favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Hạ 2024
Next

Melville: Mái hiên

30/09/2024 22:56

Melville không chỉ là một nhà văn biển. Trong các Melville ngắn có một câu chuyện đặc biệt, về nhà. Chính khi đọc Melville viết về nhà, ta mới hiểu được vì sao biển lại có thể có vai trò như thế trong sự hình thành ý thức của thế kỷ 19, câu chuyện mà Joseph Conrad và Robert Louis Stevenson cũng là các yếu nhân.

 

Mái hiên

- Herman Melville

Với những loài hoa đẹp nhất,
Tôi
sẽ sống ở đây lúc mùa hạ còn chưa phai, Fidele à...[1]

Khi tôi chuyển tới vùng quê cai quản một ngôi nhà nông trại kiểu cũ, nơi đây không có mái hiên nào - một thiếu sót đầy đáng tiếc, không phải chỉ vì tôi thích hiên nhà, bởi cách nào đó nó kết hợp sự ấm áp trong nhà với tự do của không gian tự nhiên ngoài trời, và người ta rất thích xem nhiệt kế tại đấy, mà còn vì toàn cảnh của vùng quê hệt như một bức tranh, vào mùa quả mọng chín không chú nhóc nào có thể leo đồi hay băng qua thung lũng mà không nhìn thấy những giá vẽ được đặt ở mọi ngóc ngách, và những họa sĩ làn da rám nắng đang ngồi vẽ tranh. Như là thiên đường của các họa sĩ vậy. Vòng tròn của các ngôi sao thì cắt với vòng tròn của những ngọn núi. Ít nhất thì, đó là từ trong nhà nhìn ra, chứ một khi đã lên đến đỉnh những ngọn núi ấy, bạn sẽ chẳng nhìn thấy vòng tròn nào mà chúng tạo ra nữa. Nếu địa điểm được chọn chỉ cách đi năm thước thôi, thì vòng tròn huyền ảo này đã không còn nữa rồi.

Ngôi nhà đã cũ. Bảy mươi năm tuổi kể từ khi ấy, khi ở trung tâm Đồi Đá Hearth họ đã khai quật được đá Kaaba, hay Đá Thánh nơi những Người hành hương vẫn tụ tập về mỗi dịp lễ Tạ ơn. Đó là rất lâu về trước, đến mức, khi đào đất để xây móng, những người công nhân đã phải dùng cả rìu lẫn xẻng để đánh đuổi lũ người Troglodyte còn ở dưới lòng đất - tức là các rễ cây chắc chắn của một khu rừng vững chãi mọc trên nơi, từ thảm hoa anh túc của tôi nhìn ra, giờ là một đồng cỏ trải dài, thoai thoải dốc. Từ cánh rừng chằng chịt ấy, chỉ còn duy nhất một chiến binh sống sót - một cây du, cô đơn mà kiên định.

Bất cứ ai đã xây nên căn nhà này, người ấy đã làm tốt hơn anh ta có thể nghĩ; hoặc là Orion trên thiên đỉnh đã thả thanh kiếm Damocles của ngài xuống cho anh ta vào một đêm đầy sao và nói, “Hãy dựng căn nhà ở đây.” Bởi nếu không, sao người thợ xây ấy có thể nghĩ đến việc, rằng, sau khi khai hoang, anh ta sẽ được dâng tặng cái phối cảnh màu tía đó? - chẳng kém gì ngọn Greylock, với tất tật những ngọn đồi bao quanh của nó, như thể vua Charlemagne giữa các chiến hữu của ông ta.

Giờ đây, với một ngôi nhà ở nơi vùng quê như thế này, không có hiên nhà để phục vụ những kẻ có thể có mong muốn được ngắm nhìn cảnh đẹp, và dành thời gian để tận hưởng nó, nghe thiếu sót như thể một phòng triển lãm tranh thiếu đi mất băng ghế ngồi vậy; bởi phòng tranh của những ngọn đồi đá vôi kia có là gì ngoài các phòng bằng đá cẩm thạch? - các phòng tranh treo, tháng này qua tháng nọ, những bức họa cũ hòa cùng các bức họa mới. Và cái đẹp cũng tựa như lòng kính trọng - bạn không thể vội vàng với nó; sự yên tĩnh và kiên định, cùng với, thứ ngày-nay-gọi-là, một cái ghế thư giãn, là những điều thiết yếu. Xưa kia, hồi lòng sùng kính vẫn còn thịnh còn sự lười biếng là điều hiếm thấy, những kẻ sùng bái T nhiên, chắc chắn, thường đứng nghiêm và bày tỏ lòng ngưỡng mộ của họ - giống như, trong các thánh đường thời đó, các tín đồ tôn thờ Đấng Tối Thượng của họ từng làm - cũng vậy, trong cái thời của đức tin sụp đổ và những đầu gối yếu mềm này, chúng ta có hàng hiên và băng ghế dài.

Trong năm đầu tiên của mình ở đây, tôi đã được ung dung chứng kiến lễ đăng quang của Đại đế Charlemagne (mỗi khi thời tiết cho phép, người ta làm lễ đội vương miện lên đầu ngài mỗi buổi bình minh và hoàng hôn), tôi chọn cho mình một chỗ ở trên sườn đồi bên dải đất dọc theo bờ sông gần đó, một cái ghế nghỉ kiểu hoàng gia được tạo nên từ cỏ - một chiếc ghế nghỉ màu lục bằng nhung êm ái, với đệm lưng là những sợi cỏ dài; trong khi ở phần tựa đầu, kỳ lạ là lại mọc lên (nhưng, tôi cho đó là chỗ in huy hiệu) ba bông hoa violet nhỏ xinh giữa một cánh đồng dâu dại; và một giàn mắt cáo, cùng hoa kim ngân, mà tôi dùng làm vòm che. Quả là một phòng nghỉ kỳ vĩ. Kỳ vĩ tới nỗi, nơi đây, cùng với vẻ đẹp tuyệt mỹ của Đan Mạch ẩn mình trong những vườn cây ăn quả của nó, một cơn đau tai âm ỉ đã xâm chiếm tôi[2]. Nhưng, nếu sự ẩm thấp thỉnh thoảng bao trùm lấy Tu viện Westminster Abbey vì đã quá cũ, thì tại sao nó lại không xuất hiện tại tu viện trên núi này, nơi còn cũ k hơn rất nhiều?

Nơi này nhất định phải có hiên nhà.

Ngôi nhà rất rộng - nhưng túi tiền tôi thì hạn hẹp; vậy nên, việc xây được một hiên nhà có thể bao lấy toàn cảnh, một vòng tròn hoàn chỉnh, là điều không thể - dẫu cho, đương nhiên, xét trên khía cạnh diện tích và số đo, những người thợ mộc, theo lối tử tế nhất, đã rất nóng lòng để đáp ứng các mong muốn xa vời của tôi thành hiện thực, trong khi tôi còn quên mất một foot dài bao nhiêu.

Chỉ một trong bốn hướng sẽ cho tôi điều tôi muốn. Nhưng câu hỏi bây giờ, là hướng nào?

Về phía Đông, thảm cỏ trải dài của Đồi Đá Hearth, xa dần về phía Quito; vào mỗi thu, những bông trắng của sự sống sẽ đột ngột chào đời, vào một buổi sáng se lạnh, từ trên những vách đá cao nhất - bầy cừu non đầu tiên mở mắt chào mùa mới; rồi đến bình minh buổi Giáng sinh, phủ lên các cao nguyên mờ xa bằng những họa tiết sọc đỏ và vải tartan - một cảnh tượng thật đẹp nhìn từ hiên nhà bạn. Cảnh tượng đẹp; nhưng, về phía Bắc là Đại đế Charlemagne - không thể có cùng lúc cả Đồi Đá Hearth lẫn Charlemagne được.

Còn về phía Nam thì có những cây táo. Thật dễ chịu, vào một buổi sáng tháng Năm dịu êm, khi ngồi ngắm vườn cây ăn quả với các nụ trắng vừa nhú, tựa như một cô dâu; và vào tháng Mười, một kho vũ khí được dựng lên ở bãi cỏ xanh; với những nòng súng đỏ nhòe. Rất tuyệt, theo tôi; nhưng về phía Bắc là Đại đế Charlemagne.

Phía Tây, nhìn kìa. Một bãi chăn thả gia súc, với lối mòn dẫn lên đỉnh rừng thông. Mùa xuân mang theo sự ngọt ngào khi men theo tới đỉnh đồi, mà tôi cho là xám xịt và trơ trọi - khi men theo những con đường cũ k đã bám rêu từ lâu. Ngọt ngào, hẳn rồi, tôi không thể phủ nhận; nhưng ở phía Bắc có Đại đế Charlemagne.

Vậy là Đại đế Charlemagne chiếm tiên cơ. Ấy là không lâu sau năm 1848[3]; và, cũng khoảng thời gian đó, các vị vua khắp nơi trên thế giới đều được bầu cử, và họ đều tự bầu cho chính mình.

Đất bắt đầu được đào cũng là lúc tất tật những người hàng xóm, đặc biệt là ông Dive - phá lên cười. Một mái hiên phía Bắc! Một hiên nhà mùa đông! Phản ứng của Dive có lẽ phát xuất từ việc mong muốn được ngắm nhìn Bắc Cực quang vào nửa đêm trong mùa đông lạnh giá, tôi nghĩ vậy; hy vọng là ông ấy có đủ trùm tai và loại găng tay to như tay gấu để giữ ấm.

Đó là chuyện của đầu tháng Ba. Tôi không thể quên được đám thợ mộc mũi xanh lè cùng cách họ cười cợt kẻ non xanh này, kẻ muốn xây dựng cái hiên duy nhất của mình hướng về phía Bắc. Nhưng tháng Ba không kéo dài mãi; kiên nhẫn, rồi tháng Tám đã đến. Và sau đó, trong thiên đường phía Bắc mát mẻ của mình, tôi, Lazarus trong lòng Abraham, ném về phía chân đồi một cái nhìn đầy thương hại dành cho lão Dive già khốn khổ, bị hành hạ trong luyện ngục nơi hiên nhà ở phía Nam của ông ta[4].

Nhưng, kể cả vào tháng Mười hai, cái hiên phía Bắc này cũng không gây khó chịu - dù cho trời lạnh gió giật, và gió Bắc, giống như bất k người thợ xay nào khác, lao qua màn tuyết trắng, thứ bột mì hảo hạng nhất - bởi, lúc này, một lần nữa, với bộ râu đã bị phủ sương trắng, tôi bước đi trên boong tàu đầy mưa tuyết, vượt qua Mũi Sừng.

Và cả vào mùa hè nữa, ngồi ở đây, như thể mình là vua Canute, người ta thường hay nhớ đến biển cả. Không chỉ bởi những đụn đất mấp mô nằm trên mặt đất vốn đã nghiêng, những gợn sóng cỏ nhỏ cuộn lên ở hiên nhà, giống như ở bãi biển, những bông bồ công anh rủ xuống phấp phới tựa tia nước, với dãy núi phía đằng xa thì có màu tím giống như màu của các cơn sóng cuộn, và sự tĩnh lặng của buổi trưa tháng Tám phủ lên những đồng cỏ sâu thẳm, tựa sự tĩnh lặng trên dòng sông Line; mà nữa, sự mênh mông và cô độc của nó thật giống với đại dương, và sự yên lặng cùng tính cách đồng phục cũng vậy, đến mức sự hé lộ đầu tiên của một ngôi nhà lạ, cái mái vươn lên sau những cành cây, như cho cả thế giới thấy rằng mình đang do thám, nơi bờ biển Barbary, một cánh buồm vô danh.

Và điều ấy làm tôi nhớ đến chuyến đi vào đất liền của tôi đến xứ sở thần tiên. Một chuyến phiêu lưu đúng nghĩa; nhưng, nhìn chung, thú vị như thể được hư cấu.

Từ hiên, tôi bắt gặp một vật thể lạ đã nép mình một cách tinh ranh vào trong cái túi áo trước màu tím, cao như một cái phễu rỗng, hoặc vào một góc khuất, giữa những dãy núi phía Tây Bắc - tuy nhiên, chuyện vật thể đó hiện đang ở sườn núi hay trên đỉnh núi, đấy điều không thể xác định được; bởi vì, mặc dù được quan sát từ các góc nhìn có lợi thế, đỉnh núi màu xanh lam tách mình khỏi phần còn lại của dãy, sẽ nói với bạn qua đầu chúng, và nói thẳng với bạn, rằng, mặc dù nó (đỉnh núi màu xanh) nhìn như thể nằm trên dãy núi kia, nhưng thực chất là không phải (thề có Chúa!), và nó sẽ nói cho bạn biết rằng nó tự coi mình - đây lại còn là sự thật nữa chứ - thượng đẳng hơn những dãy núi kia tận hàng sải, tuy nhiên ở trong phạm vi nhất định, như là đây và đó, nó vẫn sẽ xếp trải dài thành hai hàng giống như đang ở trong trung đội, vai kề vai nối tiếp nhau, với các hình thù và độ cao khác lạ của mình, mà từ hiên nhà nhìn ra, sẽ thấy một ngọn núi thấp và gần hơn nằm trên bầu khí quyển, ẩn mình sau những dãy núi to và xa hơn; vậy nên với tất tật các lợi thế ấy, vật thể lạ kia sẽ nấp mình sau sườn núi đó. Những dãy núi này, bằng cách nào đó đang chơi trốn tìm ngay trước mắt ta.

Tuy nhiên, dù sao đi chăng nữa, địa điểm vừa được đề cập, trong mọi trường hợp, nằm ở một nơi mà giây trước ta có thể nhìn thấy nó thật rõ ràng, giây sau đã trở nên mơ hồ, bởi ảnh hưởng của điều kiện ánh sáng và bóng tối đầy ma mị.

Chắc chắn, trong năm vừa qua hoặc từ trước đó nữa, tôi không hề biết rằng có một nơi như thế, và có lẽ, có thể là sẽ chẳng bao giờ biết, nếu không vì một buổi chiều mùa thu - cuối thu - bí ẩn - buổi chiều của một nhà thơ điên; khi những cánh rừng phong chuyển màu trong lòng thung lũng rộng lớn dưới chân tôi, mất đi màu đỏ son, mờ khói, giống như các thị trấn nằm âm ỉ trên đống lửa tìm đến chúng như một con thú săn mồi; và người ta đồn rằng, những làn khói trong không khí ấy không giống với mùa hè Anh-điêng[5] xíu nào - một thứ trước đây nghe không quá kinh khủng, dẫu cho có ghê gớm đến thế nào - nhưng, phần lớn đám khói được gió thổi đến từ các khu rừng xa xôi ở Vermont: vậy nên không lạ gì khi bầu trời trở một màu nhìn đáng ngại như cái vạc của Hecate - và hai thợ săn, băng qua cánh đồng kiều mạch rực sắc đỏ, dường có dáng dấp của một Macbeth tội lỗi và một Banquo đầy căm hận; và mặt trời thì như thể một ẩn sĩ, trốn trong một cái hang ở Adullum[6], gần về phía Nam, đúng theo lịch mùa, không làm gì khác ngoài gián tiếp phản chiếu những tia nắng hẹp qua các đám mây xuống một con đèo ở Simplon, đều đặn vẽ lên gò má của những ngọn đồi nhợt nhạt phía Tây Bắc một nốt ruồi dâu tây tròn nhỏ. Trông nó giống một cây nến, chỉ tỏa sáng ở trên đỉnh, trong khi toàn bộ phần còn lại đều nằm trong bóng tối.

Ở đó hẳn là có những nàng tiên, tôi đã nghĩ vậy; một vòng tròn phép thuật nơi các nàng tiên sẽ cùng nhảy múa.

Thời gian trôi qua; và tháng Năm năm sau, sau một cơn mưa rào nhẹ trên những dãy núi - một cơn mưa rào nhỏ trên vùng biển đầy nắng và gió sương; một cơn mưa rào nằm ở xa lắm - thảng hoặc thêm hai, ba, hoặc bốn cơn mưa nữa, thấy được cùng lúc ở các nơi khác nhau - và tôi sẽ đắm mình quan sát chúng từ hiên nhà, thay vì những trận bão như tôi vốn đã quen từ trước đây, chúng ôm lấy Greylock già nua, như một ngọn Sinai, cho đến khi người ta nghĩ rằng Moses sạm nắng hẳn đang leo lên những cây độc cần tại đó; sau đó, ý tôi là, sau cơn mưa rào nhẹ ấy, tôi đã nhìn thấy cầu vồng, một đầu mút của nó đặt lên nơi, vào mùa thu, tôi đã để ý thấy cái nốt ruồi. Nơi đó có các nàng tiên, tôi nghĩ; tôi nhớ rằng cầu vồng mang đến những bông hoa nở rộ, và rằng nếu ai đi được đến cuối cầu vồng, thì họ sẽ nhận được một túi vàng. Phía cuối cầu vồng Yon, mình có đến được đó không, tôi tự hỏi. Dù sao thì tôi cũng ước điều đó có thể là thật, bởi giờ, đây là lần đầu tiên tôi để ý thấy có thứ gì đó nhìn giống như một thung lũng, hay hang động bên sườn núi; ít nhất thì, bất kể nó là gì đi nữa, nhìn qua cầu vồng, trông nó phát sáng như mỏ Potosi. Nhưng một người hàng xóm làm việc hằng ngày ở đó nói rằng đấy chắc chắn là một nông trại cũ - bị bỏ hoang, bên hông đã bị đập nát, nền nhà dốc ngược lên. Nhưng, dẫu chưa tới đó bao giờ, tôi biết về nó rõ hơn họ.

Vài hôm sau, ánh bình minh hoan hỉ thắp sắc vàng lấp lánh của nó lên đúng chỗ trước đó. Sự lấp lánh ấy trở nên sống động, dường như chỉ có thể phát ra từ những tấm kính. Khi đó tòa nhà - xét cho cùng nó vẫn là một tòa nhà - ít nhất thì không phải là một nông trại, càng không bị bỏ hoang; cũ, với mười năm mục nát. Không; nếu được xây bởi người phàm, thì hẳn đó phải là một ngôi nhà nhỏ; có thể là đã bị bỏ trống và tháo dỡ từ lâu, nhưng mùa xuân này lại được trang bị và lắp kính một cách thần kỳ.

Một lần nữa, vào buổi trưa, theo cùng hướng, trên những bậc thang được phủ đầy bởi tán lá mờ ảo, một tia sáng lớn hơn, giống như một cái khiên bằng bạc, chĩa về hướng mặt trời phía trên đầu một kẻ cúi mình nào đó; theo kinh nghiệm, những tia sáng như vậy hẳn phải phát xuất từ một mái nhà vừa được lợp ván. Điều này, đối với tôi, đã khiến tôi càng chắc chắn rằng chiếc võng xa xôi ở xứ sở thần tiên đó gần đây đã được sử dụng.

Ngày qua ngày, giờ đây, với sự hứng thú dâng tràn về phát hiện của mình, vào những lúc rảnh rang không đọc Giấc mộng đêm hèmọi điều về Titania, tôi sẽ khát khao nhìn về phía các ngọn đồi; nhưng vô ích. Hoặc là những đội quân bóng đen, một đội cận vệ hoàng gia, với những bước đi chậm rãi và trang trọng, đang diễu hành dọc theo các sườn đồi; hoặc tàn dư của những trận chiến từ xưa giữa Lucifer và Michael - bị truy đuổi bởi một luồng sáng từ Đông sang Tây; hoặc các ngọn núi, dù không bị làm phiền bởi những trận đánh giả phản chiếu trên bầu trời này, mang trên mình bầu không khí không thích hợp cho những cảnh tiên. Tôi thấy tiếc; và càng tiếc hơn, vì tôi phải ở trong phòng của mình một thời gian sau đó - căn phòng không hướng về phía những ngọn đồi kia.

Sau một thời gian, vào một buổi sáng tháng Chín, lúc đã gần khỏe lại, tôi ra ngoài trời ngồi trên hiên nhà và suy nghĩ một mình, bỗng, ngay sau khi một đàn cừu nhỏ, rồi những đứa con của người nông dân đi ngang qua khi đi hái hạt dẻ, và nói, “Thật là một ngày đẹp trời” - và đúng là vậy, dù sao thì đó cũng là thứ mà các ông bố của chúng nói về những ngày nắng sau mùa mưa - và, thực ra, nhờ cơn ốm của mình mà tôi đã trở nên nhạy cảm tới nỗi không thể chịu nổi khi nhìn vào cây dây leo Trung Hoa mà tôi đang trồng, vậy mà, trong niềm vui sướng của tôi, nó đã leo lên một cây cột của hiên nhà, nở rộ những bông hoa như các vì sao, nhưng giờ, nếu khẽ vén lá cây lên một chút, bạn sẽ thấy hàng triệu con sâu đo kỳ lạ đang gặm nhấm những bông hoa đó, chia sẻ những màu sắc quỷ quái của chúng, làm cho cái cây bị nguyền rủa mãi mãi - những con sâu, chắc chắn chúng đã ẩn náu trong củ cây mà tôi đã trồng đầy hy vọng: trong nỗi khó chịu đầy vô ơn của sự phục hồi đầy mệt mỏi của mình, tôi ngồi đó; khi chợt nhìn ra, tôi thấy ngọn núi vàng ngoài cửa sổ, lấp lánh như một con cá heo của biển sâu. Tiên có ở đó, tôi nghĩ, một lần nữa; nữ hoàng của tiên đang ngồi ở cửa sổ cổ tích của nàng; hay ít nhất thì cũng là một sơn nữ vui vẻ nào đó; điều này sẽ làm tôi cảm thấy sung sướng hơn, sẽ chữa tôi khỏi sự mệt mỏi, lúc nhìn thấy nàng. Đủ rồi; tôi sẽ hạ thủy chiếc thuyền nhỏ của mình - ôi, hãy vui lên, trái tim tôi! và chèo con thuyền này đến xứ sở thần tiên - vì ở nơi đó chính là nơi cuối cầu vồng.

Làm thế nào để tới xứ sở thần tiên, đến bằng con đường nào, tôi không biết; và cũng không ai có thể cho tôi biết điều đó; kể cả Edmund Spenser[7], người từng đến đó - theo như những gì ông viết - cũng không chỉ cho tôi biết được gì hơn ngoài việc để đến được xứ sở thần tiên, ta phải chu du tới đó, và với lòng tin. Tôi theo hướng ngọn núi tiên, và ngày đẹp trời đầu tiên, khi sức khỏe cho phép, tôi đã lên chiếc thuyền nhỏ của mình - một chiếc thuyền bằng da có yên cao - nhổ neo, và tôi bắt đầu chuyến đi của mình, tựa chiếc lá mùa thu thả trôi tự do. Lúc ấy là chớm bình minh; và, tiến về phía Tây, tôi gieo buổi sáng trước mắt mình.

Sau khi đi được vài dặm, tôi tiến gần đến những ngọn đồi; nhưng chưa thể nhìn thấy chúng. Tôi không lạc đường; các khóm cúc vàng ven đường tựa như những cột chỉ đường, chỉ cho tôi, tôi không nghi ngờ gì, đường đến khung cửa sổ ánh vàng. Theo dấu những khóm hoa, tôi cập bến một vùng đất cô đơn và uể oải, nơi các con đường cỏ mọc chỉ có những con bò mơ màng đi qua, những con bò, trông thiếu sức sống hơn là được khuấy động bởi một ngày mới, dường như đang mộng du mà đi. Chúng không ăn cỏ - những sinh vật bị bỏ bùa sẽ không ăn gì. Ít nhất, Don Quixote, nhà hiền triết thông thái nhất từng sống, đã nói như vậy.

Tôi tiếp tục đi, và cuối cùng đã đến được chân ngọn núi tiên, nhưng vẫn chưa thấy vòng tròn tiên nào. Trước mặt tôi là một đồng cỏ với năm thanh rào chắn đã mục nát - ẩm mốc như thể được vớt lên từ một xác tàu đắm nào đó - một con Aries già có bộ lông dài, mặt dài và sừng xoắn, tiến đến đánh hơi; rồi, rút lui một cách trang trọng, dẫn tôi đi dọc theo ngân hà, tức là con đường điểm hoa trắng, qua chòm Pleiades và Hyades mờ nhạt, qua những bông hoa lưu ly nhỏ bé; và hẳn nó đã có thể dẫn tôi đi xa hơn trên con đường sao của nó, nếu không có các đường bay của những con chim lông vàng - những hoa tiêu dẫn lối đến cửa sổ vàng, bay một bên trước tôi đầy chắc chắn, từ bụi cây này sang bụi cây khác, hướng vào các cánh rừng sâu - những cánh rừng tự chính chúng cũng đầy quyến rũ - và, bằng cách nào đó, tôi cũng bị lôi cuốn bởi chúng, bởi hàng rào của chúng, một con đường cấm, dẫu thế, dù tối tăm, vẫn hướng lên. Tôi vẫn bước tiếp; khi con cừu già Aries, giờ đây từ đã bỏ tôi để đi với những linh hồn lạc lối nào đó, quay lại, và đi trên con đường khôn ngoan hơn của nó. Vùng đất hiểm trở và bị cấm - đối với nó.

Một con đường rừng mùa đông, phủ đầy cây lộc đề xanh. Bên cạnh những dòng nước đầy đá cuội - những dòng nước càng vui vẻ hơn vì sự cô đơn của chúng; dưới các cành linh sam đung đưa, không được mùa màng chăm chút, nhưng mùa nào cũng vẫn xanh tươi, tôi tiếp tục chuyến hành trình của mình - tôi và con ngựa của tôi; đi qua một xưởng cưa cũ, bị trói chặt và bít kín bằng đám dây leo, khiến những tiếng rít chói tai của nó không nghe được nữa; tiếp tục, qua một thung sâu chẻ qua đá cẩm thạch trắng tuyết, nhuốm sắc xuân, nơi các dòng xoáy mới đã, ở mỗi bên, tạo ra những nhà nguyện trống rỗng trong đá sống; tiếp tục, nơi những cây Jacks-in-the-pulpit, như tên rửa tội của chúng, giảng đạo trong vùng hoang dã; tiếp tục, nơi một khối gỗ lớn, nằm trong lớp rêu, cho thấy từ xưa, những người đàn ông đã cố gắng chẻ nó, nhưng đã từ bỏ trong sự đau đớn - và những cái nêm vẫn gỉ sét trong lỗ của chúng; tiếp tục, nơi, nhiều thế kỷ trước, trong các bậc thang của thác nước, những cái hố hình sọ được tạo ra bởi sự xoay vòng không ngừng của một viên đá lửa - tuy vẫn luôn mài mòn, nhưng bản thân nó thì không mòn; tiếp tục, tới những dòng nước chảy xiết đổ vào một cái hồ bí mật, nhưng dịu lại sau khi vòng quanh đó một lúc, rồi chảy ra êm dịu; tiếp tục, đến vùng đất ít gồ ghề hơn, có một vòng tròn nhỏ, nơi các tiên nữ chắc hẳn từng nhảy múa, hoặc có lẽ đó một cái bánh xe tròn đã bị nung chảy - bởi giờ đây tất cả đều trơ trụi; tiếp tục, đi lên cao hơn, thì đến một vườn treo, nơi mảnh trăng lưỡi liềm tựa người thiếu nữ kia đang nhìn xuống tôi, dù mới chỉ là buổi sáng.

Con ngựa của tôi cúi thấp đầu. Những quả táo đỏ lăn đến trước mặt nó; những quả táo của Eva; không thể có táo nào giống thế. Nó nếm một quả, tôi nếm một quả khác; quả táo có vị của đất. Đây chưa phải là xứ sở thần tiên, tôi nghĩ, vắt dây cương của mình vào một cái cây già có gốc lưng gù, với cành sải ra để bắt lấy dây cương. Vì con đường bây giờ nằm ở nơi không có lối đi, và không ai có thể đi tiếp được nếu không tự mình bước, và phải vượt qua nó bằng lòng quả cảm. Đi qua những bụi mâm xôi đen cố kéo tôi lại, mặc dù tôi chỉ cố đi tới những bụi đỗ quyên không có quả; lên các ngọn dốc trơn trượt để đến những đỉnh cao khô cằn, nơi không có ai chào đón. Đây vẫn chưa phải là xứ sở thần tiên, tôi nghĩ, dù cho buổi sáng đang ở đây ngay trước tôi.

Chân đau nhức và mệt mỏi, tôi chưa đến được điểm cuối của hành trình của mình, nhưng chẳng bao lâu sau, thì tới một lối đi đá lởm chởm, hướng về các vùng đất vẫn đang trải dài về phía xa. Một con đường dích dắc, nửa bị che phủ bởi những bụi cây việt quất, quay mặt về các vách đá. Một vết nứt trên những mặt lởm chởm của chúng; qua đó một con đường nhỏ tách ra, hướng lên trên, len lỏi qua hẻm núi ngắn gần đó, hướng về phía gió trên cao, đến nơi đỉnh núi, phần phía Bắc được che chắn bởi một người anh trai cao hơn, thoai thoải một khoảng, trước khi lao xuống vực sâu tối tăm; và ở đây, giữa những tảng đá kỳ ảo, nằm nghỉ con đường mòn uốn lượn, có phần mòn dấu chân, dẫn lên một ngôi nhà nhỏ, thấp, màu xám, mái nhọn, nhìn giống như mũ của một nữ tu.

Trên một sườn, mái nhà bị ố màu nặng bởi thời tiết và, gần máng xối mọc đầy cỏ, tất cả đều được phủ bằng một lớp nhung; chắc chắn ốc sên tu sĩ đã xây dựng những tu viện rêu phong ở đó. Sườn còn lại được lợp ngói mới. Phía Bắc, không có cửa ra vào và cửa sổ, những tấm ván, chưa từng được sơn, vẫn xanh như mặt Bắc của những cây thông đầy địa y hoặc các thân tàu Nhật Bản không làm bằng đồng, bị kẹt giữa dòng. Toàn bộ phần nền, giống như những tảng đá lân cận, được viền quanh bởi các vệt cỏ xanh đậm nhất; vì, với những phiến đá lò sưởi ở xứ sở thần tiên, đá tự nhiên, dù được che chở, vẫn giữ nguyên đến cuối cùng, sức quyến rũ phì nhiêu của nó, giống như trên các cánh đồng rộng mở; chỉ có điều, do cần thiết, giờ đây nó chỉ có ảnh hưởng từ xa lên đất mùn bên ngoài. Ít nhất thì, Oberon[8], một nhân vật quyền uy oai nghiêm trong truyền thuyết tiên, đã nói như vậy. Mặc dù không tính đến Oberon, chắc chắn rằng, ngay cả trong thế giới thường, đất đai, gần các ngôi nhà nông trại, cũng như gần những tảng đá đồng cỏ, dù không được chăm sóc, vẫn luôn luôn màu mỡ hơn so với cách đó vài thước - như thể một nguồn nhiệt dịu dàng, nuôi dưỡng được tỏa ra từ chúng.

Nhưng với ngôi nhà nông thôn này, những vệt bóng râm phong phú nhất là ở phía trước và xung quanh lối vào của nó, nơi nền đất, và đặc biệt là bậc cửa, qua thời gian dài, đã lặng lẽ lún xuống.

Không thấy hàng rào, không có sự ngăn cách. Gần đó - dương xỉ, dương xỉ, dương xỉ; xa hơn - rừng cây, rừng cây, rừng cây; xa nữa - núi non, núi non, núi non; rồi - bầu trời, bầu trời, bầu trời. Chìm trong vùng trời, đồng cỏ cho mặt trăng trên núi. Chỉ có tự nhiên, mỗi tự nhiên, ngôi nhà và những gì còn lại; cho tới một đống thân cây bạch dương bạc thấp, xếp chồng thưa lên nhau để khô; giữa những thanh bạc của nó, như qua hàng rào của một ngôi mộ biệt lập nào đó, những bụi cây mâm xôi dại mọc lên - những kẻ xác nhận quyền đi lại của chúng.

Đường mòn hẹp, giống như lối đi của cừu vừa nãy, dẫn qua đám dương xỉ dài trú ngụ ở đó. Và cuối cùng, mình cũng đến được xứ sở thần tiên rồi, tôi nghĩ; Una và con cừu của nàng sống ở đây[9]. Nói cho đúng sự thật, ấy là một ngôi nhà nhỏ - như một chiếc kiệu, đặt trên đỉnh núi, ở một lối đi giữa hai thế giới, không thuộc về bất kỳ nơi nào.

Tiết trời oi bức, và tôi đội một chiếc mũ mỏng, làm bằng rơm vàng, quần vải bông dày màu trắng - cả hai đều là di tích từ các chuyến đi biển nhiệt đới của tôi. Bị cản trở bởi những cây dương xỉ dày, tôi khẽ vấp chân, khiến đầu gối lấm một màu xanh biển.

Dừng lại tại ngưỡng cửa, hay đúng hơn là nơi từng có ngưỡng cửa, tôi trông thấy, qua lối cửa vào rộng mở, một cô gái cô đơn, đang ngồi may vá bên một cửa sổ cô đơn. Một cô gái với đôi má tái nhợt, và cửa sổ lốm đốm ruồi, với những con ong vò vẽ bay quanh các ô kính đã được vá víu lại phía trên. Tôi lên tiếng. Cô ấy bẽn lẽn giật mình, như một cô gái người Tahiti đang bị giấu kín để chờ hiến tế, qua những cây cọ, lần đầu tiên nhìn thấy Thuyền trưởng Cook. Lấy lại bình tĩnh, cô ấy mời tôi vào; cô dùng tạp dề phủi sạch một cái ghế đẩu; rồi lại lặng lẽ ngồi xuống ghế của mình. Tôi cảm ơn và ngồi xuống ghế; nhưng ngay lúc này, tôi cũng trở nên im lặng, một lúc. Vậy ra đây chính là ngôi nhà thần tiên trên núi, và đây, nữ hoàng tiên đang ngồi bên cửa sổ tiên của nàng.

Tôi đi đến cửa sổ ấy. Nhìn xuống, thẳng theo hướng của đường hầm, như qua một cái kính viễn vọng, tôi nhìn thấy một thế giới xa xăm, dịu dàng, màu xanh lam. Tôi gần như không nhận ra nó, dù cho tôi đến từ chính nơi đó.

“Cô hẳn thấy khung cảnh này rất đẹp,” cuối cùng tôi nói.

“Ôi, thưa ông,” nước mắt bắt đầu dâng lên mắt cô, “lần đầu tiên tôi nhìn ra từ cửa sổ này, tôi đã nói ‘không bao giờ, tôi sẽ không bao giờ chán khung cảnh này.’”

“Vậy điều gì đã khiến cô trở nên chán nản với nó?”

“Tôi không biết nữa,” cô nói, một giọt nước mắt rơi xuống; “nhưng không phải do khung cảnh, mà là do Marianna.”

Vài tháng trước, em trai cô, chỉ mới mười bảy tuổi, đã đến đây, một chặng đường dài từ phía bên kia, để chặt gỗ và đốt than, và cô, chị gái, đã đi cùng cậu ta. Lâu nay họ đã là trẻ mồ côi, và bây giờ, chỉ có họ sống ở trong ngôi nhà duy nhất trên núi này. Không có khách nào đến, không có du khách nào đi qua. Con đường dích dắc, nguy hiểm chỉ được sử dụng theo mùa bởi các xe chở than. Người em trai vắng mặt cả ngày, đôi khi cả đêm. Khi trở về nhà vào buổi tối, mệt mỏi, cậu ta sẽ nhanh chóng rời khỏi ghế ngồi, thật tội nghiệp, để về giường nghỉ ngơi; rồi cậu ta cũng như bao người cuối cùng cũng đã đủ mệt mỏi để rời khỏi đây, để nghỉ ngơi lâu và sâu hơn. Từ ghế, đến giường, rồi xuống mộ.

Tôi đứng im lặng bên cửa sổ tiên, lắng nghe cô kể lại những điều này.

“Anh có biết,” cuối cùng cô nói, như lặng lẽ rời khỏi câu chuyện của mình, “anh có biết ai sống đằng kia không? - Tôi chưa bao giờ xuống vùng đó - ở phía xa kia, ý tôi là thế; ngôi nhà ấy, ngôi nhà bằng đá cẩm thạch,” cô nói, chỉ tay xa về cảnh quan phía dưới; “anh không nhìn thấy nó à? ở đó, trên sườn đồi dài: cánh đồng trước mặt, rừng cây phía sau; màu trắng nổi bật trên nền xanh; anh không thấy à? ngôi nhà duy nhất trong tầm mắt.”

Tôi nhìn; và sau một lúc, tôi ngạc nhiên nhận ra, nhờ vị trí hơn là diện mạo của nó, hay mô tả của Marianna, đó chính ngôi nhà của tôi, lấp lánh từ hàng hiên giống như ngôi nhà trên núi này. Lớp sương mù tạo nên ảo giác làm nó trông giống cung điện của Vua Charming hơn là một ngôi nhà trang trại.

“Tôi thường tự hỏi ai sống ở đó; chắc hẳn đó là một người hạnh phúc; sáng nay tôi cũng đã nghĩ vậy.”

“Một người hạnh phúc,” tôi giật mình trả lời; “tại sao cô lại nghĩ vậy? Cô nghĩ người giàu sống ở đó à?”

“Giàu hay không, tôi chưa bao giờ nghĩ đến; nhưng nó trông rất hạnh phúc, tôi không thể nói rõ như thế nào; và nó ở xa quá. Đôi khi tôi nghĩ tôi chỉ mơ rằng nó ở đó. Anh nên nhìn nó vào lúc hoàng hôn.”

“Chắc hẳn là hoàng hôn tô điểm nó rất đẹp; nhưng không thể hơn cảnh bình minh tô điểm ngôi nhà này, có lẽ vậy.”

“Ngôi nhà này? Mặt trời là mặt trời tốt, nhưng nó chưa bao giờ mạ vàng ngôi nhà này. Tại sao nó phải làm thế? Ngôi nhà cũ này đang mục nát. Đó là lý do nó có nhiều rêu phong như vậy. Vào buổi sáng, mặt trời chiếu vào cửa sổ cũ này, để anh không nhầm - được đóng ván khi chúng tôi mới đến; một cửa sổ tôi không thể giữ sạch, dù cho tôi có làm gì đi chăng nữa - và gần như thiêu đốt, làm tôi mù dở khi may vá, chưa kể khiến ruồi và ong vò vẽ bay lượn - những con ruồi và ong vò vẽ mà chỉ các ngôi nhà cô đơn trên núi mới biết đến. Xem này, đây là rèm cửa - chiếc tạp dề này - tôi cố gắng dùng để che nắng. Nắng đã khiến nó phai màu, anh thấy đấy. Mặt trời mạ vàng ngôi nhà này ư? Chưa bao giờ Marianna thấy điều đó.”

“Bởi vì khi mái nhà được dát vàng nhiều nhất, thì cô ở trong này.”

“Anh muốn nói đến cái giờ nóng nhất, mệt mỏi nhất trong ngày? Thưa anh, mặt trời không dát vàng mái nhà này. Nó bị rò rỉ nhiều, em trai tôi vừa mới lợp lại toàn bộ một bên. Anh không thấy à? Bên phía Bắc, nơi mặt trời chiếu nhiều nhất vào chỗ mà mưa đã làm ướt. Mặt trời là mặt trời tốt; nhưng đầu tiên nó đã làm mái nhà này cháy sém, rồi mục nát. Một ngôi nhà cũ. Họ đã đi về phía Tây, và đã chết từ lâu, là người ta nói về những người đã xây dựng nó. Một ngôi nhà trên núi. Vào mùa đông, không con cáo nào có thể trú đông ở trong đó. Chỗ ống khói đã bị tuyết chặn lại, giống như một gốc cây rỗng.”

“Cô có những suy nghĩ kỳ lạ, Marianna.”

“Chúng chỉ là phản ánh những thứ xung quanh mà thôi.”

“Vậy tôi nên nói, ‘Những thứ này kỳ lạ,’ hơn là, ‘Suy nghĩ của cô kỳ lạ.’”

“Nếu anh muốn,” rồi cô lại tiếp tục may vá.

Có điều gì đó trong những lời nói nhẹ nhàng ấy, hoặc trong hành động nhẹ nhàng của cô, lần nữa khiến tôi im lặng; trong khi, nhìn qua cửa sổ tiên, tôi thấy một bóng đen lớn đang lướt qua, như bóng của một con thần ưng khổng lồ, lơ lửng với đôi cánh dang rộng, tôi nhận thấy cái cách mà bóng đen sâu và bao trùm đó xóa đi tất tật những bóng đen nhỏ hơn của đá hay cây dương xỉ.

“Anh đang ngắm mây,” Marianna nói.

“Không, một cái bóng; chắc chắn là bóng của một đám mây - dù tôi không thể nhìn thấy nó. Làm sao cô biết được? Mắt cô đang tập trung vào may vá kia mà.”

“Nó phủ bóng lên đồ khâu của tôi. Kìa, bây giờ đám mây đã đi, Tray trở lại.”

“Là sao?”

“Con chó, một con chó lông xù. Vào buổi trưa, nó lén bỏ đi, tự mình biến đổi hình dạng - sau đó trở lại, và nằm xuống một lúc, ở ngay gần cửa. Anh không thấy nó sao? Đầu nó quay về phía anh; mặc dù khi anh đến, nó nhìn phía trước.”

“Mắt cô chỉ tập trung vào đồ may vá của mình; cô đang nói về cái gì vậy?”

“Bên cửa sổ, ngay cạnh.”

“Cô nói cái bóng lông xù... đang đứng gần nhất này? Và, đúng, bây giờ tôi mới để ý, nó trông không khác gì một con chó Newfoundland đen to lớn. Cái bóng kia đã biến mất, mọi thứ trở lại bình thường. Nhưng tôi không thấy thứ gì tạo ra nó.”

“Để thấy nó, anh phải đi ra ngoài.”

“Là một trong những tảng đá có cỏ phủ kia, chắc chắn rồi.”

“Anh có thấy đầu nó, khuôn mặt nó không?”

“Của cái bóng ấy à? Cô nói như thể thấy nó, trong khi mắt cô lúc nào cũng nhìn vào đồ may vá của mình.”

“Tray đang nhìn anh,” cô vẫn không ngẩng đầu lên; “đây là giờ của nó; tôi thấy nó.”

“Vậy là cô đã ngồi bên cửa sổ núi này, nơi chỉ có mây và sương mù đi qua, lâu đến mức với cô, cái bóng đã trở những thứ hữu hình, mặc dù cô nói về chúng như các bóng ma; rằng, nhờ sự quen thuộc, hoạt động như một thiên nhãn, cô có thể, không cần nhìn, vẫn biết chính xác chúng ở đâu, mặc dù, như chuột, chúng lẻn quanh, đến và đi; nhưng, với cô, những cái bóng vô hồn này như những người bạn sống, dù ngoài tầm mắt, nhưng kể cả khuôn mặt của chúng, vẫn ở trong tâm trí cô - có phải vậy không?”

“Tôi chưa bao giờ nghĩ theo cách đó. Nhưng cái bóng thân thiện nhất, từng làm dịu sự mệt mỏi của tôi rất nhiều, rung rinh nhẹ nhàng trên những cành cây dương xỉ, đã bị tước đi khỏi tôi, không bao giờ trở lại, như Tray vừa mới đây. Cái bóng của cây bạch dương. Cây đã bị sét đánh, và em tôi đã chặt nó. Anh thấy đống gỗ xếp ngoài trời rồi đấy - rễ cây chôn dưới đó; nhưng không phải là cái bóng. Cái bóng đó đã bay đi, và không bao giờ trở lại, cũng không bao giờ động đậy ở đâu nữa.”

Một đám mây khác trôi qua đây, một lần nữa xóa đi con chó, và làm đen cả ngọn núi; và sự yên tĩnh lặng thinh đến mức, dường như sự điếc đã quên đi chính mình, hoặc tin rằng cái bóng vô thanh ấy biết nói.

“Chim chóc, Marianna, những con chim hót, tôi không nghe thấy con chim nào; tôi không nghe thấy gì cả. Các cậu bé và chim bob-o-link, chúng không bao giờ đến hái quả ở đây à?”

“Chim, tôi hiếm khi nghe thấy; trẻ con, không bao giờ. Hầu hết quả mọng đều chín và rụng... ít ai biết điều này, nhưng tôi biết.”

“Nhưng chim lông vàng đã chỉ đường cho tôi... ít nhất là một phần đường.”

“Và sau đó bay trở về. Tôi đoán chúng chơi quanh sườn núi, nhưng không làm tổ trên đỉnh núi. Và chắc chắn anh nghĩ rằng, sống cô đơn ở đây như thế này, không biết gì, không nghe thấy gì - ít thôi, ít nhất là âm thanh của sấm và tiếng cây đổ - không bao giờ đọc, hiếm khi nói, nhưng luôn luôn tỉnh táo, đây là lý do vì sao tôi lại có các suy nghĩ kỳ lạ - như cái cách anh gọi chúng - sự mệt mỏi và tỉnh táo song hành cùng nhau. Em trai tôi, người đứng và làm việc ngoài trời, ước gì tôi có thể nghỉ ngơi như em ấy; nhưng công việc của tôi chủ yếu chỉ là công việc của phụ nữ - ngồi, ngồi, ngồi không yên.”

“Nhưng, cô không thỉnh thoảng đi dạo sao? Các khu rừng này rộng lớn thế kia mà.”

“Và cô đơn; cô đơn, vì quá rộng lớn. Đôi khi, đúng là, vào buổi chiều, tôi có đi dạo một chút; nhưng rồi cũng sớm quay về. Cảm thấy cô đơn bên lò sưởi vẫn tốt hơn là bên tảng đá. Hơn nữa tôi biết những cái bóng quanh đây... những cái bóng trong rừng đều là những kẻ xa lạ.”

“Còn ban đêm thì sao?”

“Cũng giống như ban ngày. Nghĩ ngợi, nghĩ ngợi... nó là một bánh xe tôi không thể dừng lại; sự thiếu ngủ thuần túy làm nó quay.”

“Tôi đã nghe nói rằng, với sự mệt mỏi tỉnh táo này, ta chỉ cần nói lời cầu nguyện, và sau đó ngả đầu xuống một chiếc gối hoa bia tươi...

“Nhìn kìa!”

Qua cửa sổ tiên, cô chỉ xuống con dốc dẫn đến một khu vườn nhỏ gần đó - một mảnh đất nhỏ đã bị xới lật, một nửa bị bao quanh bởi những tảng đá che chắn - nơi, cạnh nhau, cách nhau vài bước, bị kẹp chặt và nhỏ bé, hai cây hoa bia leo lên hai cọc, và, khi đạt đến đầu cọc, đã định kết vào với nhau trong một cái ôm leo cao, nhưng những chồi non bị ngăn cản, sau khi dò dẫm một lúc trong khoảng không, lại rơi trở lại nơi chúng bắt đầu.

“Vậy là cô đã thử cái gối rồi?”

“Vâng.”

“Và cầu nguyện?”

“Cầu nguyện và gối.”

“Không còn phương thuốc, hay bùa chú nào khác sao?”

“Ôi, nếu tôi có thể một lần đến ngôi nhà đằng kia, và nhìn xem ai là người hạnh phúc đang sống ở đó! Một suy nghĩ ngớ ngẩn: tại sao tôi lại nghĩ vậy? Có phải vì cuộc sống của tôi cô đơn và tôi không biết gì không?”

“Tôi cũng không biết gì; vậy nên tôi không thể trả lời cô; nhưng, vì lợi ích của cô, Marianna, tôi rất mong rằng tôi là chủ nhân hạnh phúc của ngôi nhà hạnh phúc mà cô mơ thấy; bởi vì nếu vậy thì cô sẽ được thấy anh ta ngay bây giờ, và, như cô nói, sự mệt mỏi này có thể rời bỏ cô.”

... Đủ rồi. Tôi sẽ không chèo thuyền để đến xứ sở thần tiên nữa, tôi sẽ bám chặt lấy hiên nhà của tôi. Đó là lô hoàng gia của tôi; nhà hát vòng tròn này, nhà hát San Carlo của tôi. Phải, quang cảnh nơi đây thật kỳ diệu - một ảo ảnh trọn vẹn. Và quý bà Đồng Cỏ Lark, nữ chính của tôi, đang trình diễn lễ đính hôn hoành tráng của mình tại đây; và, đắm chìm trong từng nốt nhạc buổi bình minh của nàng, giống như tiếng Memnon, dường như phát ra từ cửa sổ vàng, khuôn mặt mệt mỏi quen thuộc đằng sau đó đã trở nên xa xôi với tôi biết bao.

Nhưng, mỗi đêm, khi màn đêm buông, sự thật đến cùng với bóng tối. Không có ánh sáng nào từ ngọn núi. Tôi đi đi lại lại trên hiên, bị ám ảnh bởi khuôn mặt của Marianna, và một câu chuyện quá đỗi chân thực.



[1] Trích từ vở kịch Cymbeline của Shakespeare.

[2] Ở đây đang ám chỉ đến Hamlet.

[3] Thời điểm diễn ra các cuộc cách mạng ở khắp nơi.

[4] Ám chỉ một số chi tiết trong Phúc Âm.

[5] Tức là mùa hè kéo rất dài.

[6] Nơi David của Kinh Thánh từng trốn.

[7] Nhà thơ lớn của Anh.

[8] Nhân vật trong Giấc mộng đêm hè của Shakespeare.

[9] Ám chỉ đến thơ của Spenser.

Hương Khuê dịch, rút ra từ Melville ngắn

sau bão là nhà

phải kính trọng ngôi nhà mình ở

khách sạn kinh đô

càng lên các tầng cao, cuộc sống càng tệ hại

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công