Về Địa đàng đã mất
Tôi nhiều lần cầm lên cuốn sách này, và cũng nhiều lần bỏ cuộc. Quá trình dịch là lần đầu tiên (và lần duy nhất chăng?) tôi đọc toàn bộ bài thơ này. Nó bị tôi bỏ xó vì nhiều lý do: vì lười, vì mải làm việc khác, vì không duy trì được phần “khoán” hằng ngày mà tác phẩm đòi hỏi, vì lờ nó mà đọc sang thứ khác gợi cảm hơn. Dù sao, với tư cách một bài thơ, đây cũng là tác phẩm rất dài, và không thể nói là lôi cuốn được.
Vậy nên đây là vài điều tôi ước mình đã biết từ đầu, để dù không đọc hết, tôi vẫn có thể đọc đều tác phẩm này:
1. Đừng tìm để gạch chân những câu và từ hay, đắt. Trường tác phẩm này có hơn 1 vạn câu thơ, vì thế tác giả phải dàn trải tinh lực của mình, sao cho ông viết được những đoạn hoặc trường đoạn hay. Dàn trải như thế, cho nên ông không thể quá tập trung vào các chữ hay các câu đơn lẻ. Cái mà những người soạn sử thi muốn hướng người ta đến, không phải là từ hiểm, câu đắt, mà là không khí hoặc sức mạnh của các đoạn thơ - tức là một bài diễn thuyết (như sẽ xuất hiện nhiều trong cuốn này), một lời tỏ tình, một lời than thầm, v.v. Cũng như với người, phải “nhất dáng”, sau cùng mới đến nét, thì với bài thơ này, phải ưu tiên tổng thể, chứ không câu nệ vào câu từ riêng lẻ.
Đây là điều mà C. S. Lewis lưu ý khi sang Wales thỉnh giảng. Ông nói đã bắt gặp nhiều ấn bản Địa đàng đã mất của nhiều người, trong đó những nét bút gạch chân, những ghi chú ngoài lề xuất hiện rất nhiều ở đầu cuốn sách, nhưng về sau cứ thưa dần. Một khả năng, là người ta bỏ cuộc, không đọc nữa. Khả năng thứ hai, là người ta không đọc được theo cách ban đầu nữa.
2. Điểm thứ nhì có thể coi là hệ quả của điểm thứ nhất. Vì bài thơ lớn này chia ra các chương, mỗi chương có nhiều đoạn (chẳng hạn đoạn các ma quỷ hội đồng với nhau, đoạn A-đam tình tự với Ê-va, đoạn người kể vừa than thân vừa khoe tài), nên nếu đọc, hãy đọc hết và dừng lại theo từng đoạn. Đừng bao giờ đặt mục tiêu “đọc càng nhiều càng tốt”, mà hãy đọc cho hết diễn từ của Mô-lóc trong chương Hai, cho xong cuộc đối thoại giữa Sa-tan, Tội Lỗi và Chết ở gần cuối chương ấy, hãy tận hưởng đoạn A-đam và Ê-va âu yếm nhau ở chương Bốn - và chỉ thế thôi! Hãy xác định mục đích của hôm nay là đoạn này, đoạn này, và cố đọc hết, hoặc đến đó phải dừng lại, ngay cả khi có thể đi thêm. Cách đọc này có vài ưu điểm. Một, dù không đọc nhiều, ta đọc đủ nhiều để thưởng thức trọn vẹn một cấu trúc (cũng như nghe trọn vẹn một aria trong vở nhạc kịch vậy). Ta thoát cái bẫy “gạch chân”, “bôi đậm” từ hay câu đắt, nhấm nháp được một tổng thể (đúng như tác giả muốn) mà vẫn không để mình bị ngấy. Hai, nếu đọc ít, nhiều khả năng ta sẽ đọc kĩ hơn. Nhiều chỗ trong Milton không hẳn là dễ tưởng tượng ra (phần phong cảnh trong chương Bốn chẳng hạn, hoặc phần tả cấu trúc vũ trụ ở chương Tám). Đọc chậm, ta sẽ để trí tưởng tượng có thời gian và thể lực để vận hành đúng như tác giả muốn. Phần thưởng sẽ lớn hơn nhiều so với đọc cho nhanh để đi tiếp; riêng tôi hứng thú hơn với chương Bốn sau khi đã ngoan ngoãn vẽ ra trong đầu mình đúng ngọn đồi và bốn con sông chảy trong vườn Ê-đen. Huống chi có những phần gần như là “kiến thức bắt buộc” - chẳng hạn thiên văn Ptolemy - mà không nắm được là sẽ gặp khó trong suốt quá trình đọc. Tóm lại, cứ đọc chậm rãi, đọc trọn vẹn một đoạn, mặc dù không cần đọc nhiều đoạn.
3. Nhiều người đã nói đến tầm quan trọng của diễn đọc trong việc đọc sử thi. Homer không hề viết xuống; ông đã hát thơ mình, nhiều khả năng là bên cạnh đàn đệm. Tương tự, Beowulf của tiếng Anglo-Saxon được thi sĩ hoặc con hát xướng lên trong sảnh đường của các nhà quyền quý. Tuy nhiên, có người cho rằng bên cạnh các sử thi để hát hoặc diễn đọc, có loại sử thi “ghế bành”, tức là có thể đọc thầm, đọc một mình, trong thư phòng. Aeneid và Địa đàng đã mất được họ liệt vào hàng này. Riêng tôi thấy nên gộp cả hai. Lần đọc thứ nhất, tôi cần đọc thầm vì tôi cần nắm được nghĩa. Lần đọc thứ hai, tôi mới thưởng thức nhạc tính mà Milton đã nói, tức là “câu thơ khoẻ, số âm tiết phù hợp, ý thơ tràn từ câu này sang câu khác”. Lần đọc thứ nhất là cơ sở cho lần đọc thứ hai, vì nếu không hiểu nội dung đoạn thơ thì thi tài của tác giả có ích gì cho tôi? Song lần đọc thứ hai mang đến ý nghĩa cho lần đọc thứ nhất, bởi nếu tôi không có được từ thơ cái trải nghiệm đặc thù của nó, với nhạc tính trầm bổng, hình dung dồn dập, giọng điệu và thái độ v.v. thì tôi hiểu nội dung của nó làm gì?
4. Nhận định sau đây là nhận định “ngoài văn bản”. Iliad không thế, Beowulf không thế, Roland không thế, song Địa đàng đã mất sử dụng rất nhiều điển cố, rút từ nhiều kinh sách trong tủ sách kinh điển mà anh học trò bình thường vào thế kỷ mười bảy phải đọc. Tôi nghĩ nhiều người sẽ coi đây là trở ngại; phổ biến hơn, họ biến nó thành trở ngại cho người khác. Họ cho rằng vì nó là tác phẩm uyên bác của một nhà thơ lớn, cho nên người đọc cũng phải uyên bác, cũng phải sành từ Virgil, Ovid cho đến Kinh Thánh, Kinh Kabbala; phải làm chủ được kiến thức thiên văn từ Ptolemy đến Galileo, phải đọc trước Spenser, Ariosto, Tasso, tức ba thi sĩ đã ảnh hưởng nhiều nhất đến ngòi bút sử thi của Milton; phải vừa thông thạo thần học Công Giáo, vừa am tường phong trào Kháng cách và thần học Tin Lành. Nói cách khác, người đọc phải ở tầm một bạn cùng lớp với Milton, thậm chí bạn cùng ký túc xá, cùng nhau đi nghe giảng và cùng nhau đọc sách mỗi tối.
Tôi không cho là vậy. Thứ nhất, ở những chỗ khó, những chỗ chứa đựng kiến thức không còn phổ thông, ta có thể dựa vào chú thích. Thứ hai, chính vì Milton là tác giả lớn, cho nên những kinh kệ và thi từ ông trích dẫn sẽ mang một diện mạo mới trong tâm tưởng của người đọc ông. Tôi chưa từng đọc Ovid, nhưng việc Milton sử dụng nội dung, thậm chí cách diễn đạt, từ Ovid, đã khiến tôi rất tò mò về người này, để rồi cuối cùng tôi tìm đọc và rất chi là thích thú. Vậy là Ovid trong Milton không ngăn trở tôi; trái lại, chính nhờ Milton mà tôi tìm về và có được niềm vui không ngờ nơi Ovid.
Có lẽ nhiều người sẽ tháo gỡ được khó khăn này, nếu họ thông cảm thay vì choáng ngợp trước cách viết của Milton. Thể thơ mà tác giả chọn là một trường ca, một tác phẩm bi hùng, tuy không bị ràng buộc bởi vần những vẫn phải chạy theo một nhịp thơ xác định. Ông không thể hoặc rất hiếm khi được sử dụng các quan sát và chất liệu cảm xúc của đời sống thường nhật, bởi những bực mình nho nhỏ, bất ngờ nho nhỏ, những vui vẻ hay thất vọng vụn vặt không phải là chất liệu phù hợp cho chủ đề và thể loại của bài thơ. Vậy thì lấy gì để bồi da đắp thịt cho bài thơ dài mười chương (như ông kế hoạch tự đầu) đây? Kiến thức sách vở. Ta hãy tưởng tượng ra một người đọc không những nhiều văn chương Latin, Ý, Tây Ban Nha, mà còn xào thêm đủ các thứ môn - sử, địa, thiên văn, hùng biện, thần học, khoa học và nguỵ khoa học, chưa kể ngón nghề đại phong cầm thừa hưởng từ người cha. Chỉ những kiến thức này mới có cái trang nghiêm hoặc tầm vóc to rộng mà thể tài và chủ đề đòi hỏi. Vẽ thế nào cho ra tầm vóc một ác quỷ đã từng là thiên thần đây? Làm gì có trải nghiệm nào, quan sát nào, vừa mang hơi ấm con người thường nhật, vừa giãi tỏ được một nhân vật không thường nhật đến thế? Thế là phải viện đến “tấm lưng Át-látx”, “con thuỷ quái Lê-vi-a-than”, “đứa con khổng lồ Đất Mẹ sinh ra”. Nhiều người cho rằng Milton dùng điển cố để khoe học vấn uyên thâm; tôi nghĩ ông có nhiều động cơ hơn thế, bởi đã có nhiều đoạn tự ông (tức người kể) đã thú nhận rằng sự sáng này, tầm vóc này, tiếng ồn này, cảnh giao tranh này v.v. là không thứ lời không tả xiết, và nếu tả thì đành … và ông lại quay về dùng thần thoại hoặc kiến thức địa lý.
Hơn nữa, hình như trong quá trình sáng tác, tuôn các thứ kiến thức từ sách vở phi hư cấu là một cách để tác giả vùng ra khỏi bế tắc. Khi sức sáng tạo đang chuội, câu chuyện đang lỏng, ý thơ đang yếu, người ta cần một cú hích mà xét ra thì không có nhiều giá trị văn chương. Để mô tả thật lâu một thiên thần to lớn không phải là dễ; có lúc ngòi bút bải hoải đi vì phải nói về tất cả những thứ “to”, “khổng lồ”, “khôi vĩ” ở thiên thần ấy. Vậy nên, để tiếp sức cho nó, người ta phải nói đến tấm thân “như con Lê-vi-a-than”, đến cây giáo thần linh khiến cho những cây thông thửa từ Na Uy bé lại như cây đũa. Chưa biết hình dung này có giúp gì độc giả, nhưng có thể nó đã giúp tác giả vượt qua bãi lầy.
Khi xử lý những đối tượng hoàn toàn ngược lại, tức là không bi hùng, không hoành tráng, không to tát, tác giả không dùng cách diễn đạt này nữa. Có lẽ vì thế nên ta càng nên tin, rằng ông đã dùng cách ấy vì nội dung tác phẩm đòi hỏi, rằng đó là lựa chọn mà ta nên thông cảm và nhẫn nại đồng hành.
5. Ở ý cuối cùng, tôi muốn nói đến một sợi chỉ chạy suốt bài thơ này; một trong những tư tưởng xuyên suốt gây nhiều tranh cãi và phẫn nộ nhất. Tôi muốn nói đến thang bậc mà Milton tin là tồn tại khách quan: loài người làm chủ loài vật, đàn ông làm chủ đàn bà, thiên sứ ở trên con người, Đức Chúa Trời ở trên, ở trong và là tất cả. Đây là tư tưởng dấu ấn mạnh nhất lên tác phẩm, được bảo vệ nhiều nhất, qua nhiều tình tiết, nhiều lý lẽ nhất. Âm lượng được dùng để phát biểu nó là âm lượng lớn nhất, thái độ dùng để trình bày nó là cứng rắn, không khoan nhượng nhất.
Kể ra, độc giả tin vào trật tự này hay không, cũng không phải là điều quan trọng. Vì rằng giá trị của tác phẩm nằm ở sức mạnh của nó, ở trải nghiệm mà nó cho ta. Ta muốn biết, tin như Milton là tin thế nào, chứ ta không đọc để bị thuyết phục và tin những điều ông tin. C. S. Lewis thích Augustine và Lucretius cả trước lẫn sau khi ông đã cải đạo; ông nói, ông thích họ, xưa cũng như nay, là bởi, xưa cũng như nay, ông đọc thứ họ viết một cách văn chương nhất. Tôi không đọc Lucretius để trở thành người vô thần; tôi muốn trải nghiệm xem người vô thần như Lucretius thì tin và nói năng như thế nào.
Nhưng nếu phải nói điều gì đó thuần tuý chính trị hay triết học về hệ thống của Milton, có lẽ tôi nói hai điều. Một: quan điểm thang bậc trong siêu hình hay xã hội dân sự, không phải là quan điểm đơn thuần đàn áp. Nhà quý tộc ý thức rõ về quyền cai quản đất đai và cai trị người ở dưới mình; nhưng anh ta ý thức rõ không kém về trách nhiệm với những gì mình thống trị. Chính vì là người thống trị, anh ta phải ăn ở cho xứng với thân phận. Thế nên mới có hệ đạo đức “cao quý” (noble); thế nên mới không lấy mạnh hiếp yếu, không ỷ gia thế mà quyến rũ hay cưỡng ép con gái nhà bình dân. Chính vì “có đẳng cấp và có học như chúng ta”, nên mới không được chửi bới, thoá mạ người thấp kém hơn - nhất là phụ nữ (xem A Handful of Dust). Chính vì giàu có, ở trên nhiều kẻ có ít hơn hoặc không có, mà phải cho đi, phải giúp đỡ kẻ bần cùng. Tương tự về mặt siêu hình. Chính vì thống trị động vật, nên con người đừng sát hại vô cớ, đừng hành hạ, đừng lạm dụng, đừng để chúng sống trong điều kiện tồi tệ. Chính vì ở trên đàn bà, nên đàn ông đừng thô bạo, đừng áp đặt, bởi
mái tóc tượng trưng cho sự vâng phục nàng dâng,
nhưng chỉ dâng lên khi được ôn tồn khuyên dỗ.
Vậy là chính nhờ sự phân tầng này, mà các tầng lớp và giới khác nhau mới có phẩm chất đặc thù cho giai cấp và giới của mình - các hệ phẩm chất mà đến giờ này chúng ta còn hưởng lợi.
Điều thứ hai là một luận cứ đặc biệt Milton. Ông tin rằng một khi trật tự bị đảo lộn, chắc chắn sẽ lan truyền những lời lẽ dối trá về “bình đẳng”. Vì rằng ai xâu xé trật tự ấy, nếu không phải những kẻ vốn ở dưới mà muốn đứng trên tất cả? Ma quỷ muốn làm Chúa, nên nó thuyết phục các thiên thần khác rằng tất cả đều ngang bằng Chúa. Ma quỷ muốn quyến dụ loài người, nên nó tỉ tê rằng loài người “không tội gì không trở thành các Đức Chúa Trời”. Nơi đâu có bất mãn với trật tự trên dưới Chúa đặt để, tức là nơi đó đang có kẻ đang rao truyền điều dối trá về sự ngang bằng. Thế là có biến loạn, can qua; số đông bị số ít lừa phỉnh, số ít bị chính mình lừa dối; thế là có tội lỗi, tưởng sống phúc lạc hơn nhưng sống khốn nạn hơn khi trước.
Tôi không muốn nói theo cách quá ép uổng, bởi bản thân tôi cũng là người sinh trưởng trong xã hội không giai cấp. Chưa chắc tôi dễ chấp nhận cho ai đứng trên mình “theo lẽ tự nhiên”. Nhưng chúng ta hãy thử nhớ về một hay hai người - một người chú, một người bạn thời ấu niên, một người cấp trên cũ, một người đã từng cùng ta nấu bếp - mà ta muốn đầu phục, muốn làm hài lòng và thấy rất xứng đáng để làm hài lòng. Ta sẽ hiểu điều mà Milton muốn nói ở đây; rằng được ở trên tức là hành xử xứng đáng với địa vị ở trên, là hành xử khiến lòng người cảm động và tuân phục. Hẳn Ê-va thấy A-đam uy nghi và xứng đáng như thế; hẳn các thiên sứ đã thấy Đức Chúa Trời vinh hiển, đại lượng và xứng với ngôi Ngài như vậy. Có gì xấu trong sự đầu phục hết lòng và cai trị xứng đáng này ư?
Nguyễn Công Nam
