Tommaso Landolfi: Đêm cưới
Không chỉ cùng là hai nhà văn người Ý, sinh cùng một năm 1908, cùng khai thác chiến lược tự thuật tuyệt đối trung tính, phản cách điệu (anti-rhetorical) và chuyển toàn bộ trọng tâm sức nặng lên trí tuệ người kể, tình thế của Pavese và Landolfi khi họ được dịch và in lần đầu tiên vào nửa đầu thập niên 1960 ở văn đàn Mỹ (với Pavese là bốn cuốn tiểu thuyết, Landolfi hẻo hơn với chỉ một tập Vợ Gogol và Những Truyện Khác) cũng khá giống nhau, họ đều trở thành những tác giả khó đọc, thô thiển một cách khó hiểu.
Đêm cưới (Notte di nozze) nằm trong tuyển tập này lập tức chia rẽ giới bình luận Mỹ vốn dĩ quen với thứ văn chương “mỡ mùng mà không béo bở” (Sontag) đang thống trị. Bằng văn phong kiệm lời, chính xác và đầy tính biểu tượng, Landolfi đã dựng nên một ngụ ngôn bắt đúng khoảnh khắc khi sự trinh bạch đã mất và bóng tối ngoại quan tràn vào.
Đêm cưới
– Tommaso Landolfi
Sắp tàn tiệc, người ta báo có thợ nạo ống khói tới. Sẵn đang vui và ngẫm nghĩ rằng việc quét dọn ống khói vào ngày vui này âu cũng hợp nghi thức, cha cô dâu liền cho vào. Nhưng người thợ không bước vào, mà chỉ đứng ở bếp, gần lò sưởi lớn. Những lời chúc tụng còn chưa giã giề, vài người khách có vẻ bực ngầm vì bị gián đoạn; nhưng trẻ con reo hò dữ quá, người ta đành rời ghế.
Cô dâu chưa từng thấy thợ nạo ống khói này bao giờ, lần trước người này tới nàng còn đang học trường nội trú. Bước vào bếp, nàng thấy một người cao, đằm, râu xám và vai gù đương vận bộ đồ nhung kẻ màu hạt lanh. Dù vừa mới rửa rất kỹ, da mặt y vẫn đen sậm, như thể những cái mụn đầu đen đủ mọi kích cỡ đã bén rễ ở đó. Trên trán và má, một lớp mạt đen vướng vào các đường nếp, khiến diện mạo ấy tạo ra một cảm giác gì đó khôn ngoan mà điềm đạm. Nhưng ấn tượng này không kéo dài lâu, sự nhút nhát hiển hiện của người đàn ông trở nên khá rõ rệt, đặc biệt khi các đường nếp trên gương mặt ấy dồn vào nhau thành một kiểu cười.
Bởi đứng ngay cửa, y gần như khiến cô dâu trẻ sợ hãi, dù bản thân y cũng có sợ hãi. Và như thể bị bắt gặp đang làm điều đó đáng chê trách và phải biện minh cho sự hiện diện của mình ở chỗ đó, y cứ giải thích tới lui với cô dâu trẻ, trong đó có vài câu nàng không nghe rõ hoặc không hiểu được. Y vừa lắp bắp không thôi và cư xử như thể nghĩ rằng những điều y nói đều liên quan dữ dội tới nàng, vừa nhìn nàng với đôi mắt của một con chó bị ngược đãi nhưng ấn chứa nhiều ý nghĩa. Ngay từ giây phút đầu tiên, cô dâu trẻ đã ý thức được bản chất sâu bướm của y.
Y cởi áo khoác và bắt đầu tháo khuy áo gi-lê. Nàng chuồi ra một bên cửa khác, nhưng vẫn dõi theo sự thể ở trong bếp. Nàng có cảm giác người đàn ông kia sắp làm điều gì đó không đứng đắn lắm và nếu nàng cứ ở đó thì y sẽ bối rối khi thực hiện các thao tác của mình. Không hiểu sao nàng thấy xấu hổ thay cho y. Nhưng chẳng có tiếng động nào dung dưỡng cho trí tưởng tượng ấy của nàng, thế là nàng lại trở vào. Lũ trẻ đã bị đuổi đi và y chỉ còn có một mình. Khi ấy, y đang đứng trên một cái thang tựa vào thành trong lò sưởi, chân để trần, vận áo sơ-mi nâu xắn tay. Trên sợi dây da quấn ngang ngực là một dụng cụ trông giống cái máng nạo bột, song công dụng là gì thì nàng dâu trẻ không biết được. Và y còn đeo theo cái bịt miệng màu đen, buộc chặt sau hai tai, che kín miệng và mũi. Nhưng chưa kịp thấy y chui vào ống khói, nàng đã bỏ chạy.
Khi trở vào lần hai, gian bếp vắng ngắt nhưng một mùi lạ và cực kỳ khủng khiếp đã loang ra khắp nơi. Nhìn quanh, cô dâu trẻ thoạt tiên tưởng nó tới từ đôi giày to tướng y quăng ở một xó, bên cạnh mớ áo ngoài lột ra. Thực tế, đó là mùi xú khí từ muội than rơi thành từng trận lác đác theo nhịp tiếng cào cục mịch gặm vào tận tuỷ sống của căn nhà, bấy giờ đã tụ được thành một đống trên đá lát lò, và nàng cảm thấy nó như vang lên từ chính lòng ruột mình. Trong khoảng lặng giữa những lần ma sát, âm thanh kỳ cọ nghẹt ngào phơi bày rằng y đang nhọc nhằn treo lên thêm.
Rồi một khoảnh khắc im lặng tuyệt đối buông xuống, một khoảnh khắc khiến cô dâu trẻ hồi hộp đến tan nát cõi lòng. Nàng cứ dán mắt vào cửa ống khỏi, ở dưới mái che đáy phễu lò đen thui; cái cửa ấy không vuông mà hẹp, một khe tối hù.
Rồi một tiếng kêu thất thanh, khàn đặc, không thuộc về con người vọng ra từ nơi nào đó bí ẩn, có thể là từ đáy giếng, từ trong đá xây nhà, từ linh hồn nồi niêu bếp núc, từ chính lồng ngực cô dâu trẻ, khiến toàn thân nàng chấn động. Tiếng rú như dã thú kêu lên đau đớn ấy té ra lại là một tiếng reo hò: người thợ đã chui ra mái. Tiếng nạo tăm tắp trở lại nhanh hơn, cuối cùng một bàn chân đen lòm thò xuống từ khe hở tìm chỗ tựa – bàn chân của một kẻ bị treo. Chân tìm thấy thanh thang, cô dâu trẻ bỏ chạy.
Ngoài sân, cô dâu ngồi trên cối xay, bà quản gia già, người đàn bà luôn tìm thấy sự mới lạ ở mọi thứ, đảm nhiệm việc truyền tin. Bà đi đi lại lại để báo chuyện với vẻ bí hiểm lắm. “Giờ anh ta đang quét dưới mái che,” cô dâu trẻ hình dung cảnh y rũ bụi than, đứng thẳng trên đống xỉ như người đào mộ đứng trên gò đất. “Nhưng anh ta xỏ gì vào chân để bám lên tường?” Rồi bà chạy lại hỏi: “Cậu ơi, cậu xỏ gì vào chân để có thể bám lên tường?” Một câu đáp vui vẻ vang lên nhưng không rõ là gì. “Giờ anh ta đang ăn sáng,” bà quản gia vọng từ trong ra. Rồi bà trở lại với vài bông nhung tuyết nhỏ, bà bảo y đã lấy ra từ một cái hộp nhỏ sạch sẽ để gửi tặng cô dâu trẻ.
Một lúc sau, chính y bước ra, quần áo đã bận vào lại, ba lô đã quàng. Y băng qua sân đi về, nhưng giữa đường thì cha nàng giữ lại hỏi han thật hiền từ về đời sống của y. Cô dâu trẻ cũng lại gần. Ở đó, dưới nắng đông yếu ớt, gương mặt y lại sẫm màu thêm, râu đen lốm đốm, mắt nheo vì sáng, người đàn ông trông giống một con bướm đêm lớn, một con chim ăn đêm bị ánh ban ngày làm cho giật mình. Hoặc đúng hơn, y trông giống một con nhện hay con rận; sự thật là cái mái che của lò sưởi, khi nhìn từ dưới lên và nếu đủ ánh sáng bên ngoài, không đen hết mà rỉ ra một ánh sáng xám và nhầy nhụa.
Y bảo suốt ba mươi lăm năm nay mình đã đi khắp các thị trấn để nạo ống khói, rằng năm sau y sẽ dắt theo đứa con trai nhỏ để truyền nghề cho nó, rằng việc hái hoa nhung tuyết giờ đã bị cấm nhưng y đã kịp vặt vài bông, cùng vài chuyện vặt vãnh tương tự. Thế nhưng, dù không ngoan hay ngập ngừng, y rõ ràng chỉ muốn ẩn mình sau những lời nói đó, bức màn từ ngữ y buông xuống hệt cái cách con mực phun mục làm đen nước.
Mọi cái chết trong gia đình ấy y đều tường tận hết, thế mà chưa ai trong số họ từng nhìn thấy y!
Giờ đây, cô dâu trẻ không còn cảm thấy xấu hổ cho y nữa, mà thực lòng lấy làm xấu hổ cho chính mình.
Sau khi người nạo ống khói ra đi, nàng đặt mấy bông nhung tuyết dưới những bức chân dung của người đã khuất.
(1939)
Bùi Gia Bin dịch