Melville: Mardi (kỳ 10)
Tiếp tục phơi ơ tông Mardi sau một tuần nghỉ.
Kỳ trước, "tôi" cố gắng lục tìm các dụng cụ hàng hải và nhật trình khắp tàu, hòng quay lại kiểm tra địa điểm thảm sát hoặc về Hawaii nhưng không thấy. Họ quyết định tiếp tục đi về phía tây, giữ hy vọng sẽ gặp một hòn đảo hay cánh buồm. "Tôi" chính thức nhận quyền chỉ huy, tổ chức lại tàu, cho giăng buồm, căng dây, và chỉnh trang mọi thứ, lần đầu tiên cảm nhận niềm kiêu hãnh của một thuyền trưởng giữa đại dương hoang vu.
CHƯƠNG XXXII
XIPHIUS PLATYPTERUS
Dạo ấy, cảnh hiu quạnh trong cuộc hải trình của chúng tôi đã được dịu bớt nhờ một sự kiện đáng tường thuật.
Kể từ khi đi khỏi Quần Đảo Vỏ Trai Ngọc, con tàu Parki đã luôn được những loài cá nhỏ bơi theo sau, làm cho biển trở nên sôi nổi dễ chịu, và chúng cứ theo đàn mà bơi dọc mạn tàu. Nhưng Jarl và tôi hoài công kiếm tìm giữa hàng ngũ của chúng loài Cá Thuyền nhỏ xanh thép bấy lâu nay vẫn đưa đường dẫn lối cho thuyền Dê Biển. Có lẽ từ khi Dê Biển được khô ráo trên boong tàu Parki, những nhà tiên phong tươi tắn nhỏ nhắn ấy đã lẩn mất dạng, sâu dưới làn nước mặn, đua dọc sát sống tàu.
Nhưng đâu phải về Cá Thuyền mà lúc này chúng tôi hầu chuyện.
Vào một buổi sáng nọ, sự chú ý của chúng tôi hướng về một cuộc bạo động dưới nước. Hàng đàn những chú cá nháo nhào lao mình, phóng lên không trung trong nỗi khiếp sợ tột bậc. Samoa giải thích rằng kẻ tử thù của chúng, loài Cá Kiếm, hẳn đang theo sau chúng.
Và xin cho tôi được nói đôi lời, rằng trong hết thảy những tên bá quyền, những kẻ khoác lác, những phường du côn, những bè giặc cướp, những vị Hector, những bậc quân ngư, những nhà du hiệp, những đảng cướp đường, những tay thích khách, những nòi cướp cạn, những người dũng sĩ, những đấng anh hùng bất tử bơi ngoài biển khơi, loài Cá Kiếm Ấn Độ đến nay là loài nổi bật hơn cả, tôi xin đề tặng chương sách này dành riêng để tả về chiến binh ấy. Khi làm như vậy, tôi chỉ noi theo cái tiền lệ theo đó những nhà chép sử và nhà sử học, người bạn Peloponnesia của tôi là Thucydides cùng những người khác luôn dành nhiều thời gian để tường thuật về những kẻ hủy diệt trứ danh, mục đích chắc hẳn là để giữ chúng làm mẫu mực cho thiên hạ.
Loài cá được đề cập ở đây là một sinh vật rất khác với loài Cá Kiếm thường thấy ở Bắc Đại Tây Dương: lớn hơn về mọi mặt và lại còn là một chú tiểu đồng hăng hái hơn. Chú còn được gọi tên là Cá Kiếm Ấn Độ để phân biệt với một loài trùng tên mà ở trên có nhắc. Nhưng theo các thủy thủ ở Thái Bình Dương, chú thường được gọi là Cá Giáo, còn đối với những ai ham mê khoa học và ưa thích những cái tên đúng trong sách vở thì ta cứ biết, rằng giữa các nhà tự nhiên học uyên bác với nhau, chú được biết dưới cái tên lạ lùng là “Xiphius Platypterus”.
Nhưng tôi xin miễn cho người anh hùng của tôi hết những biệt hiệu này và thay bằng một cái tên hay hơn nhiều do chính tôi tự đặt: xin thưa, Kỵ Mã. Và quả thực chú là một Kỵ Mã, có quy củ và tước hiệu hẳn hoi: một quý ông đích thực sống cùng một thời đại tươi đẹp với Black Prince Edward, khi hết thảy các quý ông thành danh nhờ lưỡi kiếm, trong khi thời nay, ngoại trừ Cá Kiếm, các quý ông đa phần được nhận ra nhờ đôi ủng bóng loáng và ba toong song.
Một Kỵ Mã can đảm và vui vẻ chính là anh hùng của chúng ta, lên đường với thanh kiếm Tolodo dài luôn rút sẵn của chú. Chú sẽ chiến đấu với bạn lút cán, vì lưỡi kiếm bằng xương của chú chẳng bao giờ có vỏ. Bản thân chú đã mang nó từ khi mới sinh - phải phải, ngay vào lúc chú lao mình vào Cuộc Chiến Đời, cũng như chính chúng ta vậy, những người trần mắt thịt, vốn trần truồng và không bao chẳng bị lao vào thế giới này. Chính chúng ta lại là những vỏ kiếm của tâm hồn mình. Và thứ tâm hồn trút kiếm của bậc kỳ tài còn sáng hơn mã tấu của Saladin. Nhưng biết bao nhiêu người đã để mặc cho lưỡi kiếm của họ ngủ yên, đến khi chính nó ăn vào cả vỏ, và cả hai mục ruỗng thành từng mẩu sắt gỉ. Bạn có bao giờ được nhìn thấy những cồn vụn sắt của những mỏ neo Tây Ban Nha xưa và cả những cán neo của những con tàu chiến cổ dưới đáy Vịnh Callao chưa? Thế giới này đầy rẫy những Tháp xưởng quân giới cũ, những binh xưởng Venetia đổ nát và những trường kiếm han gỉ. Nhưng những chiến binh đích thực thì đánh bóng thanh kiếm của họ bằng những tia sáng ban mai, đeo kiếm trên những thắt lưng can đảm của mình, dè chừng những vết hoen gỉ như dè chừng kẻ thù, và nhờ những nhát đâm chắc nịch và cú stoccado mà các thanh thép của họ luôn được giữ cho thật bóng và thật bén, như những ngọn giáo Cực Quang xông pha khắp Greenland.
Đá đánh lửa phát ra thứ ánh sáng làm điên tiết viên Kỵ Mã của chúng tôi. Chú núp bóng ở nơi sống tàu giao với đường chú đi và lao một mạch chúi đầu vào đấy, bằng thanh kiếm Andrea Ferrara của chú đâm bừa một cú gọn ghẽ hết mực, chẳng hiếm phen bị cụt mất nửa, như tên du côn bỏ dao găm trong nỗi sống còn kẻ thù mình.
Có trường hợp một tàu Anh Quốc, tàu Foxhound, đã bị lưỡi kiếm đâm thấu phần đặc nhất của thân, là mũi tàu, xuyên hẳn qua những tấm tôn đồng và các thớ gỗ và nhô ra vài inch trong hầm tàu. Trên chuyến tàu về London, nó đã được người ta cẩn thận cưa và được đóng vào lớp gỗ ban đầu như một vật hóa thạch, nay vẫn được giữ nguyên. Nhưng đây chỉ là một cuộc tấn công tương đối vô hại của viên Kỵ Mã gan dạ. Trường hợp tàu Rousseau của Nantucket thì còn hiểm hóc hơn. Con tàu gần như bị đâm chí tử và kẻ tấn công nó đã rút kiếm. Chỉ bằng cách giữ cho các máy cọc cạch bơm thì tàu mới có thể xoay xở về được tới cảng Tahiti, “nghiêng mạn” và được một phẫu thuật gia tàu thuyền lấy hắc ín và xơ thừng mà băng bó vết thương. Tôi đã được gặp con tàu này ngoài biển, không lâu sau thảm họa ấy.
Sau trận đấu thương đầy ác nghiệt, viên Kỵ Mã của chúng ta đã quân bị cho mình tại xưởng quân giới nào, đây là điều không hề dễ nói. Nhưng thật khổ cho chú nếu phải lao vào trong các trường đấu ấy, kiếm chẳng mang lẫn vũ khí đã tước, phó mạng cho một tên cá mập hèn hạ nào đó mà chú gặp.
Bấy giờ, thấy rằng các bạn đi biển của chúng tôi, những chú cá nhỏ dọc mạn tàu, đã bị hành hạ ác liệt và giết thịt bởi những cuộc tập kích của viên Kỵ Mã cố chấp, ra sức săn chúng để dọn một bữa điểm tâm thịnh soạn, tôi định thay mặt chúng mà xen vào và bắt giữ kẻ thù.
Với một lưỡi móc cá mập và dây câu, tôi đã thắng lợi và đưa quý ông can đảm của tôi lên tàu. Chú đáp boong gọn ghẽ, đập vào ván tàu bằng chiếc đuôi vạm vỡ, trong khi một thước rưỡi trước chú chìa ra thanh kiếm dễ sợ của mình.
Với vai trò là người thắng cuộc, tôi được phép trói tay kẻ bại trận; thế là, nhanh chóng giải quyết chú và cưa đứt thanh Toledo, tôi lấy nó làm chiến tích. Thanh kiếm ấy có ba mặt, mỗi mặt hơi lõm như một thanh đoản kiếm, tầm ba inch tính từ gốc, rồi từ đấy thon dần thành một mũi nhọn.
Và dẫu không được rèn ở Tagus hoặc Guadalquiver, nó vẫn nhô khỏi bề mặt cái nét nhám gợn sóng và vảy nước mà chỉ các thanh kiếm đáng tin cậy của Tây Ban Nha mới có. Nó là một thanh kiếm có hương thơm - như vua Hồi cổ đại, ngát xạ hương do ma sát. Nhưng khác xa với lưỡi sắt ở Tagus hoặc Damas, nó cứng như họng súng trường của Crocket, chắc hẳn cũng chí mạng chẳng kém.
Đã lâu tôi treo thanh trường kiếm ấy trên đầu võng của mình. Chẳng phải nó đã được ca ngợi thành truyện như thứ kiếm sắc của Bayard gan dạ, một viên kỵ mã khác ư? Thanh kiếm của hiệp sĩ hẳn cũng đã giết cả hai chục hoặc năm chục mạng; nhưng thứ vũ khí mà tôi có trong tay thì chắc chắn đã xiên và đâm hàng ngàn.
CHƯƠNG XXXIII
OTARD
Và đây là một chuyện nhỏ khác.
Vào một chiều nọ khi một mình hiếu kỳ tiến vào hầm tàu, tôi hầu như đã thu được bằng chứng không ngờ rằng viên thuyên trưởng xấu số tàu Parki là người có óc phán đoán sáng suốt và là người biết hưởng thụ. Ngắn gọn là, tôi đã phát hiện được một thùng thơm phức rượu Otard cổ loại thượng hạng.
Tôi nào có ý nhận xét thiếu cân nhắc về những gì có liên quan trực tiếp tới viên thuyền trưởng bất hạnh. Đằng khác, tôi cũng chẳng giống một kẻ đưa ma không thể nguôi ngoai, người đã bọc cuốn sách hài của Joe Miller của bạn mình quá cố bằng vải tang đen để bày tỏ nỗi buồn. Mọi sự chẳng phải đều có chừng mực, có mức độ hay sao?
Nhưng ta hãy cho qua. Tôi đã tìm thấy thùng rượu Otard và uống ực, hơn thế nữa lại còn nhận thấy niềm khoan khoái tột bậc trong khẩu vị, và thấy lòng mình mừng rỡ reo vui. Thôi thúc kế tiếp của tôi chính là chia sẻ món quà trời trao ấy với các bạn tàu tôi. Nhưng ở đây, một suy nghĩ khôn ngoan lại xen vào. Từ các vị đế vương ngoài khơi, tổ tiên của ông, ông Viking được thừa hưởng một trong số những đức cốt lõi, ấy chính là niềm ghét và kinh tởm hết thảy những thức rượu mạnh và rượu chát, đến độ chẳng bao giờ muốn thấy bất kỳ thức uống nào, thế nên phải liền tay nốc cạn một hơi. Nói gọn, cũng như Alexander Đại Đế và những bậc hoàng thân khác, Jarl có tật uống như hũ chìm. Và tuy ở ngoài biển thì tỉnh táo hơn cả Fifth Monarchy Elder, thì đấy chỉ là vì lúc ấy ông được cất khỏi cơn cám dỗ mà thôi. Nhưng khi tiết lộ phương diện yếu đuối của ông Viking như vậy, tôi tha thiết mong rằng nó sẽ chẳng làm ông mất mặt trong bất kỳ đánh giá của bất kỳ con người độ lượng nào. Chỉ cần nghĩ rằng ngoài kia còn biết bao nhiêu người như ông - ấy còn chưa bàn sâu về Alexander Đại Đế, nhất là giữa tầng lớp của ngài; và xin hãy cân nhắc, tôi khẩn nài, rằng những người bạn có tâm hồn rộng rãi nhất, vì chính lý do ấy, lại là những người phù hợp nhất cho những cuộc rót rượu quá hào phóng; vì do quá rộng lòng, họ có nhiều nỗi vui sướng hơn người khác.
Về phần Samoa, từ sự im lặng tuyệt đối của chàng cho đến nay đối với bất kỳ thứ gì có men trên tàu, tôi kết luận rằng, cùng những bí mật khác, viên thuyền trưởng quá cố đã rất khôn ngoan mà đem giữ thứ rượu Otard cho riêng mình.
Tôi cũng chẳng nghi ngờ gì ngoài việc anh Upolu, cũng như hết thảy những người Polynesia khác, thích cho đầu óc được khoan khoái và trong trạng thái ấy sẽ còn cứng đầu hơn cả heo mọi Rừng Đen. Còn về Annatoo, tôi rùng mình nghĩ, thứ rượu Otard ấy có thể châm lửa biến nàng thành một Nữ Thần Báo Thù còn dữ dằn hơn những vị thần từng đuổi theo Orestes.
Có lúc tôi suy nghĩ về cái tai hại khi công bố phát hiện của mình; tôi nghĩ về nghĩ đến những hiểm họa âm ỉ, lười biếng, và luôn rình rập của chuyến hải hành này, mà khốn nhất là khai tâm một thứ thức uống gây ngất ngây cho các bạn đồng hành của tôi, tôi quyết định giấu nó khỏi tất cả bọn họ.
Tôi bị thuyết phục bởi lập luận ấy đến mức, trong một thoáng, tôi đã suýt lăn thùng tô-nô, tháo nút và xót xa nhìn thứ chất lỏng bên trong hòa cùng thứ nước bẩn dưới hầm tàu.
Nhưng không, không. Pha loãng thứ nước muối hôi hám kia bằng linh hồn chưng cất gấp đôi của quả nho quý giá? Hồn ma Hafiz sẽ hiện về ám tôi mất!
Thế là một lần nữa, y học nhập cuộc; và Paracelsus đứng ra đỡ đầu cho mỗi cốc được uống vì ích lợi của dạ dày. Vậy là rốt cuộc, tôi quyết định để nó lại đúng chỗ của nó: thi thoảng ghé thăm, chỉ một mình tôi, nhằm mục đích kiểm tra.
Nhưng để thay cho lời khuyên đến tất cả các vị chỉ huy, xin cho tôi có đôi lời rằng, nếu kho Otard của quý vị có bị phơi bày trước mắt - khi ấy, vào cái giờ dữ lúc chìm tàu, thì hãy đập vỡ chiếc thùng rượu mạnh của quý vị trước khi đi dây con thuyền cứu sinh.
CHƯƠNG XXXIV
HỌ LÁI TÀU THẾ NÀO
Khi chúng tôi rời chiếc thuyền Dê Biển để lên tàu brigantine, chúng tôi hẳn phải cách ít nhất hai trăm lý về hướng tây so với địa điểm mà chúng tôi từng bỏ tàu Arcturion trước đó. Còn chuyện chúng tôi đã đi xa tới đâu, là Bắc hay Nam của Xích Đạo, thì tôi không thể đoán chắc được.
Nhưng việc chúng tôi không cách đường Xích Đạo được khoảng nào đáng kể có vẻ đã thật rõ ràng. Bởi vì trong những đêm sao sáng nhất, hoàn toàn không thấy dấu hiệu của các chòm sao cực, dù chúng tôi vẫn thường xuyên dõi theo cả đường chân trời phía Bắc lẫn phía Nam để tìm. Đối với những ai quen quan sát bầu trời ngoài biển, thì chỉ cần chênh vài độ vĩ độ thôi là có thể nhận ra sự khác biệt rõ rệt trong dáng vẻ của thiên thể gần mép trời.
Nếu giả thiết của tôi về kinh độ vào thời điểm đó là đúng, và tính cả phần đường ít ỏi đã đi được trên chiếc Parki, thì ta còn cách đất liền mình tìm khoảng một trăm hải lý nữa. Nhưng vì những lý do hiển nhiên, không thể nào xác định chính xác ta sẽ còn phải trôi bao lâu nữa trước khi thấy đất liền. Những đợt biển lặng, gió nhẹ và dòng hải lưu đã khiến mọi thứ thành ra bất định. Mà chúng tôi đã chẳng có phương pháp ước lượng tiến độ hướng về phía tây, ngoại trừ cái mà người ta gọi là Dẫn Đường Dự Tính[1] - tức là tính số hải lý đã đi mỗi giờ, có điều chỉnh theo những sai lệch ước đoán khỏi hải trình dự kiến, do tác động của các dòng hải lưu vốn ở vùng Thái Bình Dương này đôi khi chảy rất xiết.
Bấy giờ, xét về nhiều mặt, chúng tôi thấy an toàn trên tàu Parki hơn là trên chiếc Dê Biển. Số người tham gia càng lớn, cảm giác về nguy hiểm càng giảm rõ rệt. Kẻ nào sắp tuyệt vọng lúc lạc lõng nguy nan thì được nên can đảm nhờ sự hiện diện của người khác. Nhờ được ở giữa bạn bè, sự bình tĩnh và an ủi càng tăng.
Tuy vậy, trên tàu lại có nhiều nguồn cơn khó chịu và lo lắng mà khi còn ở trên thuyền săn cá voi chưa hề có. Quả thực, giữa chúng tôi và biển sâu lúc này là năm trăm tấm ván tử tế hợp thành một bè trên mẩu thuyền bồng bềnh của chúng tôi. Nhưng tàu Parki thì cần nhiều chăm sóc và lưu ý hơn, nhất là về đêm, khi một người canh tàu can đảm là điều không thể thiếu. Với chiếc thuyền săn cá voi trước kia, ta có thể liều lĩnh áp sát bãi cạn hay rạn san hô mà không sao; còn bây giờ, một sự bất cẩn hay liều lĩnh tương tự có thể khiến tất cả những ai có mặt trên tàu phải trả giá bằng mạng sống.
Dưới ánh nắng vui tươi, dong buồm qua làn nước lấp lánh, tôi không mấy phiền hà vì những mối lo nghiêm trọng; nhưng khi màn đêm buông xuống, mọi chuyện lại hoàn toàn khác. Và những nỗi lo sợ, đúng ra là những nỗi khiếp sợ mà tôi cảm nhận được, đã tăng lên nhiều nhờ tính cẩu thả của cả Jarl lẫn Samoa, khi họ trực phiên đêm. Lắm phen tôi phát hoảng trối chết và căng mắt nhìn kỹ đường chân trời tối tăm, khi thức dậy từ giấc ngủ mơ màng tôi phát hiện người lái tàu, mà trong tay người này đây là sinh với tử, đang an giấc đứng tựa vào cần lái, ở đấy như một vật cố định, như một con rồng há mồm tạc xẵng nơi mũi tàu.
Nếu không vì trên boong của những con tàu khác, chính tôi đã từng nhiều lần gà gục bên vô lăng lái mặc cho mọi đấu tranh, thì tôi cũng hầu như sẽ chẳng biết thanh minh ra sao cho sự bất ý này của các đồng bạn tôi. Dẫu vậy, tôi vẫn cho rằng chỉ riêng việc ý thức được hoàn cảnh của chúng tôi thôi cũng đã đủ để khiến bất kỳ ai tỉnh táo suốt đêm canh gác.
Trường hợp của Samoa, ngủ gục bên cần lái, thì thật là kinh khủng. Đôi ngọc mắt mèo của chàng chỉ hé mở; chúng hướng về phía ánh sáng la bàn, ánh lên giữa hai hàng mi như hai vành lửa. Lại còn cả vóc người khổng lồ và nét mặt man dã của chàng nữa.
Vô ích khi tôi khiển trách, van xin, đe dọa: cái bệnh ngủ gật hàn hữu của các bạn tàu tôi đã tỏ ra vô cùng nan y. Cũng thật vô ích khi tôi nhắc cho ông Viking nhớ rằng ngủ trong phiên canh đêm trên một con tàu như của chúng tôi khác xa với sự vô ý tương tự trên boong tàu Arcturion. Trên Arcturion, vị trí của ta trên biển luôn được xác định rõ, cũng như khoảng cách đến đất liền; thế nên vào ban đêm các thủy thủ được ngủ gà ngủ gật, nhưng chủ yếu là vì thuyền trưởng biết rõ rằng có thể bỏ qua được sự thận trọng nghiêm ngặt.
Tuy trong mọi vấn đề khác, Ông Giời tỏ ra là một người bạn đồng hành đáng tin cậy hơn cả, nhưng chỉ trong mỗi chuyện này thì ông lại trì độn, hoặc say sưa đến mức quái đản. Hoặc, biết đâu chừng, việc được một lần nữa thấy mình trên một con tàu hai boong đã khơi lại trong ông cảm giác về khoảng thời gian trước đây, khiến ông đắm chìm trong sự an toàn giả dối.
Còn Samoa, chứng ngủ gật của chàng thuộc loại quyết ngủ cho bằng được: hoặc là thấy chiêm bao, hoặc là thấy tử thần. Anh chàng dường như hoàn toàn không ý thức về nỗi nguy hiểm mà chúng tôi phải đối mặt. Tôi thường cho anh man dã ngái ngủ xuống boong, và đích thân tôi lái tàu đến sáng. Sau cùng tôi có lý do ngủ ngày thật nhiều, để khi tối trời còn trực đêm cho thêm phần tử tế, dẫu rằng tôi đã cắt đặt Samoa và Jarl thường gác những phiên bốn tiếng mỗi người.
Như trước đây đã có đề cập, phiên canh của Annatoo là ở vô lăng lái, nhưng chỉ là vào ban ngày. Và công bằng mà nói, tôi phải thừa nhận rằng nàng chu toàn rất tốt. Vì mặc cho khuôn mặt quyến rũ phản chiếu trên la bàn lờ mờ cuốn lấy những ghé mắt của nàng, suy cho cùng Annatoo rất nghiêm túc với việc lái tàu. Quả thực nàng lấy làm hãnh diện ở đấy lắm, luôn sẵn sàng khi tới phiên với độ chính xác tuyệt vời, đúng giờ xoay phiên không sai một giây. Đồng hồ của nàng là của chúng tôi, là vầng mặt trời. Về đêm, đó hẳn phải là ngôi sao chiếu mệnh của nàng, vì nàng thường hay chằm chằm nhìn vào một vị trí nhất định trên trời, như một người xem số trên mặt một tháp đồng hồ.
Bằng thứ lý luận kỳ quái thế này thế nọ, nàng đã phỉnh phờ bản thân tin vào cái ý niệm, rằng hễ khi nào ai lái con tàu brigantine thì khi ấy người đó là thuyền trưởng. Vì lẽ ấy, nàng tự cho mình cái vẻ yêng hùng ở cần lái; với những cử chỉ ngông cuồng đưa ra những mệnh lệnh khó hiểu nào là điều chỉnh buồm, nào là rướn khỏi ra mạn tàu để xem chúng tôi đi nhanh cỡ nào. Toàn bộ điều này tiêu khiển cho ông Viking rất mực, lắm phen phát ra một trận cười, và là một trận cười to và sảng khoái: một hiện tượng đáng ký sự.
Bấy nhiêu điều về Annatoo như vậy là để mào đầu cho điều tôi sắp nói. Khi thấy Jarl và Samoa ngủ gật ngủ gà, buộc tôi phải thức canh tàu và chỉ có thể nghỉ vào ban ngày - chính lúc tôi thích được tỉnh táo hơn nhiều, tôi đã quyết định giao luôn cho Annatoo những phiên canh đêm ấy; nhiều lần nàng đã gạ gẫm lại cho tôi; cùng mắng nhiếc tật ngái ngủ của anh chồng nàng, dẫu hạn chế hết thảy mọi nghĩ ngợi về Jarl, người mà nàng đã trở nên quá mức thân thiện.
Chị Calmuc trực phiên đêm đầu tiên thật đáng ngưỡng mộ, nếu không nói là quá mức tỉnh táo. Chỉ lái tàu không thôi cũng không đủ tận dụng được đầu óc linh hoạt của nàng. Đôi lúc nàng cần phải vội chạy từ cần lái để kéo dây buồm mũi[2] thêm một cái, ngay đầu mút dẫn xuống các mép mạn gần đó, sau đó bồi dưỡng bản thân bằng một hai hớp nước và một cái bánh quy, rồi nàng tiếp tục lái tàu, đầy tự mãn trong cương vị của mình. Cứ mỗi tiếng vỗ bất thường của buồm lại có một cú giậm mạnh xuống boong tàu hầu thông báo sự việc cho đoàn thủy thủ hốt hoảng. Nhận thấy sự không biết mỏi mệt như vậy của nàng, tôi sẵn tiện thuyết phục nàng đứng trực luôn cả hai phiên thay cho Jarl và Samoa; và khi nàng ở vô lăng lái thì tôi mới cho phép bản thân mình được chợp mắt trên một chồng buồm cũ trải ra trên boong lái vào mỗi tối.
Chính Ông Giời là người thường khuyên răn tôi “dừng tàu” mỗi đêm để ngăn đà tiến của tàu tới khi trời sáng, một kế hoạch mà dưới những hoàn cảnh khác hẳn có lẽ đã cho phép tất cả mọi người được ngon giấc. Nhưng như đi như vậy sẽ rất khinh suất. Bởi vì khi tàu không tiến về trước thì các dòng hải lưu dồn dập mà chúng tôi gặp phải sẽ tiếp tục cuốn chúng tôi về phía đông; thêm nữa, trái với kinh nghiệm trước đây, gần đây các dòng chảy này có vẻ đã đổi chiều, một hiện tượng tuyệt nhiên không hề hiếm gặp trong khu vực lân cận đường Xích Đạo ở Thái Bình Dương. Và đấy là thứ đã kéo dài chuyến đi về phía tây của chúng tôi quá đỗi. Thậm chí dưới một luồng gió vừa phải, đôi lúc tôi còn tưởng rằng sức gió đã kháng lại lực cuốn của những dòng hải lưu, cho nên cứ tưởng là tàu đi được kha khá, trong khi thực ra hầu như chúng tôi chỉ ở yên một chỗ trên biển.
Các dòng hải lưu xích đạo của các vùng Biển Nam có thể xem như là thứ bí ẩn nhất trong số những điều bí ẩn. Từ đâu mà chúng đến, đến đâu, nào có ai hay? Xin nói cho chúng tôi biết, quy luật tiềm ẩn nào đã điều chỉnh luồng chảy của chúng. Mặc những lý thuyết nào gán cho chúng là một tiến trình hầu như đồng nhất từ đông sang tây, chịu tác động của các ngọn gió hướng về phía đông của đường Xích Đạo và là tác động thêm vào của những dòng Tia, những dòng hải lưu này luôn luôn chuyển dịch. Chu kỳ xoay của chúng cũng không thể nào căn cứ vào hoặc dự đoán được.
Nhưng dù có khó xác định nguyên nhân cụ thể cho các dòng đại dương đến đâu, ở bất kỳ nơi nào trên thế giới này, ta cũng đã thấy rõ một trong số tác động tốt của chúng. Và dù điều sắp nói có lẽ ai cũng biết, vẫn đáng đặt câu hỏi rằng liệu người ta đã thực sự đánh giá đúng tầm quan trọng của nó hay chưa. Ở đây tôi muốn nói đến sự hòa trộn và thanh lọc liên tục của nước biển nhờ các dòng hải lưu.
Vì cái gọi là chất muối đặc trưng giúp thanh lọc nước biển - theo lý thuyết thông thường - cũng đáng bị nghi ngờ. Và cũng khó thể phủ nhận rõ ràng rằng chính những chất muối ấy có thể làm nước biển nhiễm bẩn, nếu không nhờ sự lưu thông mạnh mẽ của các phần tử nước do dòng chảy tạo ra. Các thủy thủ biết quá rõ rằng một xô nước biển được để ngoài nắng trong một vùng khí hậu nhiệt đới sẽ nhanh chóng trở nên rất khó chịu, một điều vốn không xảy ra với nước mưa.
Nhưng tôi không hề xây dựng lý thuyết. Bằng cách lật lại vấn đề, biết đâu một lý thuyết sẽ được phát triển từ phát biểu trên, và cũng xin cho tôi thêm rằng sự khó chịu của nước biển để ngoài nắng có lẽ, ở mức độ không nhỏ, nảy sinh từ chất phân huỷ của động vật.
[1] Nguyên văn dead reckoning, là một phương pháp ước lượng vị trí của tàu dựa trên vị trí ban đầu, tốc độ, thời gian và hướng di chuyển; kèm theo tính toán sai số của các điều kiện ngoại cảnh như dòng hải lưu, gió, và sóng v.v… tuy nhiên phương pháp này cần đối chiếu với quan sát thiên văn để có được kết quả chính xác hơn.
[2] Cần lái là một cán bằng gỗ, hoặc bằng sắt dùng để điều chỉnh hướng tàu, ở một số tàu lớn sẽ có gắn thêm bánh nan hoa cũng được gọi là vô lăng lái; cần lái ở nằm ở boong lái, trong khi dây buồm mũi nằm ở boong bên kia của tàu.
Melville
Mardi (1849)
Jacket trắng (1850)
Hawthorne và Rêu của ông (1850)
Người 'Gee (1853)
Người kéo vĩ cầm (1854)
Pudding của người nghèo và mẩu vụn của người giàu (1854)
Jimmy Rose (1855)
Ngắn (1855-1856)
Cúc-cà-cúc-cu (1856)
Tôi và ống khói của tôi (1856)
Nước Mỹ ấy
Hawthorne (1804–1864)
Edgar Allan Poe (1809–1849)
Thoreau (1817–1862)
Melville (1819–1891)
William James (1842–1910)
Henry James (1843–1916)
Edith Wharton (1862–1937)
Gertrude Stein (1874–1946)
Ezra Pound (1885–1972)
Philip Roth (1933 –2018)
Marilynne Robinson (1943)