Goodbye to all that
Có một tiếng gầm rống ra từ nhà ga trong Già bán táo của Hawthorne: một con quỷ máy đen sì, phì phò những khói và hơi nước, hai mắt đùng đục đỏ, xăm xăm ào vào ga với tốc lực kinh khiếp, cuốn hết tất tật người ta lên rồi phóng đi liền ngay trong tốc lực ấy, “Trông như thể cả thế giới, từ diện luân lý đến thể lý, đều bị giật rời khỏi thế vững vàng xưa kia của nó rồi đem đặt vào trong chuyển động gấp gáp”; song con người, qua biểu hiện tột cùng của bản tính bị phơi ra trong hình ảnh ông già, “giữa hoạt động kinh khiếp ấy, đây có một ông già bán bánh gừng đang ngồi, quy phục nhường ấy, vô vọng nhường ấy, không có chỗ neo trong đời, nhưng cũng không phải là khổ sở.”
Còn bên kia bán cầu, ngân lên từ trong ấp Mê Thảo của Nguyễn Tuân, là tiếng đàn đáy của cô Tơ: ông dựng nên một cõi cô lập đầy chủ ý, như thành lũy cuối hòng cưỡng lại “cơ khí hóa” đang xăm xăm tràn đến. Giữa những điệu đàn cổ điển, những lễ nghi đã cũ, Nguyễn Tuân đặt con người vào một nơi còn có thể tự giữ mình khỏi bị tha-hóa bởi xã hội đại trà. Nhưng sâu hơn cả sự kháng cự máy móc, đó còn là một nỗ lực tuyệt vọng nhằm gìn giữ lý tưởng Trung cổ – nơi con người có phẩm trật thiêng liêng, đạo lý có gốc rễ vĩnh cửu, và thế giới là một trật tự mang ý nghĩa thuộc linh.
Tất cả những gì thời Victoria từng ngợi ca – trật tự, đức tin, phả hệ, vẻ đẹp của lễ nghi và giáo dục cổ điển – tưởng đã được phục dựng như một tân trung cổ (neo-medievalism). Ấy thế nhưng, “tiếng gầm” dữ dội nhất của thế kỷ sẽ vang lên, sớm từ các nhà ga, và chung cáo từ ngoài những chiến hào của Thế chiến thứ nhất – nơi mọi lý tưởng cũ ngã ra “từng tốp”. Tiếng ấy vẫn còn vọng đến ngày nay.
Chương mở đầu của Goodbye to All That cũng bật ra một tiếng tương tự. Không kiên quyết chống lại như Nguyễn Tuân, không nhu mì chịu đựng như già bán táo của Hawthorne, nhưng chấp nhận với một vị cay đắng nơi lưỡi người kể – tiễn đưa một trật tự cũ không còn cứu vãn được nữa. Phả hệ của Robert Graves, ta sẽ thấy, bắt từ những nguồn tưởng chừng bền vững đời đời: nhà thờ Anh giáo, giới sĩ phu học thức, truyền thống quý tộc Đức, tinh thần cải cách Anh, những chuẩn tắc đạo đức cổ điển, v.v. – một thế giới tưởng có thể duy trì mãi trong sự thanh nhã có rễ cắm sâu. Graves, cùng gia đình mình, đều thuộc vào “lớp người u uất bị một chú thuật nghiệt ngã nào đó nguyền cho chẳng bao giờ được dự phần vào cái tiến trình hớn hở của thế giới”, lúc cuộc Đại chiến đặt dấu chấm cho những lý tưởng cao đẹp uyên nguyên của họ.
Đó là trận Nước Lụt. Ta phải Goodbye hết, trừ những gì thiết yếu nhất, để lên tàu Nô-ê.
Goodbye to all that
- Robert Graves
Nhằm minh chứng cho thiện chí tuân theo quy ước tự thuật, cho phép tôi lưu lại đây hai ký ức đầu đời của mình. Ký ức thứ nhất là được bế khư lên một cửa sổ để xem đoàn những xe ngựa xe goòng diễu mừng Đại lễ Ngân khánh của Nữ vương Victoria năm 1897 (ở Wimbledon, nơi tôi rứt ruột vào ngày 24 tháng Bảy năm 1895). Ký ức thứ hai là ngước lên, với một nỗi rợn rùng kinh hồn bạt vía, một cái tủ trong phòng trẻ hé mở vô tình, chất ắp đến trần toàn những pho Shakespeare khổ octavo. Cha tôi hồi ấy lập một hội đọc Shakespeare. Mãi về sau tôi mới biết rằng đó là tủ Shakespeare, nhưng dường như tôi có sẵn một bản năng mạnh chống lại mọi hoạt động nơi phòng khách. Và khi các vị khách cộm cán đến nhà – như Sir Sidney Lee, học giả Shakespeare chẳng hạn, hay như Lord Ashbourne, hồi ấy chưa được phong tước, với lời gầm tiếng rống về “nước Ireland cho dân Ireland” cùng chiếc kilt màu nghệ tây, hay Mr. Eustace Miles, nhà vô địch quần vợt cổ truyền và là người ăn chay với đủ thứ đậu hạch dị kỳ dắt theo – tôi đều nhận ra họ theo lối riêng của mình. Vậy là tôi đã phác ra rất chính xác cái tính ngang ngạnh của mình. Chú Charles từ tờ Spectator và Punchy và bà cô Grace hách dịch của tôi, hai người luôn đến bằng cỗ song mã và lần nào đến cũng gây cơn bấn loạn bởi bà là Lady Pontifex, cùng với những người kia, thảy đều là họ hàng tôi.
Tôi cũng chẳng có ảo tưởng nào về Algernon Charles Swinburne, người thường nán xe nôi tôi lại mỗi lần gặp phải trên Nurses’ Walk, ở rìa công viên Wimbledon Common và vỗ đầu tôi rồi hôn tôi: ông là kẻ dừng nôi, kẻ hôn, kẻ vỗ tận trong căn cốt mình. Nurses’ Walk nằm giữa nhà “The Pines” ở Putney (nơi ông từng sống cùng Watts-Dunton), với quán Rose and Crown, nơi thường ngày ông đến để uống một pint bia; Watts-Dunton đưa ông hai xu cho việc ấy không hơn. Tôi chớ hề biết Swinburne là một nhà thơ, nhưng tôi biết ông là một mối dọa ở chốn công cộng. Swinburne hồi còn măng măng từng đến chỗ Walter Savage Landor, khi ấy là một ông lão, đặng ông này ban phước thi sĩ mà ông hỏi xin; Landor hồi còn là một đứa trẻ thì từng được Dr. Samuel Johnson vỗ đầu; và Johnson hồi còn là một đứa trẻ thì từng được rước lên London cho Nữ vương Anne chạm vào đặng chữa scorfula, ác bệnh của Vua; và Nữ vương Anne hồi còn là một đứa trẻ thì...
Nhưng tôi vừa nhắc đến hội đọc Shakespeare kia mà. Hội ấy trụ được nhiều năm, và khi tôi mười sáu, cơn tò mò rốt cũng đưa tôi đến dự một bữa họp. Tôi còn nhớ giọng sinh động mà bà mẹ chẳng chút đanh đá của tôi dùng để đọc phần Katherine trong Thuần con Chằn cái, đối đáp với ông cha hòa nhã trong vai Petruchio. Ông bà Maurice Hill là hai thành viên được mến mộ nhất trong hội. Buổi họp ấy diễn ra vài năm trước khi ông trở thành ông Phán Hill và bà thành Phu nhân Hill, và cũng vài năm trước khi tôi thực sự đọc con Chằn. Tôi nhớ mấy ly nước chanh, mấy kẹp sandwich dưa leo, mấy mẩu petits fours, mấy món trang trí con con trong phòng khách, mấy bông cúc trôi trong bát, cùng hàng ghế bành xếp cung cung trước lò lửa. Giọng dịu dàng của Maurice Hill trong vai Hortensio khuyên cha tôi: “Cứ đi đường cậu đi, cậu đã thuần được con chằn quỷ.” Còn tôi trong vai Lucio, khép lại buổi đọc bằng câu: “Lạ thay cô chịu để anh thuần phục như thế.” Một ngày nào đó tôi phải đến nghe ông đọc những dòng ấy trên ghế Thẩm phán ở Tòa Ly hôn; lời ông phán nay đã danh thành.
Sau “ký ức đầu đời”, có lẽ tôi nên bày ra một bản hộ chiếu bản thân và để các chi tiết tự khuếch trương lấy. Ngày sinh... Nguyên quán... tôi vừa nói. Nghề nghiệp... Trong hộ chiếu tôi đề là “Giảng sư Đại học”. Đó là một lựa chọn khá tiện hồi 1926, năm tôi làm hộ chiếu lần đầu. Tôi từng nghĩ đến việc đề “Nhà văn”, nhưng các viên chức hộ chiếu thường lộn ra những biểu cảm rất phức tạp trước cái từ ấy. Còn “Giảng sư Đại học” thì chỉ gây một phản ứng đơn giản: tôn trọng nhạt. Chẳng ai hỏi thêm chi. “Đại úy quân đội (hưu trí)” cũng y vậy.
Chiều cao tôi được ghi là sáu feet hai inch, mắt xám, tóc đen. Đáng ra phải thêm “xoăn, dày” vào “đen”. Tôi bị miêu tả sai là không có đặc điểm nhận dạng gì riêng biệt. Trước hết, này là cái mũi to, vốn khoắm, từng bị tôi làm gãy ở trường Charterhouse khi dại dột chơi bầu dục với đám chơi bóng đá. (Tôi còn làm gãy mũi một người khác trong trận đó.) Pha đó làm lệch nó, rồi đấu quyền còn khiến xéo thêm. Cuối cùng, một bác sĩ phẫu thuật quân y vụng nghề đã mổ chỉnh, và từ đó nó chẳng làm đường biên phân đôi trái phải mặt tôi nữa, vốn đã chẳng đăng đối gì – mắt, mày tai tôi đều lệch rõ, còn gò má tôi, vốn khá cao, lại còn chẳng ngang bằng nhau. Miệng tôi thuộc loại “đầy đặn”, còn môi cười thì mím chặt: năm mười ba tôi làm gãy hai răng cửa nên ngại chẳng dám hở ra. Bàn tay bàn chân tôi đều lớn. Tôi nặng đâu mười hai stone bốn. Màn hài nhất của tôi là khớp hông hai chiều; tôi có thể ngồi trên bàn và nhịp nhịp hông như chị em nhà Fox. Một vai tôi trễ hẳn xuống vì một vết thương phổi. Tôi không đeo đồng hồ vì cứ mang là làm loạn từ trường cót chính lên; hồi chiến, khi có lệnh sĩ quan phải đeo đồng hồ và phải chỉnh giờ hằng ngày, tôi mua hai cái mới đều đặn mỗi tháng. Về diện y học, tôi là một sự sống khỏe.
Hộ chiếu đề quốc tịch tôi là “thần dân Vương quốc Anh”. Nhân đây tôi có thể nhái lại Marcus Aurelius, mở đầu Sách Vàng của ông bằng cách liệt ra tổ tiên và những thân bằng quyến thuộc mà ông mắc nợ các đức hạnh của một Đế vương La Mã: còn tôi thì có thể giải thích xem tại sao tôi không phải một Hoàng đế La Mã hay thậm chí, trừ vài dịp, là một tôn ông Anh. Phía nội của mẹ tôi, họ von Rankes, là những mục sư họ đạo người Saxon, không phải quý tộc lâu đời. Leopold von Ranke, sử gia hiện đại đầu tiên, ông-bác ruột rôi, là người thêm “von” vào họ. Tôi nợ ông chút gì đó. Ông viết, làm người thời ông sửng sốt: “Tôi là một sử gia trước khi là một Ki-tô hữu; đối tượng của tôi đơn giản là tìm xem mọi sự đã thực xảy ra như thế nào,” và khi bàn về Michelet, sử gia Pháp: “Ông ta viết sử theo một văn phong khiến sự thật chẳng kể ra được.” Việc Thomas Carlyle chê bôi ông là “Khô như ngói” quả chẳng đáng lấy làm thẹn. Tôi nợ Heinrich von Ranke, ông ngoại tôi, cái bộ cục mịch của tôi, sức kiên chịu của tôi, nghị lực, tính nghiêm nghị, và bộ tóc dày của tôi. Ông từng nổi loạn và thậm chí vô thần khi còn trẻ. Hồi còn là sinh viên dược đại học Prussian, ông dự vào các cuộc bạo động chính trị năm 1848, thời sinh viên xuống đường ủng hộ Karl Marx lúc ông ta bị xử tội phản quốc. Cũng như Marx, họ phải rời khỏi nước. Ông tôi đến London và hoàn tất bằng dược ở đây. Đến 1854, ông theo Quân đội Anh đến Crimea làm bác sĩ trung đoàn. Những gì tôi biết về quãng ấy chỉ là một lời buột mồm ông vô tình nói lúc tôi còn nhỏ: “Không phải cứ to xác thì mạnh đâu. Ở Sevastopol, trong chiến hào, ta từng thấy những Vệ binh Anh to tướng ngã rạ từng tốp, còn mấy tay công binh nhỏ người thì chẳng hề gì.” Song, xác to vẫn cứ dìu ông đi rất vững.
Ông cưới bà ngoại tôi tại London, một phụ nữ Schleswig – Đan Mạch bé tí, thánh khiết, kinh cụ, con gái ông Tiarks, nhà thiên văn học ở Greenwich. Trước khi cha bà theo nghiệp thiên văn, nhà Tiarks dường như vẫn theo truyền thống nông thôn Đan Mạch – một truyền thống không tồi chút nào – ấy là cha và con thay phiên làm hai nghề. Các đời số lẻ làm thợ thiếc, còn đời số chẵn làm mục sư. Lần những nét dịu dàng hơn trong tính cách của tôi ngược về sẽ thấy bà ngoại tôi ở đầu mối. Bà có mười người con; đầu lòng là mẹ tôi, hạ sinh ở London. Rồi chủ nghĩa vô thần và tư tưởng cấp tiến của ông tôi dần dịu lại. Rốt ông cũng về lại Đức, nơi ông thành danh với nghiệp bác sĩ nhi khoa ở Munich và là người đầu tiên ở châu Âu kiên quyết đòi được sữa sạch cho các bệnh nhi của mình. Thấy chẳng nhập được sữa sạch về bệnh xá bằng những phương cách thường, ông dằn mình tự lập nên một trại bò giống. Tư tưởng bất khả tri của ông là một nỗi muộn phiền lớn cho người bà tín đạo Luther của tôi; bà chẳng khi nào thôi cầu nguyện cho ông, tuy về sau chủ yếu cho sự cứu rỗi linh hồn các con bà.
Ông tôi không chết ngập trong sự không sống lại; lời cuối của ông: “Đức Chúa của cha ông ta, ít ra ta vẫn còn Ngài để nương vào.” Tôi không rõ ông có ý gì khi trăn trối những lời ấy, nhưng câu ấy quả rất hợp với những trạng khí giận dữ kiểu tộc trưởng của ông, cùng việc ông chấp nhận một vị trí cao trọng trong xã hội Bavaria dưới tước Herr Geheimrat Ritter von Ranke, lẫn lòng trung tín ông dành cho Kaiser[1], người từng đi săn hươu với ông đôi lần. Lời ấy, thực chất, có nghĩa là ông tự xem mình là một người Tự do tốt trong cả tôn giáo lẫn chính trị, thành thử bà tôi cũng chẳng phải lo lắng mấy. Tôi mộ họ hàng Đức của mình; họ có các nguyên tắc cao, rộng, nghiêm và lỏng. Các ông từng đấu kiếm không phải vì thứ danh dự cá nhân rẻ rúng, mà vì lợi ích đại đồng – chẳng hạn kháng lại một hành vi ô nhục của một sĩ quan hay quan chức nào đó cấp trên. Một người trong ngành lãnh sự Đức từng bị giáng cấp vì phản đối dùng tòa lãnh sự ở London làm nơi trung gian truyền nhận mật vụ. Họ cũng không phải những tay bê bết rượu chè. Hồi còn là sinh viên, ông tôi, vào những bữa “nhậu” thường của trường, có thói đổ phần bia thừa vào đôi bốt đi ngựa mốt một tám bốn mươi, lúc không ai để ý. Ông dạy các con nói tiếng Anh ở nhà, và luôn coi nước Anh như trung tâm của văn minh và tiến bộ. Còn các bà thì tôn quý và nhẫn nại, và thường luôn cúi mắt xuống đất lúc đi đường.
Năm mười tám, mẹ tôi sang Anh để làm bạn lữ với bà cô, một bà lão đơn côi từng cưu mang bà tôi hồi còn mồ côi và được mẹ tôi cung dưỡng suốt mười bảy năm trời. Khi mất, bà cụ nhắm con mắt với ám ảnh mẹ tôi, người thừa kế duy nhất của bà, sẽ chẳng được gì mấy từ di chúc. Thế mà hóa ra bà để lại đến £100,000. Mẹ tôi, theo đúng tính mình, chia phần thừa kế cho bốn em gái, chỉ giữ lại một phần năm làm riêng. Mẹ từng một mực đòi đi Ấn Độ, sau một quãng tu học để làm y sĩ truyền giáo. Hoài bão ấy sớm tan khi bà gặp cha tôi, một ông góa vợ cắp cánh năm con, và bà thấy rõ ràng rằng mình cũng có thể làm một công việc tốt chẳng kém tại quê hương.
Phả hệ nhà Graves truy ngược về một hiệp sĩ Pháp từng tháp tùng Henry VII đổ bộ vào Milford Haven năm 1485. Đại tá Graves cánh Tròn đầu[2] được xem là thủy tổ của nhánh họ Ireland. Ông có lần bị thương và bỏ mặc chờ chết giữa khu chợ trời trấn Thame, sau được giao làm hầu cận cho vua Charles I tại Lâu đài Carisbrooke, rồi lại quay sang cánh Hoàng gia. Limerick là đất của nhánh này. Những vị làm lính hoặc y sĩ chập chờn trong họ chỉ là thân tộc bên nhánh; còn dòng trưởng thì tuần tự nhau làm hiệu trưởng, trưởng giáo hạt và giám mục, trừ mỗi cụ cố John Crosbie Graves tôi, từng giữ chức Chánh Thẩm Cảnh sát Dubllin. Nhà Graves ở Limerick hoàn toàn không có “tay” hay cảm quan gì cho máy móc; bù lại, họ nổi danh là những người hay chuyện. Với thân thích nào mang đặc điểm dòng họ bên nhánh này, nói năng bừa phứa là một kiểu rối loạn thần kinh điển hình. Không phải kiểu vạ mồm vạ miệng mà luôn đầy thông tin, thường hóm hỉnh, nhưng cứ huyên thuyên mãi. Phía von Ranke dường cũng chẳng khá hơn ở khoản máy móc. Sinh ra giữa thời động cơ đốt trong với máy phát điện và chẳng cảm được gì chúng, tôi thấy vô cùng cùng bất tiện: một xe đạp, một bếp lò Primus và một khẩu súng trường quân đội thôi là đã kịch hạn cho khả năng máy móc của tôi.
Ông nội tôi, Giám mục Kháng cách Limerick, có tám người con. Ông là một nhà toán học lỗi lạc – là người đầu tiên đưa ra một lý thuyết nào đó về hình quạt cầu – và cũng là chuyên gia hàng đầu về Luật Brehon cổ của Ireland và chữ Ogham, nhưng danh tiếng thì kín cửa chứ chẳng tênh hênh. Ông và O’Connell, Giám mục Công giáo, có với nhau một mối thân tình. Cả hai thường khằng khặc những câu đùa tiếng Latin của nhau, luận bàn các vấn đề học thuật tinh vi, và đều đủ phi giáo sĩ để không coi sự bất đồng tôn giáo là vấn đề.
Hồi làm lính đóng quân ở Limerick, độ đâu mười chín năm sau khi ông mất, tôi từng nghe dân trong trấn kể vài chuyện về ông. Giám mục O’Conell có lần đùa chuyện ông có quá nhiều con, ông tôi vặn lại khe khẽ rằng phước cho người nào vắt tên đầy gùi mình; O’Connell liền đáp lại ngắn gọn: “Gùi tên của người Do Thái xưa kia chỉ có sáu thôi.” Đoàn truy điệu ở đám tang ông tôi, họ bảo, là đoàn dài nhất họ từng thấy ở trấn: kéo từ Chính tòa xuống đến tận phố O’Connell, vắt qua cầu Sarfield, rồi dắt về phía Ireland thêm bao nhiêu dặm nữa tôi cũng chẳng biết. Ông từng ban phước cho tôi hồi còn nhỏ, nhưng tôi không nhớ.
Bà nội tôi, một người họ Cheyne từ Aberdeen, tôi chẳng tìm được chút thông tin chi ngoài dữ kiện rằng bà là “một phụ nữ rất đẹp”, con gái của Tổng Y sĩ Quân đội Ireland. Tôi chỉ có thể suy ra rằng phần đa những gì bà nói hay làm đều bị lu mờ trước những lần tranh giành quyền nói trong gia đình. Truy ngược phả hệ Cheyne không chút vết tì này sẽ thấy đến tận Sir Reginald Cheyne, Đại quản Cung điện Scotland vào năm 1267. Về sau nhà Cheyne chủ yếu làm trong mảng luật và y. Nhưng cha tôi hiện nay đang viết hồi ký và hẳn sẽ thuật lại đầy đủ chuyện này.
Cha tôi gặp mẹ tôi đâu đó đầu thập niên chín mươi. Trước đó ông từng cưới một người họ Coopers gốc Ireland, ở Cooper’s Hill, kề Limerick. Nhà Cooper còn rặt Ireland hơn nhà Graves. Chuyện rằng khi Cromwell tiến vào Ireland và tàn phá xứ sở, Moira O’Brien, hậu duệ còn sót của đại tộc O’Brien, những thủ lĩnh chí cao của vùng quanh Limerick, một hôm đến chỗ ông ta và rằng: “Này tể tướng, ngài đã giết cha tôi, các chú bác tôi, chồng tôi và anh em tôi. Giờ tôi là kẻ kế thừa độc đất này. Ngày có định thâu chúng luôn chăng?” Người ta bảo Cromwell sững sờ trước hiện diện uy nghi của bà và đáp rằng ông quả định làm vậy. Nhưng bà có thể giữ lấy đất, hay một phần nào đó, với điều kiện phải cưới một tướng của ông, Ensign Cooper. Jane Cooper, người cha tôi từng cưới, mất vì lao phổi.
Nhà Graves nhọn mũi và có chiều nóng máu, nhưng chưa từng suy đồi, tàn ác, hay cuồng. Một truyền thống văn chương ổn định: có Richard, một nhà thơ hạng thứ và là bạn của Shenstone; có John Thomas, một nhà toán học từng góp công vào khám phá quaternions của Sir William Rowan Hamilton; Richard, một Giáo sư Hy ngữ hoàng gia, thánh tính; James, một nhà khảo cổ; Robert, người phát hiện ra chứng bệnh mang tên mình và là bạn của họa sĩ Turner; Robert khác, nhà cổ điển học, thần học, bạn với Wordsworth; Richard, một người thánh khác; lại Robert, thêm một người thánh; còn nhiều Robert nữa, nhiều James, Thomas, và Richard khác nữa; và Clarissa, một giai nhân Ái Lan, cưới Leopold von Ranke (tại nhà thờ Winderere), qua đó nối nhà Graves và nhà von Ranke lại với nhau, vài đời trước khi đến lượt cha mẹ tôi cưới. (Xem thêm ca-ta-lô của Bảo tàng Anh để thấy lịch sử văn chương của nhà Graves, ghi lại hồi thế kỷ mười tám – mười chín.)
Chính nhờ mối giao kết Clarissa-Leopold này mà cha tôi gặp mẹ tôi. Liền ngay tắp lự, mẹ tôi bảo ông rằng bà ưng bài Father O’Flynn, chủ yếu nhờ bài này mà cha tôi được người ta nhớ đến. Ông phối lời vào khúc jig truyền thống The Top of Cock Road, khúc ông nhớ từ thuở ấu thơ. Sir Charles Stanford thêm vài hợp âm cho bản phối. Cha tôi bán đứt bản quyền với giá một đồng guinea. Boosey, nhà phát hành, thâu vô những hàng nghìn. Sir Charles Stanford, người được trọng vọng đề lên là người soạn nhạc, cũng hưởng một khối lớn. Gần đây cha tôi được gửi cho dăm bảng từ quyền thu âm. Ông không cay đắng gì chuyện này, nhưng đã không ít lần gióng giọng dặn tôi, hầu như một tín điều tôn giáo, rằng có sao đi chăng nữa cũng không được bán đứt toàn quyền bất cứ một tác phẩm nào.
Việc cha tôi là nhà thơ ít nhất đã cứu tôi khỏi bất cứ lòng tôn kính sai nào cho giới thơ ca. Tôi thậm chí còn thấy khoái trá khi gặp người nào biết ông chứ chẳng biết tôi. Tôi ca vài khúc của ông trong khi rửa bát, hoặc lúc tuốt đậu, hoặc vào những dịp nào tương tự. Ông chưa bao giờ dạy tôi viết, hay tỏ ra hiểu về những bài thơ viết nghiêm túc của tôi lấy một lần, lúc nào cũng có chiều hỏi xin ý kiến về thơ mình hơn. Nhưng cũng không bao giờ ông ngăn tôi viết. Những bài vô tư ở đoạn đầu của ông là tuyệt nhất. Sáng chế rượu Vang chẳng hạn, mở đầu như sau:
Thuở Bát-chu hãy còn chưa nhớn
Miệng chưa vững nói, bước chưa đi,
Phóng mình khỏi đỉnh Ô-lim
Ngài sẩy vòng nhũ mẫu, đưa thân khỏi trời,
Đà non sa mười năm mới lị
Sa nữa chăng cũng có lạ gì
Chưa chi mà đã ra gì
Biết đâu sa nữa có khi lại còn.
Sau khi cưới mẹ tôi và bỏ rượu hẳn, người ta bảo rằng ông đã đánh mất phần nào cái nghịch ngợm của mình.
Cha tôi cự lại trước cơn cám dỗ của dòng tộc là đi tu, chẳng đi xa hơn mức đọc kinh; ông cũng đoạn tuyệt mối dây địa lý với Ireland, tôi chẳng biết cảm tạ ông sao cho vừa trước việc ấy. Tuy khó tính với gia đình, cẩn trọng với họ hơn cả với người ngoài, tôi vẫn có thể yêu quý cả cha lẫn mẹ: cha vì tính giản dị kiên cường, mẹ là vì sự nghiêm khắc và sức mạnh. Cả hai là vì lòng rộng lượng: chưa bao giờ nặng tay nặng lời với tôi, và đau buồn trước sự bỏ đạo của tôi hơn là giận. Về thể lý và tính cách thì phía mẹ tôi mạnh hơn trong tôi. Song tôi cũng có nhiều thói nói năng và điệu bộ rất đặc trưng phía họ Graves, phần lớn đều lập dị. Chẳng hạn như khó đi thẳng một đường xuống phố, rứt vụn bánh mì ra trên bàn ăn, thấy mệt đương khi nói rồi bỏ lửng câu, hoặc vừa đi bộ vừa chắp tay sau lưng theo một kiểu rất kỳ, nhất là cơn mất trí nhớ như phép chú từ đâu phủ đến, gây vô chừng luống cuống. Những cơn này, như tôi nhận ra, đã chẳng ích lợi gì lại còn tạo ra nơi nạn nhân thứ nghi cụ thường xảy đến với người điếc bị lạc mạch chuyện – họ ghét bị bỏ rơi và phải bám mình vào trực giác hoặc mấy lời hú họa hầu cho kịp theo. Tật khuyết này tỏ rõ nhất vào mùa rét. Lúc ấy thì tôi chẳng nên nói gì, trừ khi đã uống mấy chén hoặc gặp ai từng chiến đấu với tôi hồi ở Pháp. Nhà Graves có trí tốt cho những việc như thi cử, viết những dòng Latin mỹ miều, điền mẫu, và giải đố (hồi nhỏ, hễ khi nào được mời đến những bữa tiệc có trò đố hay thử trí, bọn tôi chẳng bao giờ thua). Họ cũng có con mắt cho những trò chơi bóng, kèm một phong thái đẹp. Tôi thừa hưởng con mắt ấy nhưng không được cái phong thái; nhà mẹ tôi thì lại chẳng có chút phong thái nào. Tôi ngồi ngựa bộ xấu xí, nhưng được cái chắc. Có một sự lạnh trong máu họ Graves gây phản cảm đến độ chẳng khác chi xấc xược, một đối trọng tất yếu trước cái tâm tốt có phần quá đà từ những người nhu nhược bên mẹ tôi. Nhà Graves, nói khái quát thì cũng ổn thôi; dầu trung tín với tầng lớp cai trị nước Anh mà họ thuộc vào, thành thử trung thành với Hiến pháp, họ lại là những người cá thể chủ nghĩa; họ von Ranke xem địa vị của mình trong tầng lớp tương ứng như một tín thác thánh thiêng, hầu cho họ làm những công việc trọng yếu hơn để phụng sự con người. Mới đây, một người họ von Ranke dấn mình vào một studio phim, cả họ lấy đó làm nhục lắm.
Món quà hữu dụng nhất, đồng thời cũng nguy hiểm nhất tôi nhận được từ phía họ nội tôi – có lẽ là từ nhánh Cheyne hơn là từ Graves – là khả năng, mỗi khi đối mặt với quan chức hay xin đặc quyền từ các cơ quan công quyền vốn chặt chẽ keo kiệt, giả trang thành một tôn ông. Mặc cho tôi có vận gì, mà y phục tôi chẳng phải loại các quý ông thường vận, tôi cũng chẳng ra bộ nghệ sĩ hay ẻo lả, tôi luôn được người ta đặt lên hàng của bậc kế tự một tước công tước hầu nào đó, với sự tự tin từ phẩm hạng mình giải thích cho mọi vẻ lập dị ở trên. Thành thử tôi còn ra dáng tôn ông hơn cả một người anh tôi, vốn từng làm nhiều năm trong ngành lãnh sự tại vùng Cận Đông. Tủ đồ của của anh hầu quá mực kiểu cách tôn ông, và anh chẳng cho mình cái đặc quyền ngụy công tước là giao du với hạng xấu nết và nói thẳng điều mình nghĩ ra trong mọi tình huống.
Về cái sự làm tôn ông này: tôi đã trả quá đắt cho mười bốn năm giáo dục quý ông đến độ tôi thấy mình cũng có quyền, thi thoảng, được thu lại chút lợi tức từ đó.
[1] Tức Hoàng đế, của nước Đức, tương tự Tsar của nước Nga. (ND)
[2] Nguyên văn: Roundhead. Biệt hiệu đặt cho những người ủng hộ Nghị viện chống lại phe Bảo hoàng trong Nội chiến Anh (1642–1651). Tên gọi này xuất phát từ kiểu tóc ngắn của họ, đối lập với mái đầu dài của các quý tộc theo phe nhà vua (Royalists, hay “Cavaliers”). (ND)
chronicles
đảo
Shakespeare (1546 –1616)
Robert Burton (1577–1640)
John Milton (1608–1674)
Laurence Sterne (1713–1768)
Oliver Goldsmith (1728–1774)
Charles Lamb (1775–1834)
Thomas De Quincey (1785–1859)
Coleridge (1772–1834)
George Eliot (1819–1880)
Robert Louis Stevenson (1850–1894)
Joseph Conrad (1857–1924)
Arnold Bennett (1867–1931)
Bertrand Russell (1872–1970)
Ford Madox Ford (1873–1939)
G. K. Chesterton (1874–1936)
E. M. Forster (1879–1970)
Katherine Mansfield (1888–1923)
Jean Rhys (1890–1979)
F. R. Leavis (1895–1978)
Robert Graves (1895–1985)
C. S. Lewis (1898–1963)
Graham Greene (1904–1991)
William Empson (1906–1984)
Edna O’Brien (b. 1930)
V. S. Naipaul (1932–2018)