã được thuyền trưởng tàu Parki cung cấp để trao đổi trên tàu, tôi đã vừa sửa sang trang phục của mình thật ấn tượng, làm cho nó thật thoáng, rũ, và mang nét đông phương. Trông tôi như một tù trưởng Emir. Còn ông Viking cũng không hề lơ là noi gương tôi, dù có đôi chút cải biến theo ý riêng của mình. Với mái tóc dài rối và cây lao móc, trông ông như một vị thần biển lên những con tàu, lần đầu tiên được băng qua đường Xích Đạo. Còn về phần chàng Samoa xăm trổ, chàng vẫn diện cả váy lẫn khăn xếp, làm nhớ về một con báo ngăm đen, dù các đốm của chàng chỉ tập trung về một bên. Ngoài trang phục của chúng tôi, để phòng các trường hợp bất ngờ, chúng tôi cũng đã trang bị cho con thuyền rất nhiều vải trúc bâu Nam Kinh và lụa đủ loại.
Nhưng bây giờ được nhìn thật tỏ tường trước mắt là đòn gánh một cặp mũi thuyền kềnh càng, chạm khắc tua tủa và băng xuyên qua làn nước với tốc độ đáng kể; cánh buồm căng rộng đang bọc gió như một cái bao. Có vẻ như trên tàu đầy đàn ông thanh niên và từ những tiếng la chói tai hướng về phía chúng tôi cùng độ chệch đường của chiếc xuồng, rõ ràng là chúng tôi đã gây ra ấn tượng không nhỏ. Họ có vẻ không biết nên đi hướng nào: liệu nên tranh thủ gặp gỡ, hay là tránh đi; liệu nên xem chúng tôi là bạn hay là thù.
Khi chúng tôi tiến gần hơn nữa, nhìn rõ những khuôn mặt của họ, chúng tôi lớn tiếng chào, mời họ cuốn buồm, và cho phép chúng tôi lên xuồng. Nhưng không đáp một lời; nỗi bối rối của họ càng lúc càng tăng thêm. Và khi ấy, chưa đầy chiều dài hai con tàu, họ lướt thẳng qua mũi thuyền của chúng tôi, nhìn chúng tôi chăm chăm với tò mò lẫn sợ hãi.
Thuyền của họ dài độ ba chục bộ, gồm một cặp xuồng song song, rất thuôn, cách nhau khoảng một thước theo chiều dọc, được nối với nhau bằng những thanh gỗ chéo cứng cáp, buộc ngang qua bốn mép mạn. Trên các thanh gỗ này là một bệ hoặc bục được đóng cao, khá khô ráo; và ở đằng đuôi là một mui xuồng hình vòm hoặc lều; đằng sau, là hai mái chèo bản rộng với phần cuối là những đuôi cá mập thô, nhờ đó mà con thuyền lái đi được.
Xà buồm, căng một lá buồm vàng, là một cành cây cong, được đỡ xiên qua nạng cột buồm, trên đó còn bám vỏ cây xanh. Chỗ này chỗ kia là những búi rêu nhỏ. Mũi xuồng hơi khoằm, nhô cao, là nơi dựng cột, trông giống như một bàn thờ thô sơ, và chung quanh nó được treo nhiều loại trái cây, gồm hàng hai chục quả dừa còn nguyên vỏ. Mũi xuồng này đã được rào lại, tạo nên một loại cung thánh bên trong.
Xà buồm đầu tiên, bắt ngang qua các mép mạn, kéo dài độ mười hai bộ ra bên ngoài bục, trên đó là những đoạn cách đều nhau, các dây thừng to được buộc chặt, nối lên đỉnh cột buồm, nhận vai trò làm giàn dây níu. Gió lúc bấy giờ thổi mát rượi và, như thể muốn đẩy mạn trước gió của thuyền hướng xuống nước, năm người đàn ông đứng trên cái xà ngang dài ấy, nắm lấy năm dây níu. Nhưng họ đã thất bại trong việc lấy lực đối trọng cho buồm; và bởi vì chiếc xuồng đôi nghiêng đối nhau, những bức tượng sống ấy được nâng cao trên mặt nước; vẻ ngoài của họ còn được làm cho nổi bật hơn nhờ điệu bộ háo hức, mối nguy hiểm hiển hiện nơi họ đứng, khi tia nước điên cuồng từ mũi tàu văng tung toé khắp người. Bỗng chốc, các Dân Đảo đẩy con thuyền nương theo gió; trong khi, về phần mình, chúng tôi thì dựa vào sức chèo, sợ làm họ phát hoảng trong khi lúc này đang càng lúc càng tiến gần. Nhưng lại gọi họ thêm một lần nữa, chúng tôi bảo rằng chúng tôi là bạn, và có chút quà giao hữu biếu tặng, nếu họ ôn hòa để chúng tôi tiến gần. Hiểu được điều này, một tiếng kêu lớn theo sau, và tôi bảo Jarl cùng Samoa đưa mái chèo, chèo thật nhẹ nhàng về phía những người lạ. Rồi thì, giữa một cơn bão những tiếng la om sòm, vài người trong số họ vội chạy đến mạn xa nhất trên bục, hai tay giơ qua đầu mà đứng, như thể chuẩn bị lặn xuống nước; những người khác thì đe dọa chúng tôi bằng những gậy gộc giáo mác và một người, một người đàn ông lớn tuổi đội một giàn mắt cáo bằng tre trên đầu tạo thành một kiểu giàn che bóng cho đầu, đứng dậy trước lều, giãn dài sau lưng là một dải ná bện rộng.
Trước màn phô trương thù địch này, Samoa thả mái chèo, và mang quà của chàng về phía ông già, người mà, bởi thái độ của lão, coi bộ đe dọa giáng xuống chúng tôi số phận của tên khoác lác khổng lồ thành Gath[1]. Nhưng tôi nhanh chóng hạ miệng súng hỏa mai của chàng, nghiêm cấm bất kỳ dấu hiệu thù địch dù là nhỏ nhoi nhất, tuy vậy ra lệnh cho các đồng bạn tôi vẫn phải luôn đề phòng cảnh giác.
Bấy chờ chúng tôi thôi chèo, và sau vài phút om sòm trên xuồng, họ chạy lại chỗ mái chèo lái và hướng thuyền ra trước gió, nhanh chóng lao khỏi chúng tôi. Gấp rút hết cỡ chúng tôi căng buồm và cùng lúc bắt tay vào chèo, chẳng chốc chúng tôi đã bắt kịp họ, quyết đạt được mối giao thiệp thân mật hơn.
CHƯƠNG XL
CHA VÀ CÁC CON
Thấy rằng bỏ chạy là vô ích, các Dân Đảo lại dừng xuồng, và một lần nữa chúng tôi cẩn thận tiến đến gần; đích thân tôi hô lớn bảo họ đừng sợ; còn Samoa, với tính hài hước lạ lùng của chủng tộc chàng, cho rằng chàng biết mỗi người trong bọn họ từ khi còn bé tí.
Chúng tôi tiến lại gần, chỉ còn cách họ chừng hai, ba thước rồi dừng lại, khiến họ phần nào bớt hoảng hốt. Buộc chặt một chiếc khăn lụa Tàu đỏ vào mái chèo dài, tôi vẫy. Một tràng pháo tay sống động, cùng nhiều lời cảm thán nhiệt liệt.
Đang khi còn vẫy khăn, tôi nói thầm với Jarl cho chiếc thuyền nghiêng hẳn về phía xuồng, được thực hiện rất khéo, đưa mũi tàu, nơi tôi đứng, cho gần những người Dân Đảo hơn. Đoạn tôi thả tấm vải lụa giữa họ và các Dân Đảo, khi bắt được nó, lập tức trao ngay cho ông già hiếu chiến mang ná, người - khi ấy đang ngồi - trải nó ra trước mặt ông, trong khi số còn lại vây chung quanh, liếc vội món quà tuyệt vời, rồi liếc về phía những quà tặng còn tuyệt vời hơn.
Ông già ấy là người đứng đầu của đoàn người này. Và Samoa khẳng định rằng ông ắt phải là một thầy tế của đất nước nơi những người Dân Đảo thuộc về, rằng chiếc xuồng không gì khác ngoài một trong những chiếc xuồng thánh của họ, đang trên một cuộc hải trình cúng tế nào đó. Hết thảy điều này chàng suy ra từ mũi tàu giống bàn thờ, và trên đó không có phụ nữ.
Quyết dàn hoà với ông thầy tế, tôi thả vào xuồng một chiếc khăn lụa khác trong khi Samoa lớn tiếng bảo rằng chúng tôi chỉ có ba người và đến trong hòa bình. Trong lúc ấy, ông già Aaron[2] buộc chặt hai tấm vải lụa chéo vai, như một dải ca rô vùng Cao Nguyên, ngồi xếp bằng và đưa mắt nhìn chúng tôi.
Đó là một cảnh tượng lạ kỳ. Ông thầy tế già, như một cuộn da cũ, trên người phủ khắp những biểu tượng chữ tượng hình, tôi dám chắc, còn khó giải nghĩa hơn bất kỳ thủ bản tiếng Phạn nào. Và trên vầng trán rộng của ông, những nếp nhăn khắc sâu là những ký tự còn bí ẩn hơn mà không Champollion[3] hoặc nhà du mục nào có thể giải mã được. Ông trông già như những ngọn đồi cao niên; mắt trũng nhưng sáng, và đầu bạc như đỉnh Mont Blanc.
Những người còn lại là một bọn trẻ trung và dễ coi: nước da của họ như màu rượu Gold Sherry, tất cả bọn họ đều xăm trổ theo cùng một kiểu: hai sọc chéo rộng trên ngực và lưng; dài xuống thắt lưng, như quân trang lính bộ binh. Mặt họ đầy biểu cảm và miệng họ toàn răng đẹp, đến nỗi chỉ cần hé môi là như trai ngọc hé miệng. Được đánh dấu khắp người theo lối Tahiti những hình tròn nhỏ màu xanh, chấm ở giữa với một vết đỏ son, cặp đùi nâu rắn chắc của họ chẳng khác gì giăm bông Westphalia lấm chấm bụi đỏ Cayenne.
Nhưng quả là một tương đồng tuyệt vời trong đặc điểm của tất cả mọi người. Có phải họ sinh cùng một lứa? Sự tương đồng ấy càng tăng nhờ những dấu vết đồng nhất của họ. Nhưng rồi lần lần ta biết rằng họ là những đứa con của cùng một cha; và người cha ấy, ông già Aaron, chắc chắn nương tựa vào những đứa con của mình như một vị tướng già vào những chiến tích thời trẻ.
Họ là con của nhiều bà mẹ, và ông đang truyền dạy cho họ làm thầy tế[4].
CHƯƠNG XLI
MỘT CUỘC CÔNG KÍCH
Những người lạ nhất quyết che đậy danh tính và mục đích chuyến đi của họ, đến độ phải một lúc chúng tôi mới có được thông tin mong muốn.
Họ chỉ về hướng chiếc lều, như thể nó thuộc vào Lễ bí truyền Eleusinia. Và ông thầy tế già cho chúng tôi hay rằng bước vào đấy sẽ là báng bổ.
Nhưng hết thảy việc này lại làm dấy lên trong tôi lòng hiếu kỳ muốn làm sáng tỏ cái kỳ quan ấy.
Sau cùng tôi cũng thành công.
Trong chiếc lều bí ẩn ấy ẩn giấu một thiếu nữ đẹp. Và theo một tập quán man dã, nàng được Aleema, ông thầy tế, dâng làm lễ vật từ đảo Amma để tế các thần Tedaidee.
Bấy giờ, khi được nghe về người thiếu nữ, tôi chẳng chờ đợi gì nữa sất. Cần phải nói thêm, lòng tôi đã bị khuấy động biết chừng nào về lễ vật hiến sinh vô hình này, và tôi còn dốc lòng thề rằng dòng máu quý giá của nàng sẽ không bao giờ được tỏa khói trên bàn thờ. Dù có phải chết đuối vì chuyện này, tôi cũng quyết cứu nàng bằng được. Nhưng cho đến giờ, không một dấu hiệu hiểm nguy nhỏ nhất phát ra từ chiếc lều vẫy gọi chúng tôi tới. Từ nơi ấy, chẳng một tiếng động phát ra, trừ một tiếng sột soạt hàn hữu trên thảm. Có thể nào một người sắp bị hiến tế lại có thể yên ổn với phận mình như vậy?
Nhưng đúng là liều khi quyết giải thoát người thiếu nữ, tốt nhất là tính đường cho cẩn thận. Tôi chẳng muốn đổ máu; lợi thế chẳng nghiêng về chúng tôi.
Ông thầy tế già có vẻ kiên quyết ngăn chúng tôi cập xuồng của ông. Nhưng cũng kiên quyết không kém, tôi thận trọng đưa mũi thuyền Dê Biển đụng vào hông xuồng, nhằm tạo ít khả năng để họ lên thuyền chúng tôi với thái độ thù địch nhất. Thế rồi, Samoa tai đeo dao vD tôi với thanh đoản kiếm bước lên bục, để Jarl ở mũi thuyền cùng cây lao móc phòng bị, ba khẩu súng hoả mai đã lên đạn đặt bên. Ông được lệnh phải chống trả ngay lập tức nếu kẻ địch manh động trèo qua thuyền chúng tôi.
Khi chúng tôi cập xuồng, những người Dân Đảo từ từ rút đi, cùng lúc thì thầm hội ý rất lung, hết thảy trừ ông thầy tế già, người vẫn còn đang ngồi, bày ra một bộ mặt bất khuất dẫu băn khoăn. Trước niềm kinh ngạc của chúng tôi, ông ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống bên ông; chúng tôi ngồI, song cũng cẩn thận không để mất liên lạc với Jarl.
Với hy vọng khơi được thiện chí, khi ấy tôi mới lấy ra một cuộn vải cotton in và trải nó ra trước mặt ông thầy tế, hướng sự chú ý của ông vào những trang trí họa đồ bên trên, với hàng trăm hình những thủy thủ đang cùng lúc leo lên hàng trăm giàn đồng nhất những dây buồm. Liếc qua chúng một lúc, nhờ một dấu hiệu ý nhị, ông cho tôi hiểu rằng rất lâu trước đây, chính ông cũng từng leo lên giàn dây níu một con tàu. Khi đưa ra ám hiệu ấy, sắc mặt ông tối sầm với một nét hung dữ, như thể từng xảy ra điều khủng khiếp có liên hệ với kỷ niệm ấy. Nhưng rồi nó cũng qua, và có phần đột ngột, ông tỏ vẻ hớn hở lắm.
Khi chúng tôi ngồi cùng với nhau như vậy và toàn bộ tâm hồn tôi tràn đầy những suy nghĩ về người bị giam giữ cùng kế hoạch hay nhất để đạt được mục đích của mình, và thường xuyên đưa mắt nhìn về phía lều, bỗng tôi để ý thấy một chuyển động giữa mấy người lạ. Gần như cùng một lúc, Samoa, ngay trước mặt Aleema, với giọng bình bình, bảo tôi hãy coi chừng đấy vì những trò ấp ủ trò tai quái nào. Lời cảnh báo ấy hầu như không được thốt ra, trong khi, tay cầm những gậy gộc khắc chạm, những người Dân Đảo đã hoàn toàn bao vây chúng tôi. Đoạn ông thầy tế già đứng dậy và cho chúng tôi biết rằng chúng tôi hoàn toàn nằm dưới quyền ông, nếu như chúng tôi không dứt khoát lên thuyền mà rời đi ngay tức khắc và không quấy rầy ông nữa thì tai họa sẽ giáng xuống chúng tôi.
“Đi thì mi sống; ở thì mi chết.”
Mười lăm người chọi ba. Có điên mới cãi lệnh ông. Nhưng người con gái đẹp đang gặp nguy hiểm.
Con dao trước đó còn lủng lẳng bên tai Samoa giờ đang ở trong tay chàng. Jarl la lớn hò chúng tôi trở lại thuyền, vài người Dân Đảo lao tới. Không có thời gian để nghĩ. Tất cả đều diễn ra nhanh hơn có thể nói được. Họ tiến sát vào chúng tôi, để đẩy chúng tôi khỏi xuồng. Ông thầy tế già thô lỗ thúc tôi từ bên sườn, uy hiếp tôi với con dao găm, gai sắc của một con cá. Đã đẩy mà lại còn đe! Trước khi tôi kịp nhận ra, thanh đoản kiếm của tôi đã thọc nhanh tới. Miệng ông thầy tế thốt ra tràng chửi rủa; máu đỏ chảy bên sườn; ông già lảo đảo, chằm chằm tự nhìn mình, và như một cây độc cần úa nâu, ông ngã nhào xuống biển. Một tràng chửi rủa dấy lên trong không khí. Một tiếng thét điên cuồng vang lên từ trong lều. Phá đường thoát thân giữa đám đông, chúng tôi vai kề vai lao về thuyền. Nhảy phóc lên trên, chúng tôi thấy Jarl đang đấu với hai tên Dân Đảo, trong khi số còn lại vẫn đang hú hét trên bục. Thịnh nộ và tai ương hầu như khiến họ bất lực.
Bằng một cú thọc kiếm, tôi cắt được dây buộc chúng tôi với xuồng và cùng Samoa lao vào hai tên Dân Đảo, với Jarl giúp sức, chúng tôi nhanh chóng chế ngự được họ, đè họ xuống đáy thuyền.
Ông Giời và Samoa khoá tay mấy kẻ bị bắt giữ, còn tôi nhanh chóng căng buồm; chộp lấy dây buồm ở thanh quấn, chúng tôi mau chóng lao khỏi xuồng. Những người lạ bằng những giáo mác thách thức chúng tôi; một số hướng chúng về phía chúng tôi như thể định phóng trong khi số khác giơ tay chặn, như thể ngăn họ khỏi gây nguy hại đến các anh em mình trên chiếc Dê Biển.
Các sự kiện có vẻ rủi ro lại thường dẫn đến những kết quả thắng lợi. Không hề triệt tiêu toàn bộ cơ hội giải cứu những kẻ bị bắt giữ, cuộc rút chạy tạm thời của chúng tôi, bắt buộc phải có để giữ an toàn cho Jarl, chỉ khiến cho phi vụ của chúng tôi thêm thành công. Bởi đã có hai trong số mấy người lạ đã bị bắt, tôi quyết định giữ họ làm con tin, để thông qua họ mà thực hiện kế hoạch của tôi mà không phải đổ thêm một giọt máu nào.
Và từ đây ta cũng cần phải kể lại, rằng vài người bản địa đã bị thương trong cuộc công kích, trong khi cả ba người đã tấn công họ thì nhận được một vài vết bầm.
[1] David và Goliath trong 1 Samuel 17.
[2] Mượn hình ảnh Tư tế Aaron trong sách Exodus
[3] Jean-François Champollion (1790 – 1832) nhà ngữ văn học và Đông Phương học người Pháp
[4] Tư tế Aaron và các con trai trong sách Numbers 3, 1 – 4
Melville
Billy Budd (1924)
Mardi (1849)
Jacket trắng (1850)
Hawthorne và Rêu của ông (1850)
Người 'Gee (1853)
Người kéo vĩ cầm (1854)
Pudding của người nghèo và mẩu vụn của người giàu (1854)
Jimmy Rose (1855)
Ngắn (1855-1856)
Cúc-cà-cúc-cu (1856)
Tôi và ống khói của tôi (1856)
Nước Mỹ ấy
Hawthorne (1804–1864)
Edgar Allan Poe (1809–1849)
Thoreau (1817–1862)
Melville (1819–1891)
William James (1842–1910)
Henry James (1843–1916)
Edith Wharton (1862–1937)
Gertrude Stein (1874–1946)
Ezra Pound (1885–1972)
Philip Roth (1933 –2018)
Marilynne Robinson (1943)