Natalia Ginzburg: hai texts
Hai texts của Natalia Ginzburg, "Anh và tôi" và "Nghề của tôi", cũng như những gì Văn Bản đã đăng trước đây, "Giày thủng" và "Chân dung một người bạn", đều được lấy từ một tập sách nhỏ mang tên Le piccole virtú, mà Ginzburg đã cùng Italo Calvino chuẩn bị in vào năm 1962, tại nhà xuất bản Einaudi.
Nhà xuất bản Einaudi, một địa điểm vô cùng quan trọng của cuộc sống văn chương Ý, được Giulio Einaudi lập ra vào giữa thập niên 30 của thế kỷ 20, ban đầu được hỗ trợ đắc lực bởi Leone Ginzburg và Cesare Pavese. Natalia Ginzburg, cũng như Italo Calvino (và cả Felice Balbo) có vai trò quan trọng ở giai đoạn về sau.
Italo Calvino chính là người thuyết phục Natalia Ginzburg lấy cái tên Le piccole virtú cho cuốn sách, cho dù nếu đọc thư giữa hai người, ta có thể thấy Calvino đã hiểu sai ý nghĩa của cụm từ đó (Natalia Ginzburg muốn nói người ta thật sai lầm khi cứ dạy cho trẻ con về "các đức hạnh nhỏ" như là sự tiết kiệm, trong khi cần phải làm cho chúng trở nên hào phóng, thậm chí là hoang phí - trong khi Calvino tưởng điều được nhấn mạnh là những gì nhỏ bé, khiêm nhường). Natalia nghiêng hơn về nhan đề như "Im lặng" hoặc "Mùa đông ở Abruzzi", tên hai text khác trong tập.
Trong cuộc đời Natalia Ginzburg, có một số người đàn ông quan trọng, như Leone Ginzburg và ba người con trai, trong đó một người là Carlo Ginzburg.
Anh và tôi
Anh lúc nào cũng thấy nóng; tôi thì lại lúc nào cũng bị lạnh. Mùa hè, những khi nào trời thực sự nóng, anh không làm gì khác ngoài phàn nàn về sự nóng. Anh phẫn nộ vì thấy buổi tối tôi mặc một cái áo săng đay.
Anh nói giỏi nhiều thứ tiếng; tôi chẳng nói giỏi tiếng nào. Thậm chí anh còn nói được, theo một cách thức nhất định, các ngôn ngữ mà anh không biết.
Anh rất giỏi định hướng; tôi thì không hề. Tại các thành phố nước ngoài, sau một ngày, anh đã đi lại nhẹ nhõm như một con bướm. Còn tôi thì bị lạc ở chính thành phố của tôi; và tôi phải hỏi đường để về được nhà. Anh ghét hỏi đường. Những lúc chúng tôi đi ô tô đến những thành phố lạ, anh không muốn hỏi thông tin, và anh ra lệnh cho tôi xem bản đồ. Tôi lại không biết xem bản đồ, tôi bị rối loạn trong các dấu hiệu nhỏ màu đỏ, và anh nổi giận.
Anh thích nhà hát, hội họa, và âm nhạc: nhất là âm nhạc. Tôi không hiểu gì về nhạc, hội họa với tôi chẳng mấy quan trọng, và tôi buồn chán tại nhà hát. Tôi thích và hiểu một thứ duy nhất trên đời, đó là thơ.
Anh thích các viện bảo tàng, và tôi phải tự bắt buộc mình thì mới tới được đó, với cảm tri khó chịu về nghĩa vụ và về sự mệt. Anh thích các thư viện, còn tôi ghét chúng. Anh thích các chuyến đi xa, những thành phố xa lạ và chưa biết, các quán ăn. Tôi thì sẵn sàng lúc nào cũng ở lại nhà, tôi thích không phải nhúc nhích.
Tuy vậy tôi đi theo anh trong nhiều chuyến. Tôi đi theo anh đến các bảo tàng, đến các nhà thờ, tới Opera. Tôi cũng theo anh đến các buổi công xe, và tôi ngủ gục.
Vì anh quen các nhạc trưởng, các ca sĩ, cho nên anh thích, sau buổi diễn, tới chúc mừng họ. Tôi đi theo anh xuyên qua những hành lang dài dẫn tới các lô của ca sĩ, tôi lắng nghe anh nói với những người ăn vận như hồng y và vua.
Anh không rụt rè; còn tôi thì rụt rè. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, tôi từng thấy anh bị lép vế. Với cảnh sát, những khi họ tiến lại gần xe ô tô của chúng tôi, tay cầm một quyển sổ và một cái bút. Với họ anh trở nên rụt rè, vì tự biết mình mắc lỗi.
Và ngay cả những lúc anh không cảm thấy mình mắc lỗi. Tôi nghĩ rằng anh nuôi dưỡng lòng kính trọng đối với uy quyền luật định.
Còn tôi, uy quyền luật định, tôi e sợ nó, anh thì lại không. Anh, anh kính trọng nó. Rất khác nhau. Tôi thì, nếu thấy một cảnh sát tiến về phía chúng tôi để viết giấy phạt, ngay lập tức tôi nghĩ kẻ đó muốn nhốt tôi vào tù. Còn anh, anh không nghĩ tới nhà tù; nhưng anh trở nên, do lòng kính trọng, rụt rè và dễ mến.
Vì cái đó, vì lòng kính trọng uy quyền luật định của anh, chúng tôi đã, hồi xảy ra phiên tòa Montesi, cãi nhau tới phát điên.
Anh thích tagliatelle, thịt cừu, sơ ri, rượu vang đỏ. Tôi lại thích minestrone, french toast, trứng om lét, rau.
Anh có thói quen nói với tôi rằng tôi chẳng biết gì về những thứ dùng để ăn; và tôi giống một số thầy tu to béo mạnh mẽ, bọn họ ngốn ngấu xúp rau trong bóng râm tu viện của họ; trong khi anh là một người tinh xảo, rất khôn mồm. Ở quán ăn, anh hỏi han thật lâu về các loại rượu; anh bảo mang đến cho mình xem dăm ba chai, anh săm soi chúng, anh suy nghĩ, vừa nghĩ vừa khẽ đưa tay vuốt râu.
Ở Anh, tại một số quán ăn người bồi dùng nghi thức nho nhỏ sau: rót cho người khách chút rượu vang vào ly, để người đó thấy nó có hợp khẩu vị của mình hay chăng. Anh căm ghét cái nghi thức nhỏ ấy; và lần nào anh cũng cấm bồi bàn làm như vậy bằng cách giật lấy cái chai khỏi tay anh ta. Còn tôi, tôi trách móc anh, nêu với anh nhận xét rằng người nào cũng phải có thể hoàn thành các bổn phận riêng của mình.
Cũng thế, ở rạp chiếu phim, anh không bao giờ muốn người xếp chỗ dẫn anh đến chỗ của mình. Ngay lập tức anh đưa tiền bo cho người ấy, nhưng anh bỏ chạy vào những chỗ lúc nào cũng khác với những chỗ mà nhân viên xếp chỗ, với ngọn đèn của mình, đã chỉ cho anh.
Ở rạp chiếu phim, anh muốn ngồi gần sát màn hình. Nếu chúng tôi đi cùng bạn bè, những người tìm, như phần lớn người ta, một chỗ xa màn hình một chút, anh liền một mình ẩn vào một trong các hàng đầu tiên. Còn tôi, từ gần hay từ xa thì cũng thế cả; nhưng, do đi cùng bạn, tôi ở lại với họ, vì thân tình; nhưng tôi đau khổ, vì có khả năng anh, sát rạt màn hình, vì tôi không ngồi cạnh, sẽ giận tôi.
Cả hai chúng tôi đều thích điện ảnh; và chúng tôi sẵn sàng xem, vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày, bất kỳ loại phim nào. Nhưng anh biết lịch sử điện ảnh ở các chi tiết nhỏ nhất; anh nhớ được các đạo diễn và các diễn viên, ngay cả những người xa xưa nhất, đã bị quên và chết từ lâu; anh sẵn sàng đi hàng cây số để tìm, ở những vùng ngoại ô xa xôi hơn cả, các bộ phim câm rất cũ, nơi sẽ xuất hiện, thậm chí chỉ trong vòng vài giây, một diễn viên yêu quý đối với những kỷ niệm thơ ấu xa xưa nhất của anh. Tôi còn nhớ, tại London, một chiều Chủ nhật; người ta chiếu, ở một khu ngoại ô rất xa, gần như là nông thôn, một bộ phim về Cách mạng Pháp, một bộ phim làm hồi thập niên 30 của thế kỷ 20, mà anh từng xem khi còn nhỏ, và trong đó xuất hiện trong chốc lát một nữ diễn viên rất nổi tiếng hồi ấy. Chúng tôi đã lái xe đi tìm cái phố rất xa xôi đó; trời mưa, đầy sương mù, chúng tôi đã lang thang suốt hàng giờ và hàng giờ băng ngang những ngoại ô giống hệt nhau, băng ngang các dải dăng dài xám xịt những ngôi nhà nhỏ, các ống máng nhỏ, các đèn khí cùng hàng rào sắt; tôi để tấm bàn đồ trong lòng, tôi không sao mà đọc nó được, và anh bắt đầu nổi giận; rốt cuộc chúng tôi cũng tìm được cái rạp, chúng tôi ngồi vào một phòng chiếu vắng tanh. Nhưng chỉ sau mười lăm phút, anh đã muốn đi khỏi đó, ngay sau sự xuất hiện ngắn ngủi của nữ diễn viên mà anh nhất định muốn xem; tôi thì, ngược lại, tôi muốn, sau khi đã đi ngần ấy đường đất, xem bộ phim kết thúc như thế nào. Tôi không còn nhớ ý chí của anh hay ý chí của tôi đã thắng; có lẽ là ý chí của anh, và chúng tôi đã đi khỏi sau mười lăm phút; cũng vì đã muộn, và dẫu chúng tôi bắt đầu đi từ đầu buổi chiều, lúc này đã đến giờ ăn tối. Nhưng khi tôi bảo anh kể cho tôi nghe đoạn kết của câu chuyện, thì chẳng hề có câu trả lời nào ngõ hầu khiến tôi thỏa mãn; vì, anh nói, câu chuyện không quan trọng mấy, điều duy nhất đáng kể là vài giây phút kia, khuôn mặt nhìn nghiêng, cử chỉ, các lọn tóc của nữ diễn viên đó.
Tôi chẳng bao giờ nhớ được tên các diễn viên; và vì không giỏi xét đoán ngoại hình, đôi khi tôi gặp khó khăn trong việc nhận ra họ, ngay cả những người nổi tiếng nhất. Điều này làm cho anh bực bội khủng khiếp; tôi hỏi anh người này người kia là ai, bằng cách đó mà khơi lên sự phẫn nộ ở anh; "đừng nói với anh - anh bảo - đừng nói với anh là em đã không nhận ra William Holden đấy nhé!".
Quả thật, tôi đã không nhận ra William Holden. Và thế nhưng, tôi cũng thích điện ảnh; nhưng dẫu đi xem phim từ nhiều năm, tôi đã không biết cách có được hiểu biết lớn về nó. Còn anh, ngược lại, rất hiểu biết: anh vô cùng hiểu biết mọi thứ gì thu hút sự tò mò của anh: và tôi, tôi đã không biết cách trở nên hiểu biết về bất cứ điều gì, ngay cả về những thứ mà tôi thích nhất trong đời: ở tôi chúng vẫn giống những hình ảnh tản mát, bằng cách ấy cung cấp dưỡng chất cho cuộc đời tôi bằng các kỷ niệm cùng cảm xúc, nhưng không lấp đầy được khoảng trống và sa mạc nơi hiểu biết của tôi.
Anh bảo tôi rằng tôi thiếu sự tò mò: nhưng điều này không đúng. Tôi cảm thấy tò mò với ít, rất ít thứ; và chừng nào đã biết chúng, tôi giữ từ chúng vài hình ảnh tản mát, nhịp điệu của một câu hay của một từ. Nhưng vũ trụ của tôi, nơi những nhịp và hình ảnh ấy lướt qua, bị cô lập khỏi nhau, chứ không được nối lại với nhau bằng sợi dây nếu không phải bí mật thì đối với tôi cũng không thể biết và vô hình, thật khô cằn và sầu muộn. Vũ trụ của anh, ngược lại, có màu lục rậm rịt, vô vàn phong phú và nhiều nảy nở; một vùng nông thôn trù phú và được tưới tiêu tốt, nơi mọc lên các cánh rừng, đồng cỏ, vườn rau và những ngôi làng.
Đối với tôi, hoạt động nào cũng khó, gây mệt mỏi, thiếu chắc chắn đến cực điểm. Tôi rất lười và, nếu muốn kết thúc một cái gì đó, tôi tuyệt đối cần phải biếng nhác, nhiều tiếng đồng hồ nằm thượt trên các đi văng. Còn anh, vốn chẳng bao giờ biết ngừng năng nổ, lúc nào anh cũng đang làm một điều gì đó; anh gõ máy chữ rất nhanh, trong lúc radio bật; những lúc nghỉ ngơi, vào buổi chiều, anh cầm theo bản in thử để sửa hoặc một quyển sách chi chít ghi chú; anh muốn rằng, trong cùng một hôm, chúng tôi ra rạp chiếu phim, rồi tới một buổi tiếp tân, rồi nhà hát. Anh thành công trong việc làm và khiến tôi làm, trong cùng một ngày, cả một đoàn lũ những điều khác nhau; gặp những người đa dạng nhất; và, nếu chỉ có một mình mà lại tìm cách làm như anh, thì tôi chẳng làm được gì, vì ở chỗ tôi đã nghĩ mình sẽ ở lại nửa tiếng, rốt cuộc tôi chôn chân suốt cả buổi chiều, vì tôi bị lạc và không tìm được các phố, hoặc vì cái người chán ngắt bậc nhất, mà tôi ít muốn gặp nhất, lôi kéo tôi theo đến chỗ tôi ít muốn tới nhất.
Nếu tôi kể cho anh buổi chiều của tôi đã trôi qua như thế nào, anh thấy là buổi chiều của tôi đã bị tiêu phí mất, và anh vui thích, chế nhạo tôi, và anh nổi cáu; và anh nói rằng nếu không có anh thì tôi chẳng làm được gì hết.
Tôi không biết cách tổ chức thời gian của mình. Anh thì biết.
Anh thích các cuộc tiếp tân. Anh đến đó, ăn vận sáng màu, trong khi tất tật mặc com lê sẫm. Cái ý thay quần áo để tới một cuộc tiếp tân không hề nảy ra trong óc anh. Thậm chí anh mặc cái áo gió cũ và đội mũ nhăn nhúm mà đến; một cái mũ len mà anh đã mua ở London, đội sùm sụp xuống tận mắt. Anh chỉ ở lại đó nửa tiếng, anh thích, trong vòng nửa tiếng, chuyện gẫu, tay cầm một ly rượu; anh ăn thật nhiều những cái bánh ngọt nhỏ, còn tôi gần như không ăn gì, vì thấy anh ăn nhiều tới vậy, tôi nghĩ là ít nhất thì mình, vì lịch sự và ý nhị, phải không được ăn; sau khoảng nửa tiếng, khi tôi bắt đầu quen được với bầu không khí xung quanh và cảm thấy thoải mái, anh nổi cơn sốt ruột và lôi tôi đi.
Tôi không biết nhảy còn anh thì có.
Tôi không biết gõ máy chữ; anh thì biết.
Tôi không biết lái xe. Nếu tôi bảo anh để tôi cũng đi thi lấy bằng, anh không muốn. Anh bảo, vả lại, tôi sẽ chẳng bao giờ thi qua được đâu. Tôi nghĩ rằng anh thích tôi phải phụ thuộc, ở thật nhiều điều, vào anh.
Tôi không biết hát, còn anh biết. Đó là một người có giọng baryton. Nếu tập luyện hát thì có lẽ anh sẽ trở thành một ca sĩ nổi tiếng.
Nếu học nhạc, có lẽ anh sẽ trở thành được nhạc trưởng. Những lúc nghe các đĩa hát, anh hay dùng một cái bút chì chỉ huy dàn nhạc. Cùng lúc đó anh gõ máy chữ, và trả lời điện thoại. Đấy là một người làm được nhiều việc cùng một lúc.
Anh là thầy giáo, và tôi nghĩ anh dạy giỏi.
Hẳn anh đã có thể làm nhiều nghề. Nhưng anh không tiếc nghề nào mà anh đã không làm. Tôi thì hẳn chỉ có thể làm được một nghề, một nghề duy nhất: cái nghề mà tôi đã chọn và làm, gần như từ hồi còn nhỏ. Cả tôi cũng không tiếc nghề nào mà tôi đã không làm, nhưng, thêm nữa, hẳn tôi chẳng thể làm nghề nào trong số đó.
Tôi viết các truyện ngắn, và tôi từng làm việc, suốt nhiều năm, tại một nhà xuất bản.
Tôi làm việc không tệ, nhưng cũng chẳng tốt. Tuy nhiên tôi nhận thấy là có lẽ hẳn mình sẽ không biết làm việc ở đâu khác. Tôi có, với các bạn làm cùng và ông chủ của tôi, mối quan hệ bạn bè. Tôi cảm thấy rằng, nếu không có ở quanh mình những quan hệ ấy thì hẳn tôi sẽ bị phá hủy, và hẳn sẽ không biết làm việc.
Tôi từng nuôi dưỡng rất lâu cái ý rồi một ngày sẽ có thể viết các kịch bản điện ảnh. Nhưng tôi chưa bao giờ có cơ hội làm việc đó, hoặc chưa bao giờ biết cách tìm ra nó. Giờ đây tôi đã đánh mất mọi hy vọng có bao giờ được viết các kịch bản. Anh thì đã làm việc với các kịch bản, trong vòng một thời gian, hồi còn trẻ hơn. Anh cũng từng làm việc ở một nhà xuất bản. Anh đã viết các truyện ngắn. Anh đã làm tất tật những điều mà tôi từng làm, và ngoài đó ra còn nhiều điều khác nữa.
Anh biết bắt chước người khác, và đặc biệt là một bà bá tước già; có lẽ anh có thể trở thành một diễn viên giỏi.
Một lần, tại London, anh đã hát tại một nhà hát. Anh đóng vai Job. Anh phải đi thuê một bộ quần áo và anh ở đó, quần áo đã mặc, trước một dạng bục, và hát. Anh hát những lời của Job, một cái gì đó giữa đọc và hát. Tôi, trong một lô, tôi sợ phát khiếp. Tôi sợ anh bị rối lên, hoặc giả anh làm tuột cái quần dài đang mặc.
Vây quanh anh là nhiều ông ăn vận trang trọng, cùng các bà mặc váy dạ hội, đấy là các thiên thần và quỷ, rồi còn thêm các nhân vật khác của Job.
Đó là một thành công lớn, và người ta đã bảo anh là anh rất khá.
Nếu có yêu âm nhạc, thì hẳn tôi đã yêu nó hết sức nồng nhiệt. Trong khi tôi không hiểu nó; và ở các công xe, nơi đôi khi anh bắt tôi tới cùng, tôi bị lãng trí, và bị lạc vào những suy nghĩ của tôi. Hoặc giả tôi rơi vào một giấc ngủ thật sâu.
Tôi thích hát. Tôi không biết hát và không có tai nhạc; tuy vậy tôi vẫn hát, đôi khi, rất khẽ, những lúc chỉ có một mình.
Việc tôi hát sai nhạc thì tôi biết, vì những người khác từng nói với tôi; giọng tôi hẳn giống tiếng mèo kêu. Nhưng tự tôi thì chẳng thấy gì; và tôi cảm thấy, khi hát, một khoái lạc rất lớn. Còn anh, nếu nghe thấy tôi, anh bắt chước tôi. Anh nói rằng tiếng hát của tôi là một cái gì đó nằm bên ngoài âm nhạc, một cái gì đó mà tôi đã tạo ra.
Tôi ư ử, hồi còn nhỏ, các đoạn nhạc mà tôi đã bịa ra. Ấy là một tràng than thở dài, nó làm nước mắt tôi trào ra.
Tôi thấy chẳng làm sao chuyện mình không hiểu hội họa, các nghệ thuật biểu hình; nhưng tôi đau đớn vì không yêu được âm nhạc, vì đối với tôi dường như tinh thần tôi khổ vì bị tước đi mất tình yêu đó. Tuy nhiên, chẳng thể làm được gì; sẽ không bao giờ tôi hiểu được âm nhạc, sẽ không bao giờ tôi yêu nó. Nếu, đôi khi, nghe thấy thứ âm nhạc khiến tôi thích, tôi không biết cách nhớ lấy nó; và thế thì làm thế nào mà tôi lại có thể yêu một thứ, mà tôi không biết cách nhớ?
Tôi nhớ được lời của một bài hát. Tôi có thể nhắc đi nhắc lại vô chừng những lời bài hát mà tôi thích. Tôi cũng nhắc lại đoạn nhạc đệm cho chúng, theo cách của tôi, trong tiếng mèo kêu của tôi; và tôi cảm thấy, những lúc kêu meo meo như vậy, một dạng hạnh phúc.
Tôi có cảm giác, trong khi viết, mình đi theo một nhịp điệu và một mơ duya nhạc. Có lẽ âm nhạc ở rất gần vũ trụ của tôi, và vũ trụ của tôi, ai mà biết được tại sao, đã không đón nhận nó.
Ở nhà chúng tôi, tiếng nhạc vang lên suốt ngày. Anh mở radio suốt ngày. Hoặc anh bật những cái đĩa. Thỉnh thoảng, tôi phản đối, tôi đòi một chút im lặng nhằm có thể làm việc; nhưng anh bảo là một âm nhạc đẹp đến vậy chắc chắn có nhiều lợi ích cho mọi công việc.
Anh đã mua một số lượng đĩa nhạc không thể tưởng tượng nổi. Anh sở hữu, anh nói, một trong các bộ sưu tập đĩa nhạc đẹp nhất trên đời.
Buổi sáng, vận pe nhoa tắm, nước rỏ tong tỏng, anh bật radio, anh ngồi xuống trước cái máy chữ của mình và bắt đầu ngày của anh, cần cù, giông tố và ồn ào. Ở anh, mọi điều đều đầy tràn; anh đổ nước tràn bồn tắm; anh đổ nước vào ấm trà và đổ trà vào tách làm nước sánh ra. Anh có một số lượng áo sơ mi và cà vạt ngoạn mục. Ngược lại, hiếm khi anh mua giày.
Mẹ anh nói rằng hồi nhỏ anh là một tấm gương về trật tự và chính xác; và dường như có một lần, phải băng ngang một số rãnh nước ngập bùn, ở nông thôn, vào một hôm trời mưa, đi dưới chân đôi giày nhỏ màu trắng và mặc áo veste trắng, anh đã đi đến được cuối con đường dạo chơi mà không hề bị lấm bẩn, không có lấy một vết bùn trên bộ quần áo cùng đôi giày của anh. Ngày nay, ở anh chẳng còn dấu vết nào từ đứa bé sạch tinh của ngày xưa. Quần áo anh lúc nào cũng lấm đầy các vết. Anh đã trở nên rất lộn xộn.
Tuy nhiên anh hết sức tỉ mẩn đối với tất tật những hóa đơn tiền ga, mà anh giữ lại. Tôi tìm được trong các ngăn kéo những hóa đơn ga cũ, cho các chỗ ở đã rời khỏi từ lâu, mà anh từ chối vứt đi.
Tôi cũng tìm được những điếu xì gà Tuscany, rất cũ và nhăn nheo, cùng các đót thuốc lá bằng gỗ anh đào.
Tôi thì tôi hút thuốc lá Stop, dài, không đầu lọc. Anh, thỉnh thoảng, những điếu xì gà Tuscany.
Tôi lộn xộn đến đáng khiếp hãi. Tuy nhiên, khi già đi, tôi nuối tiếc trật tự, và đôi khi, bằng cách cố gắng hết sức, tôi dọn những cái tủ. Tôi nghĩ rằng tôi nhớ đến mẹ tôi. Tôi dọn tủ quần áo, chăn màn, và trong mùa hè tôi dùng tấm che màu trắng phủ lên mỗi ngăn kéo. Hiếm khi tôi sắp xếp giấy tờ của tôi, vì mẹ tôi, do không viết, không có giấy. Trật tự của tôi và sự lộn xộn của tôi chất đầy các nuối tiếc, sám hối, những tình cảm phức tạp. Anh thì có một sự lộn xộn đầy khải hoàn. Anh đã quyết định rằng, đối với một người như anh, một người làm việc, sẽ rất đúng và hợp thức nếu có một cái bàn thật lộn xộn.
Anh không cải thiện được, ở tôi, sự thiếu chính xác, sự thiếu chắc chắn về phía mỗi hành động, cảm giác mình có tội. Anh có thói quen cười và chế nhạo tôi, đối với mỗi hành động của tôi, dẫu nhỏ đến đâu. Nếu tôi đi chợ, thì anh, đôi khi, lén lút đi theo để rình tôi; rồi anh chế nhạo cách thức tôi dùng để mua đồ, tôi đã nhắc những quả cam trên tay như thế nào, hết sức cẩn thận chọn lấy, anh bảo, những gì tệ hại nhất của cả chợ; anh gây chuyện với tôi vì tôi đi chợ mất tận một tiếng, vì tôi đã mua hành ở một hàng, cần tây ở một hàng khác, rồi hoa quả ở một hàng khác nữa. Đôi khi, chính anh đi chợ để chỉ cho tôi người ta có thể làm việc đó nhanh ra sao; anh mua mọi thứ tại cùng một chỗ, chẳng hề do dự chút nào; và anh bảo được người ta xách đồ về cho mình. Anh không mua cần tây, vì anh ghét món ấy.
Thành thử, tôi có, hơn bao giờ hết, những mối nghi ngờ về mọi điều gì mà tôi làm. Nhưng nếu, một lần, có thể bắt lỗi được anh, thì tôi nhắc đi nhắc lại cái đó với anh đến phát bực. Vì đôi khi tôi có thể gây bực bội rất nhiều.
Những cơn giận dữ của anh rất đột ngột, và trào ra như bọt bia. Những cơn giận dữ của tôi cũng đột ngột. Nhưng các cơn giận của anh bay hơi ngay lập tức; còn các cơn giận của tôi, ngược lại, lê thê đến thảm thương và bướng bỉnh, với một dạng mèo kêu đầy chua cay, cái đó thì, tôi nghĩ thế, rất bực.
Đôi khi, trong cơn cuồng phong những giận dữ của anh, tôi òa khóc; và những giọt nước mắt của tôi, thay vì khiến anh thương hại và làm anh dịu đi, lại càng làm cho anh trở nên thịnh nộ ghê hơn. Anh bảo rằng những khóc lóc đó chỉ là một màn hài kịch; và điều này có lẽ đúng. Vì, ở giữa các giọt nước mắt của mình và cơn giận dữ của anh, tôi hoàn toàn bình thản.
Về những nỗi sầu khổ đúng nghĩa của mình, chẳng bao giờ tôi khóc.
Có một quãng, trong các cơn giận của mình, tôi ném bát đĩa xuống đất. Nhưng giờ thì tôi không làm vậy nữa. Có lẽ vì tôi đã già đi, và những giận dữ của tôi bớt hung bạo hơn; và rồi, giờ đây, hẳn tôi không còn dám động vào đống đĩa của chúng tôi nữa, tôi rất gắn bó với chúng, mà chúng tôi đã mua, một ngày kia, tại London, Portobello Road.
Giá tiền những cái đĩa ấy, cũng như nhiều thứ khác mà chúng tôi từng mua, đã phải chịu, trong ký ức của anh, một sự sụt giảm mạnh. Vì anh thích nghĩ là mình đã ít tiêu tiền, và đã kiếm được một món hời. Tôi thì biết giá của mấy bộ đĩa đó, 16 bảng; anh thì bảo là 12. Cũng vậy đối với bức tranh vẽ vua Lear, treo trong phòng ăn của chúng tôi: một bức tranh mà anh cũng đã mua ở Portobello, mà anh đã dùng hành và khoai tây để lau lên; giờ đây anh nói mình đã trả một cái giá nào đó, còn tôi nhớ là nó cao hơn thế nhiều.
Anh đã mua, cách đây vài năm, tại siêu thị rẻ tiền, mười hai cái thảm dưới giường. Anh đã mua chúng vì không đắt, và anh nghĩ cần phải dự trữ chúng; anh đã mua chúng nhằm làm tôi sôi tiết, vì thấy là tôi không có khả năng mua cái gì cho nhà của chúng tôi. Đống thảm dưới giường đó, màu bã rượu, đã trở nên, chỉ trong một thời gian ngắn, đáng kinh tởm; chúng cứng ngắc lại như xác chết; và tôi ghét chúng, treo ở đó trên dây phơi ban công phòng bếp. Tôi có thói quen trách anh về chúng, như là ví dụ cho một lần mua đồ kém cỏi; nhưng anh lại nói chúng rất rẻ, rất rất rẻ, gần như chẳng mất gì. Mất nhiều thời gian thì tôi mới vứt chúng đi được; vì có quá nhiều, và vì, đúng vào lúc vứt chúng đi, tôi nảy ra các đắn đo, nghĩ rằng có thể dùng chúng làm giẻ lau. Chúng tôi gặp, cả anh lẫn tôi, khó khăn nhất định trong việc vứt các thứ đồ đi; ở tôi, đó hẳn là một hình thức lưu giữ Do Thái, và là kết quả từ nỗi thiếu chắc chắn to lớn của tôi; ở anh, chắc đó là một sự tự vệ trước thói hoang phí cùng sự hấp tấp của anh.
Anh có thói quen mua, với số lượng lớn, muối natri cacbonat và aspirin.
Đôi khi anh bị ốm, với những cơn khó ở bí hiểm; anh không biết cách giải thích điều mình cảm thấy; anh nằm trên giường cả ngày, quấn chặt mình trong chăn; chỉ có thể trông thấy bộ râu của anh, và chỏm cái mũi đỏ của anh.
Những lúc như vậy anh uống muối natri cacbonat và aspirin, với các liều đủ cho ngựa; và anh nói rằng tôi không hiểu được đâu, vì tôi thì lúc nào cũng khỏe, giống những ông thầy tu mạnh mẽ kia, bọn họ đi gió đi máy chẳng làm sao; còn anh, ngược lại, anh rất tinh xảo và tế nhị, mắc phải các căn bệnh bí hiểm. Rồi tối đến thì anh khỏi, và anh đi vào bếp nấu mì tagliatelle.
Hồi còn trẻ, anh đẹp trai, gầy, mảnh, khi ấy anh chưa có râu, mà có hàng ria mềm, dài; và trông anh giống diễn viễn Robert Donat. Anh từng như vậy cách đây hai mươi năm, lúc tôi quen anh; và tôi còn nhớ anh hay mặc những chiếc áo va rơi Ê-cốt thanh lịch, bằng vài flanen. Tôi nhớ một tối nọ anh đã đi cùng tôi về nhà trọ nơi tôi sống khi đó; chúng tôi đã bước đi dọc theo via Nazionale. Tôi cảm thấy mình đã rất già, trĩu nặng kinh nghiệm và các sai lầm; đối với tôi anh như một đứa trẻ con, cách xa tôi hàng nghìn dặm. Những gì chúng tôi nói với nhau tối hôm đó, dọc theo via Nazionale, tôi không còn nhớ nữa: chẳng có gì quan trọng, tôi cho là vậy; cách tôi cả nghìn dặm cái ý rồi một ngày kia chúng tôi sẽ trở thành vợ chồng. Rồi chúng tôi mất dấu nhau; và chừng chúng tôi gặp lại, thì anh không còn giống Robert Donat nữa, mà giống Balzac thì đúng hơn. Khi chúng tôi gặp lại nhau, anh vẫn mặc những chiếc áo va rơi Ê-cốt, nhưng giờ đây cái đó thật giống, ở trên người anh, một thứ trang phục mặc để đi thám hiểm vùng cực; giờ thì anh để râu và đội trên đầu cái mũ bê rê len nhàu nát; và mọi thứ ở anh đều khiến người ta nghĩ tới một khởi hành sắp sửa đi Bắc Cực. Bởi, dẫu luôn luôn cảm thấy rất nóng, anh lại hay ăn vận như thể vây quanh anh là tuyết, băng và lũ gấu trắng; hoặc ngược lại anh vận đồ như một chủ đồn điền cà phê bên Braxin; nhưng anh không bao giờ mặc giống tất cả mọi người.
Nếu tôi nhắc lại với anh về cuộc dạo bộ cũ của chúng tôi dọc theo via Nazionale, thì anh bảo mình vẫn nhớ nó, nhưng tôi biết anh nói dối và anh không nhớ gì; tôi thì, đôi khi, tôi tự hỏi chẳng biết đấy có phải là chúng tôi hay không, hai con người kia, cách đây hai mươi năm, trên via Nazionale; hai con người đã chuyện gẫu với nhau hết sức thân ái, lịch sự, vào lúc mặt trời lặn; có khả năng họ đã nói một chút về mọi điều và cũng chẳng nói gì; hai người trò chuyện khả ái, hai trí thức trẻ tuổi đang đi dạo; rất trẻ, rất có học, rất lơ đãng, rất sẵn lòng có về nhau một đánh giá tốt, theo lối lơ đãng; rất sẵn lòng từ biệt nhau mãi mãi, vào lúc mặt trời lặn, nơi góc phố kia.
Nghề của tôi
Nghề của tôi là viết. Tôi biết rõ điều này, và là từ rất lâu rồi. Tôi hy vọng sẽ không làm người ta hiểu sai. Về giá trị của những gì tôi viết, tôi không biết gì. Tôi biết rằng viết là nghề của tôi. Những lúc nào khởi sự viết, tôi cảm thấy vô cùng thoải mái, và tôi dịch chuyển trong một môi trường dường tôi biết vô cùng rõ. Tôi sử dụng các công cụ đối với tôi thật quen và thân thuộc, và tôi cảm thấy chúng rất vững chắc trong tay mình. Nếu làm bất kỳ việc gì khác, nếu học một ngoại ngữ, nếu tìm cách biết về lịch sử hay địa dư, hay viết tốc ký, hoặc nếu thử nói trước đông người, hay đan, hay đi xa, tôi đều khổ sở, và tôi thường trực tự hỏi những người khác làm cùng những cái đó như thế nào, lúc nào tôi cũng có cảm giác chắc là phải có một phương cách tốt để làm những cái đó, mà ai cũng biết, chỉ trừ tôi. Và tôi thấy như thể mình bị điếc và mù, và như thể tôi thấy buồn nôn nơi đáy sâu của mình. Ngược lại, những khi viết, tôi không bao giờ nghĩ là có lẽ có một phương cách tốt hơn mà các nhà văn khác sử dụng. Những gì mà các nhà văn khác làm, tôi chẳng quan tâm. Cần phải hiểu đúng: tôi chỉ có thể viết các câu chuyện. Nếu tôi tìm cách viết một tiểu luận phê bình, hoặc một bài theo đơn đặt hàng cho một tờ báo, thì chuyện sẽ khá tệ. Những gì mà tôi viết khi đó, tôi phải nặng nề tìm, như thể ở bên ngoài tôi. Tôi có thể làm việc đó giỏi hơn một chút so với học ngoại ngữ, hay nói trước đông người, nhưng chỉ hơn một chút. Và tôi có cảm giác mình đang lừa đảo người khác với các từ đi mượn hoặc chộp giật đây đó. Và tôi đau đớn và cảm thấy mình đang bị lưu đày. Ngược lại, những lúc viết các câu chuyện, tôi giống một ai đó đang được ở tổ quốc của mình, trên những con đường mà người ấy biết từ hồi còn nhỏ, và ở giữa các bức tường cùng những cái cây vốn dĩ là của người ấy. Nghề của tôi là viết các câu chuyện, những điều bịa ra hoặc những điều thuộc cuộc đời tôi mà tôi còn nhớ, nhưng, dẫu thế nào, thì cũng là các câu chuyện, những điều nơi văn hóa không đi vào, mà chỉ có ký ức cùng phăng te di. Chính là cái đó, nghề của tôi, và tôi sẽ làm nó cho tới khi chết. Tôi rất sung sướng với nghề này, và tôi sẽ không đổi nó lấy bất kỳ cái gì trên đời; tôi đã hiểu, cách đây đã lâu, rằng đó là nghề của tôi. Từ năm đến mười tuổi tôi không chắc chắn về điều đó, và tôi tưởng tượng một chút là mình có thể vẽ, một chút là mình sẽ đi ngựa chinh phục các đất nước, và một chút là mình sẽ tạo ra những cái máy mới hết sức quan trọng; nhưng sau tuổi lên mười thì tôi đã luôn luôn biết điều đó, và tôi diễn tả như tôi có thể, với các tiểu thuyết và những bài thơ. Tôi vẫn còn giữ những bài thơ ấy. Những bài đầu tiên rất vụng về với các câu thơ lạc điệu, nhưng khá vui; và ngược lại, thời gian càng trôi qua, tôi càng làm những bài thơ bớt vụng hơn, nhưng càng lúc càng chán hơn và ngu xuẩn hơn. Nhưng tôi đã không biết điều này, và tôi thấy xấu hổ vì những bài thơ vụng, và ngược lại những bài nào bớt vụng hơn và ngu xuẩn đối với tôi rất đẹp; tôi từng lúc nào cũng nghĩ rằng rồi một ngày kia một nhà thơ lừng danh nào đó sẽ phát hiện chúng và cho in chúng, và viết về tôi những bài báo dài; tôi tưởng tượng ra các từ, các câu của những bài đó, mà tôi biết thật đầy đủ ở bên trong tôi. Tôi đã nghĩ mình sẽ giành giải Fracchia. Tôi từng nghe nói đó là một giải thưởng cho các nhà văn. Vì không thể in thành sách những bài thơ của mình, do hồi ấy tôi không quen nhà thơ lừng danh nào, tôi đã hết sức cẩn thận chép lại chúng vào một quyển vở, và tôi vẽ một bông hoa nhỏ lên trang đầu tiên, và tôi lập mục lục cùng mọi thứ. Đối với tôi việc viết các bài thơ đã trở nên rất dễ dàng. Gần như mỗi ngày tôi viết một bài. Tôi nhận thấy là nếu không muốn viết tôi chỉ cần đọc các bài thơ của Pascoli, hay của Gozzano hay của Corazzini là ngay lập tức lại thấy muốn viết. Tôi viết ra những bài thơ theo kiểu Pascoli hay theo kiểu Gozzano hay theo kiểu Corazzini, rồi, cuối cùng, rất kiểu D'Annunzio, chừng tôi phát hiện được là cũng có cả ông nữa. Tuy nhiên tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ viết thơ cả đời, tôi muốn, sớm hoặc muộn, viết những cuốn tiểu thuyết.
Tôi đã viết ba hay bốn tiểu thuyết trong những năm đó. Có một cuốn mang nhan đề Marion hay cô bé Gypsy, một cuốn khác được đặt tên Molly và Dolly (truyện hài và trinh thám) và một cuốn khác Một phụ nữ (theo lối D'Annunzio, ở ngôi thứ hai, câu chuyện về một phụ nữ bị chồng bỏ rơi; tôi còn nhớ là cũng có cả một bà đầu bếp da đen), và rồi một cuốn khác rất dài và phức tạp, với các câu chuyện khủng khiếp về những cô gái bị bắt cóc và những cái xe, thậm chí tôi còn thấy sợ khi viết nó, nếu ở nhà một mình: tôi đã quên toàn bộ, chỉ còn nhớ là có một câu tôi thích vô cùng tận, và nước mắt tôi trào ra vào lúc tôi viết nó: "Anh nói: A! Isabelle đi mất rồi." Chương sách kết thúc ở cái câu rất quan trọng đó, vì nó được thốt ra bởi một người đàn ông yêu Isabella, nhưng lại không biết là vậy, anh ta hẵng còn chưa tự thú nhận với chính mình điều này. Tôi không còn nhớ được gì về người đàn ông ấy, tôi nghĩ anh ta có một bộ râu màu hung nhạt. Isabella có mái tóc dài màu đen với các ánh phản chiếu xanh nhạt; tôi không còn biết điều gì khác nữa. Tôi biết rằng suốt một thời gian dài một cơn run rẩy vì niềm vui túm lấy tôi những khi tôi tự nhắc lại với mình: "A! Isabella đi mất rồi." Tôi cũng hay nhắc lại một câu mà tôi đã tìm được trong một phơi-ơ-tông đăng trên Stampa, nó như thế này: "Kẻ sát nhân Gilonne, mi đã để con ta ở đâu rồi?" Nhưng tôi ít chắc chắn về các tiểu thuyết hơn so với về những bài thơ của mình.
Đọc lại chúng, tôi luôn luôn phát hiện được một khía cạnh kém, một điều gì đó bị hụt làm hỏng đi toàn bộ, mà tôi thấy là không thể sửa đổi. Lúc nào tôi cũng có chút bị lùng nhùng giữa sự cổ xưa và sự hiện đại, tôi không sao mà đặt được chúng cho chuẩn xác trong thời gian: có một chút các tu viện và cỗ xe ngựa và một dáng vẻ Cách mạng Pháp, và một chút các nhân viên cảnh sát với dùi cui của bọn họ; và đột nhiên từ đó chui ra một giới tiểu bourgeois xám xịt, với những cái máy khâu và với lũ mèo, như vẫn hay có trong các cuốn sách của Carola Prosperi và, bên cạnh những tu viện cùng cỗ xe ngựa cái đó tạo hiệu ứng thực sự tệ hại. Tôi trôi nổi giữa Carola Prosperi và Victor Hugo và những câu chuyện của Nick Carter: tôi không biết thật rõ điều mà mình muốn làm. Tôi cũng rất thích Annie Vivanti. Có một câu trong Divoratori, nơi bà viết cho một người xa lạ, và bà bảo: "Váy của tôi sẫm màu." Đó cũng là một câu mà tôi từng tự nhắc đi nhắc lại suốt một thời gian dài. Trong ngày tôi thì thầm những câu mà tôi vô cùng thích ấy: "Kẻ sát nhân Gilonne", "Isabella đi mất rồi", "Váy của tôi sẫm màu", và tôi cảm thấy sung sướng vô biên.
Viết thơ thì dễ. Tôi rất thích những bài thơ của tôi, đối với tôi chúng dường gần như hoàn hảo, tôi không hiểu đâu là khác biệt giữa chúng và các bài thơ đúng nghĩa mà những nhà thơ đúng nghĩa in ra. Tôi không hiểu tại sao, khi tôi đưa chúng cho các anh tôi đọc, họ lại cười và bảo tôi tốt hơn hết là học tiếng Hy Lạp đi. Tôi nghĩ có lẽ các anh tôi không hiểu mấy về thơ. Và, trong quãng thời gian đó, tôi phải đến trường, và học tiếng Hy Lạp, tiếng Latin, toán, lịch sử, và tôi thấy rất bất hạnh và cảm thấy mình bị lưu đày. Tôi bỏ các ngày của mình để viết những bài thơ và chép lại chúng vào các quyển vở, và tôi không học bài, và hồi ấy tôi đặt chuông đồng hồ báo thức năm giờ sáng. Đồng hồ đổ chuông, nhưng tôi không dậy. Tôi dậy vào lúc bảy giờ, khi đã quá muộn để học, và tôi đã phải mặc quần áo để đi đến trường. Tôi không thấy sung sướng, lúc nào tôi cũng thấy sợ khủng khiếp, và tôi có cảm giác về sự mất trật tự cùng tội lỗi. Tôi học ở trường, học lịch sử trong giờ Latin, học tiếng Hy Lạp trong giờ lịch sử, và cứ như vậy, và tôi chẳng học được gì. Trong một khoảng thời gian không ngắn, tôi đã nghĩ là đáng để làm như vậy, vì những bài thơ của tôi quá đẹp, nhưng tới một thời điểm, tôi nảy ra nghi ngờ và nghĩ có lẽ chúng không đẹp đến thế, và tôi bắt đầu buồn chán khi viết chúng, nỗ lực nhằm tìm ý; và tôi có cảm giác đã khai thác tất tật các chủ đề khả dĩ, đã dùng tới tật tật các từ và tất tật các vần: hy vọng tán lọng, đau đớn hơn hớn, gió thổi sao chổi, hương thơm máy bơm.
Tôi không còn tìm được gì để nói nữa. Thế là khởi sự một thời kỳ khốn quẫn cho tôi, và tôi bỏ cả buổi chiều mà ngần ngừ giữa nhiều từ, chúng không còn mang lại cho tôi chút khoái lạc nào nữa, với cảm giác có tội và xấu hổ về những gì liên quan tới trường lớp; chẳng bao giờ nảy ra trong tâm trí tôi ý là mình đã nhầm nghề, viết, tôi muốn viết, chỉ có điều tôi không hiểu tại sao đột nhiên các ngày đối với tôi lại trở nên khô cằn và nghèo nàn từ ngữ như vậy.
Thứ có giá trị đầu tiên mà tôi viết được là một truyện ngắn. Một truyện ngắn rất ngắn, năm hay sáu trang: nó đã trồi lên như một phép mầu, trong một buổi tối, và sau đó, khi đi nằm, tôi mệt nhoài, đần ra và sửng sốt. Tôi có cảm giác đó là một thứ nghiêm túc, thứ nghiêm túc đầu tiên mà tôi từng bao giờ làm được: những bài thơ và những tiểu thuyết với các cô gái và các cỗ xe đột nhiên đối với tôi dường rất xa xôi, trong một giai đoạn đã biến mất vĩnh viễn, những tạo vật ngây thơ và lố bịch của một thời khác. Trong câu chuyện mới này có các nhân vật. Isabella và người đàn ông có bộ râu hung nhạt không phải là các nhân vật: tôi chẳng biết gì về họ ngoài những câu và những từ mà tôi đã dùng cho họ, họ tùy thuộc vào sự ngẫu nhĩ và vào phăng te di của ý chí tôi. Các lời và các câu mà tôi đã dùng cho họ, tôi vợt được chúng đầy tình cờ: cứ như thể tôi có một cái túi, và tôi kéo ra bừa phứa lúc thì một bộ râu, khi lại là một bà đầu bếp da đen, hoặc một cái gì đó khác mà người ta có thể dùng. Lần này, ngược lại, chuyện đã không phải là một trò chơi. Lần này tôi đã tạo ra các nhân vật có tên, mà tôi không thể thay đổi. Hẳn tôi sẽ chẳng thể thay đổi gì ở họ, và tôi biết cả đống chi tiết về họ, tôi biết cuộc đời họ đã như thế nào cho đến ngày tôi viết câu chuyện, ngay cả khi trong câu chuyện tôi đã không nhắc gì tới những cái đó, vì chẳng hề cần thiết. Và tôi biết mọi điều về ngôi nhà và về cây cầu, về trăng và về sông. Tôi mười bảy tuổi vào lúc ấy, và tôi thi hỏng tiếng Latin, tiếng Hy Lạp và toán. Tôi khóc rất nhiều khi biết điều đó. Nhưng giờ đây, khi tôi đã viết truyện ngắn này rồi, tôi thấy đỡ xấu hổ hơn. Ấy là mùa hè, một đêm hè. Cửa sổ mở ra vườn, và lũ bướm sẫm tối bay quanh ngọn đèn. Tôi đã viết truyện của tôi trên giấy kẻ ca rô, và tôi cảm thấy sung sướng như chưa từng bao giờ vậy trong đời, và phong phú các ý nghĩ cùng lời nói. Người đàn ông tên là Maurizio, còn người phụ nữ, Anna, và đứa bé tên là Villi, cũng có cây cầu, trăng và sông nữa. Những cái đó tồn tại bên trong tôi. Người đàn ông và người phụ nữ không tốt cũng không độc ác, nhưng rất hài và có chút đáng thương, và khi đó tôi thấy dường mình phát hiện được rằng các nhân vật, trong những cuốn sách, luôn luôn phải như thế, vừa rất hài vừa đáng thương. Dẫu có nhìn nó từ khía cạnh nào, thì truyện ngắn đó đối với tôi cũng thật đáng ngưỡng mộ: không có nhầm lẫn nào: mọi điều đều xảy đến đúng lúc, vào đúng thời điểm. Tôi có cảm giác, kể từ nay, hẳn mình sẽ có thể viết hàng triệu truyện ngắn.
Và quả thật tôi đã viết một số truyện ngắn, theo các quãng cách một hay hai tháng, một số khá hay, một số thì không. Lúc đó tôi phát hiện ra rằng người ta bị mệt nếu thật nghiêm túc mà viết một cái gì đó. Nếu không thấy mệt thì đó là dấu hiệu xấu. Như vậy người ta không thể hy vọng viết được một cái gì nghiêm túc một cách nhẹ nhõm, như chỉ cần dùng một tay, bay bổng, tươi hớn. Người ta không dễ dàng thoát thân được như vậy. Chừng ai đó viết một thứ nghiêm túc anh ta liền rơi vào bên trong, anh ta thực sự bị chìm nghỉm trong đó tới tận mắt; và nếu trong tim anh ta có những tình cảm rất mạnh khiến anh ta phải lo lắng, nếu anh ta rất sung sướng hay bất hạnh vì một lý do nào đó, chúng ta hãy nói là thuộc trần thế, vốn dĩ chẳng có gì chung với cái mà anh ta đang viết, thì, nếu cái mà anh ta viết đáng giá và xứng được tạo ra, mọi tình cảm khác sẽ ngủ thiếp đi bên trong anh ta. Anh ta không thể hy vọng giữ được nguyên vẹn và tươi mới hạnh phúc yêu quý của anh ta hay nỗi bất hạnh yêu quý của anh ta, mọi thứ đều đi xa khỏi và tan biến, và chỉ có anh ta một mình với trang giấy của mình; chẳng hạnh phúc nào và chẳng bất hạnh nào có thể còn lại ở anh ta nếu không được nối chặt vào trang ấy, anh ta không sở hữu gì khác và anh ta không thuộc vào những người khác; nếu không phải như vậy, thì điều đó có nghĩa trang của anh ta chẳng đáng gì.
Vậy là tôi đã viết các câu chuyện ngắn trong một thời kỳ nhất định, thời kỳ ấy kéo dài khoảng sáu năm. Vì đã phát hiện được là có các nhân vật, tôi có cảm giác việc có một nhân vật là đủ để viết một câu chuyện. Bằng cách ấy, lúc nào tôi cũng lên đường săn tìm các nhân vật, tôi nhìn những người trên xe bus và ngoài phố, và những lúc nào nghĩ dường thấy được một khuôn mặt thích hợp để tồn tại trong một truyện, thì tôi liền dệt khắp xung quanh các chi tiết luân lý và một câu chuyện nho nhỏ. Như vậy tôi lên đường săn tìm các chi tiết, trong những thứ trang phục, dáng vẻ của các nhân vật, hoặc trong nội thất các ngôi nhà, hoặc các nơi chốn; tôi bước vào một căn phòng mới, tôi cố công miêu tả nó trong suy nghĩ, và tôi cố công tìm ra chi tiết nhỏ xíu nào đó hẳn có thể vào được một câu chuyện. Tôi có một quyển sổ trong đó tôi viết một số chi tiết mà tôi đã phát hiện được, hoặc những so sánh nhỏ hoặc các trường đoạn mà tôi tự hứa sẽ cho vào những câu chuyện của mình. Chẳng hạn tôi viết vào quyển sổ của tôi: "Anh ta từ phòng tắm bước ra, kéo theo ở đằng sau, như một cái đuôi dài, sợi dây buộc pe nhoa của mình." Sao mà nhà vệ sinh của ngôi nhà này mùi kinh thế - cô bé gái bảo anh - những khi đi vào đó em toàn nín thở đấy, cô buồn bã nói thêm." "Các lọn tóc của nàng trông như những chùm nho." "Các cái chăn đỏ và đen trên giường bừa bãi." "Một khuôn mặt nhợt nhạt như một củ khoai tây đã lột vỏ." Tuy nhiên, tôi phát hiện ra rằng thật khó mà dùng những câu đó khi viết một câu chuyện. Quyển sổ trở thành một dạng viện bảo tàng các câu, tất tật được kết tinh hóa và ướp thơm, rất khó dùng. Nhiều lần tôi tìm cách nhét vào câu chuyện nào đó những cái chăn đỏ và đen, hoặc các lọn tóc trông giống những chùm nho, nhưng chẳng bao giờ làm nổi. Thế là quyển sổ không dùng để làm gì. Khi ấy tôi hiểu ra rằng sự tiết kiệm không tồn tại trong cái nghề này. Nếu người ta nghĩ "chi tiết này hấp dẫn quá và mình không muốn phí phạm nó ở trong truyện mà mình đang viết, ở đây đã có cả một đống thứ rất hay rồi, và mình giữ nó lại để dự trữ cho một truyện khác mà mình sẽ viết" thì chi tiết đó liền được kết tinh hóa ở bên trong chính nó, và người ta không còn có thể dùng đến nó nữa. Khi viết một câu chuyện, người ta phải tự ném mình vào đó với toàn bộ những gì mà người ta sở hữu và những gì hay nhất từng nhìn thấy, toàn bộ những gì hay nhất mà người ta từng được nhận trong đời. Các chi tiết bị ngốn và cũ đi, nếu cứ mang theo cùng thật lâu mà không dùng tới. Không chỉ các chi tiết, mà mọi thứ, tất tật những tìm tòi và ý tưởng. Vào cái hồi tôi viết các câu chuyện ngắn kia, với sở thích các nhân vật tìm được thật tài cùng những chi tiết tỉ mỉ, vào thời đó tôi đã thấy đi qua trên phố một cái xe kéo với một tấm gương để trên, một tấm gương lớn có khung mạ vàng. Bầu trời màu lục buổi chiều tối được phản chiếu ở trong đó, và tôi dừng lại nhìn nó trong khi nó đi ngang qua, với một niềm vui to lớn và cảm giác đang xảy ra một điều gì đó quan trọng. Tôi cảm thấy hết sức sung sướng trước cả khi nom thấy tấm gương, và đột nhiên tôi thấy dường như đang đi ngang chính hình ảnh niềm hạnh phúc của tôi, tấm gương màu lục và ngời sáng lên trong cái khung mạ vàng của nó. Thật lâu, tôi đã nghĩ mình sẽ cho nó vào một câu chuyện, thật lâu việc nhớ đến cái xe với tấm gương để trên mang lại cho tôi ham muốn viết. Nhưng tôi đã không bao giờ đưa được nó vào đâu, và vào một thời điểm tôi nhận thấy nó đã chết trong tôi. Và thế nhưng nó từng rất quan trọng. Vì, vào cái hồi viết các câu chuyện ngắn ấy, tôi luôn luôn dừng lại ở những người và những vật xám xịt và u tối, tôi tìm một thực tại đáng khinh bỉ và không vinh quang. Trong cái gu mà tôi có vào lúc đó, khám phá các chi tiết nhỏ xíu, có sự độc ác từ phía tôi, một mối quan tâm háu đói và ti tiện đối với những thứ nhỏ nhặt, nhỏ như lũ rận, một cuộc tìm kiếm rận, bướng bỉnh và xấu thói. Tấm gương trên cái xe có vẻ đã trao tặng tôi các khả năng mới, có lẽ là khả năng nhìn thấy một thực tại vinh quan hơn và rạng ngời hơn, một thực tại sung sướng hơn, không cần tới những miêu tả tỉ mỉ cùng công việc thiện xảo, mà có thể được hiện thực hóa thành một hình ảnh rạng ngời và đầy sung sướng.
Trong những câu chuyện ngắn mà tôi viết hồi đó, có các nhân vật mà trong thâm tâm tôi khinh bỉ. Vì đã phát hiện được sẽ là tốt nếu một nhân vật đáng thương và thật hài, do cứ cố sao cho hài và đáng thương, tôi cứ thế tạo ra những con người hết sức đáng khinh và chẳng hề có chút vinh quang nào, tới nỗi ngay cả tôi cũng không thể yêu quý họ. Các nhân vật của tôi luôn luôn có các tật hay chứng thói, hoặc một dị dạng thể chất, hoặc một khiếm khuyết có chút thô kệch, họ có một cánh tay bị gãy treo lủng lẳng lên trong một tấm vải đen, hay mọc lẹo, hoặc họ nói lắp, hoặc họ vừa nói vừa gãi đít, không thì họ hơi khập khiễng chân. Lúc nào tôi cũng phải đặc trưng hóa theo một cách thức nào đó. Đối với tôi ấy là một phương cách để chạy trốn nỗi sợ tạo ra họ thiếu chính xác, nắm bắt nhân tính của họ mà tôi nghi ngờ theo lối ngoài ý thức. Vì vào thời ấy tôi không hiểu - nhưng vào khoảnh khắc tấm gương trên cái xe tôi bắt đầu, đầy mù mờ, hiểu được - rằng chuyện không còn là các nhân vật nữa, mà là những con rối, được vẽ rất khá và giống người thật, nhưng vẫn là các con rối. Tạo ra họ, ngay lập tức tôi đặc trưng hóa họ, tôi đánh dấu họ bằng một chi tiết thô kệch, và ở điều này có gì đó hơi ác ý, ở tôi hồi ấy có một mối ác cảm độc địa về phía thực tại. Đấy không phải là một dự cảm dựa trên một cái gì đó thực, bởi vì hồi ấy tôi là một thiếu nữ sung sướng, nhưng nó sinh ra như một phản ứng trước sự trong trắng, đó là mối ác cảm đặc biệt kia, vốn dĩ nó là sự tự vệ của một người ngây thơ, luôn luôn đem lòng tin rằng người ta đang chế nhạo mình, của người nông dân mới ở thành phố từ ít lâu, và thấy kẻ cắp khắp mọi nơi. Mới đầu tôi rất hãnh diện về cái đó, vì điều này đối với tôi dường là một chiến thắng lớn của sự mỉa mai trước sự trong trắng, và trước những buông thả đầy thống thiết của tuổi niên thiếu mà người ta thấy đầy rẫy ở các bài thơ của tôi. Sự mỉa mai và ác ý đối với tôi dường là những thứ vũ khí rất hùng mạnh trong tay tôi; tôi thấy dường chúng giúp tôi viết như một người đàn ông, vì, hồi ấy, tôi muốn khủng khiếp viết giống đàn ông, tôi kinh khiếp cái việc người ta hiểu tôi là phụ nữ dựa trên những gì tôi viết. Các nhân vật của tôi gần như lúc nào cũng là đàn ông, nhằm bị đẩy ra xa và tách khỏi tôi càng nhiều càng tốt.
Tôi đã trở nên khá khéo léo trong việc cắt cúp một câu chuyện, tỉa đi tất tật những thứ vô tích sự, đặt các chi tiết cùng các trò chuyện đúng lúc. Tôi viết những truyện khô và sáng suốt, vững chắc cho đến cùng, không có các vụng về, không phạm những lỗi về gu. Nhưng đã xảy tới chuyện, đến một điểm, tôi chán chúng.
Khuôn mặt các con người ngoài phố chẳng còn nói với tôi điều gì hấp dẫn nữa. Một người lên lẹo, một người khác đội mũ xiên xẹo, một người khác nữa quàng khăn ở chỗ cái áo sơ mi, nhưng những cái đó tôi không đoái hoài nữa. Tôi đã quá chán ngấy cái việc nhìn các vật và các con người, và miêu tả trong óc. Thế giới câm bặt đi đối với tôi. Tôi không còn tìm được các từ để miêu tả nó nữa, tôi không còn những từ tạo cho tôi khoái thú lớn nữa, tôi chẳng còn sở hữu được gì nữa. Tôi thử nhớ lại tấm gương, nhưng cái cái đó cũng đã chết ở trong tôi. Tôi mang trong mình một gánh nặng những thứ ướp hương, các khuôn mặt câm và những lời của tro, các vùng và các giọng và các cử chỉ không rung lên, chúng, đã chết, đè nặng trong tim tôi. Và rồi các con tôi sinh, và tôi, mới đầu, lúc chúng còn rất nhỏ, tôi không sao mà hiểu nổi bằng cách nào người ta lại có thể viết khi có con. Tôi không hình dung được bằng cách nào mình có thể tách khỏi chúng để đi theo một nhân vật trong một câu chuyện. Tôi bèn khởi sự khinh bỉ cái nghề của mình. Có những khi tôi tiếc nó, tôi cảm thấy mình bị lưu đày, nhưng tôi cố công khinh bỉ nó và chế nhạo nó nhằm chỉ bận rộn với những đứa con của tôi. Tôi đã nghĩ rằng ấy là nghĩa vụ của tôi. Tôi chăm lo về kem gạo và kem đại mạch, và về việc biết xem trời nắng hay không nắng, có gió hay không có gió, để đưa lũ trẻ đi dạo. Lũ trẻ đối với tôi dường là một điều quá mức quan trọng thành thử người ta không thể mất hút đi đằng sau các câu chuyện ngu xuẩn, các nhân vật ướp hương ngu xuẩn. Nhưng tôi có một nỗi hoài nhớ cuồng loạn, và đôi khi, vào ban đêm, tôi gần như khóc khi nhớ nghề của tôi đẹp đến thế nào. Tôi nghĩ hẳn một ngày kia mình sẽ tìm lại được nó, nhưng chẳng biết khi nào, tôi nghĩ hẳn mình phải đợi cho các con trai trở thành đàn ông và đi khỏi. Vì, những gì tôi cảm thấy hồi đó về các con trai của tôi là một niềm say mê, mà tôi hẵng còn chưa học được cách chế ngự. Nhưng sau đó dần dà tôi đã học được. Thậm chí tôi đã không mất quá nhiều thời gian. Tôi vẫn chuẩn bị xốt cà chua và bột, nhưng cùng lúc, tôi nghĩ tới những gì mình có thể sẽ viết. Hồi ấy, chúng tôi sống tại một vùng rất đẹp, ở miền Nam. Tôi nhớ về các phố nơi thành phố của tôi và những ngọn đồi, và các phố ấy cùng những ngọn đồi ấy hợp nhất với các phố cùng những ngọn đồi của cái vùng chúng tôi sống hồi đó, và từ đó sinh ra một tự nhiên mới, mà tôi lại có thể yêu. Tôi thấy hoài nhớ thành phố của tôi, và trong kỷ niệm của mình, tôi yêu nó sâu sắc, tôi yêu nó và có lẽ tôi hiểu nó hơn so với lúc còn ở đó, và tôi cũng yêu cái vùng nơi giờ đây chúng tôi sống, một vùng nhiều bụi và trắng dưới nắng miền Nam; những đồng cỏ rộng lớn xơ xác cháy sém trải rộng dưới các cửa sổ của tôi, và kỷ niệm về các con đường nơi thành phố của tôi, những cây tiêu huyền cùng những ngôi nhà cao sưởi ấm trái tim tôi. Toàn bộ những cái đó khởi sự cháy lên đầy vui tươi trong tôi, và tôi rất, rất muốn viết. Tôi viết một truyện dài, dài nhất trong số những truyện tôi từng viết. Tôi lại bắt đầu viết như một người chưa bao giờ viết, vì đã lâu lắm rồi tôi không viết nữa, và các từ như thể được rửa sạch và tươi mới, toàn bộ lại nguyên vẹn và đầy hương vị cùng những mùi thơm. Tôi viết vào buổi chiều, trong khi bọn trẻ con đi dạo với một cô gái người trong vùng; tôi viết cuồng nhiệt và vui sướng, và mùa thu thật tuyệt vời và ngày nào tôi cũng cảm thấy rất sung sướng. Trong câu chuyện của mình tôi đặt vào một ít người bịa ra, và một ít người có thật của vùng ấy: và cũng đến với tôi một số cách nói luôn luôn được sử dụng tại đó, mà từ trước tôi không biết, vài câu chửi và một số lối đặt câu: và những cách nói mới ấy lên men và nâng lên, và cũng mang sự sống trở lại cho tất tật các từ cũ. Nhân vật chính là một phụ nữ, nhưng rất, rất khác tôi. Giờ đây, tôi không còn quá muốn viết như đàn ông nữa, vì tôi đã có con, và tôi thấy dường mình biết rất nhiều điều liên quan đến xốt cà chua; ngay cả khi tôi không cho chúng vào câu chuyện của mình, thì cũng thật hữu dụng cho nghề của tôi khi mà tôi biết chúng; theo một cách thức bí hiểm, xa xôi, cái đó cũng hữu ích cho nghề của tôi. Tôi thấy dường như các phụ nữ biết về con cái của họ những điều mà một người đàn ông chẳng bao giờ có thể biết. Tôi viết câu chuyện của tôi hết sức nhanh, như thể e nó vuột đi mất. Tôi gọi nó là một cuốn tiểu thuyết, nhưng có lẽ đó không phải một cuốn tiểu thuyết. Thêm nữa, cho tới giờ, tôi vẫn luôn luôn viết rất nhanh, và những thứ khá ngắn; và đến một lúc, tôi nghĩ mình hiểu được tại sao. Vì tôi có những người anh trai hơn tuổi tôi nhiều, và hồi còn nhỏ, nếu tôi nói ở bàn ăn thì lúc nào họ cũng bắt tôi im miệng. Vì lý do ấy tôi đã có thói quen luôn luôn nói mọi điều nhanh hết sức, lao hết tốc lực, và với càng ít từ càng tốt, luôn luôn với nỗi e những người khác lại khởi sự nói chuyện với nhau và ngừng lắng nghe tôi. Có thể cách giải thích này trông hơi ngu xuẩn: tuy nhiên hẳn chuyện đã thực sự xảy ra như vậy.
Tôi đã nói là vào thời điểm đó, khi tôi viết cái mà tôi gọi là một cuốn tiểu thuyết, đấy là một giai đoạn rất sung sướng đối với tôi. Trong đời tôi, đã không xảy tới điều gì nghiêm trọng. Tôi không biết đến bệnh tật, và sự phản bội, và nỗi cô đơn, và cái chết. Chẳng có gì từng bao giờ sụp đổ trong đời tôi, nếu không phải là những thứ vặt vãnh, đã chẳng có gì thân thiết với trái tim tôi từng bị giật mất khỏi tôi. Tôi chỉ từng phải chịu những cơn sầu muộn uể oải của tuổi thiếu niên, và sự khó khăn không biết phải viết như thế nào. Thế là tôi được sung sướng trong một thế giới đầy và bình, không nỗi sợ cùng chẳng lo âu, và với một lòng tin hoàn toàn đặt vào sự ổn định cũng sự vững chắc của hạnh phúc thế giới. Khi chúng ta sung sướng, chúng ta cảm thấy lạnh lùng hơn, sáng suốt hơn và tách rời khỏi thực tại của chúng ta. Khi sung sướng chúng ta có khuynh hướng tạo ra các nhân vật rất khác với chúng ta, thấy họ trong làn ánh sáng băng giá của những thứ xa lạ, tách cặp mắt chúng ta khỏi tâm hồn sung sướng và thỏa mãn của chúng ta, và đặt chúng nhìn chăm chăm chẳng chút độ lượng vào những người khác, với một sự đánh giá đầy nhạo báng và tàn nhẫn, mỉa mai và coi thường, trong khi phăng te di và lực sáng tạo náo động cuồng liệt bên trong chúng ta. Chúng ta dễ dàng tạo ra được các nhân vật, nhiều nhân vật khác với chúng ta ở mức nền tảng, và chúng ta viết được những câu chuyện được xây dựng vững chãi, và như thể được hong khô trong một ánh sáng tươi và lạnh. Khi đó điều bị thiếu mất với chúng ta, những lúc chúng ta sung sướng với niềm hạnh phúc đặc biệt không vương nước mắt, không nỗi âu lo và không nỗi sợ kia, điều bị thiếu mất với chúng ta khi đó, ấy là một mối quan hệ thiết thân và dịu dàng với các nhân vật của chúng ta, với những chốn và những vật mà chúng ta nói đến. Điều bị thiếu mất đối với chúng ta là lòng từ bi. Ở vẻ ngoài, chúng ta hào phóng hơn nhiều, trong cái nghĩa chúng ta luôn luôn tìm được sức để quan tâm tới những người khác, phát ra các chăm lo của chúng ta cho những người khác, chúng ta không quá mức bận tâm về chính mình, vì không cần gì. Nhưng mối quan tâm của chúng ta dành cho những người khác, với ít dịu dàng như thế, chỉ nắm bắt được một số lượng nhỏ các dáng vẻ khá bên ngoài nơi tâm tính họ. Đối với chúng ta thế giới chỉ có độc một chiều, nó bị thiếu mất các bí mật cùng những bóng tối; nỗi đau đớn kia, vốn dĩ xa lạ với chúng ta, chúng ta đoán định được nó và tạo ra nó chiểu theo lực trí tưởng tượng của chúng ta, nhưng chúng ta luôn luôn nhìn nó trong ánh sáng khô cạn và băng giá kia của những thứ không thuộc về chúng ta, không bắt rễ ở chúng ta.
Hạnh phúc hay bất hạnh riêng của chúng ta, điều kiện trần thế của chúng ta, có một tầm quan trọng lớn trong tương quan với những gì mà chúng ta viết. Ở trên tôi đã nói rằng, vào thời điểm viết, người ta được lôi kéo, như có phép mầu, đến chỗ lờ đi những hoàn cảnh hiện có của cuộc đời chính mình. Chắc chắn điều đó đúng. Nhưng sung sướng hay bất hạnh khiến chúng ta viết theo cách này hay cách khác. Khi chúng ta sung sướng thì phăng te di có nhiều sức mạnh hơn; lúc chúng ta bất hạnh, thì ký ức của chúng ta hành động mạnh mẽ hơn. Nỗi đau làm cho phăng te di trở nên yếu và lười biếng; nó rộn lên, nhưng đầy hờ hững và uể oải, với những chuyển động bị suy yếu của các bệnh nhân, với nỗi mệt cùng những cẩn trọng của các chi suy yếu và bừng sốt; đối với chúng ta thật khó mà tách cặp mắt mình khỏi cuộc đời chúng ta và tâm hồn chúng ta, khỏi cơn khát và khỏi nỗi lo lắng xâm chiếm chúng ta. Trong những gì mà chúng ta viết khi ấy liên tục lướt sượt qua các kỷ niệm từ quá khứ của chúng ta, giọng riêng của chúng ta vang lên không ngừng và chúng ta không làm sao mà bắt nó im đi được. Giữa chúng ta và các nhân vật, mà chúng ta bịa ra, xuất hiện một mối quan hệ đặc biệt, dịu dàng và như thể có tính cách mẫu tử, một quan hệ ấm nóng và đẫm nước mắt, mang một sự thiết thân xác thịt và gây ngạt thở. Chúng ta có những rễ sâu và đau đớn nơi mỗi con người và nơi mỗi vật trên thế giới, cái thế giới đã được đổ đầy các vọng âm, luồng run cùng bóng tối kia, mà chúng ta được nối vào nhờ một sợi dây buộc của tình thương tận tụy và đầy say mê. Lúc ấy mối nguy mà chúng ta mắc phải là bị chìm khẳm vào một hồ nước tối sẫm lặng tờ và bị tắc, và lôi kéo vào đó cùng chúng ta những tạo vật của tinh thần chúng ta, để cho chúng chết đi cùng chúng ta trong vực sâu đen tối và nhờ nhợ, giữa đám chuột chết và hoa thối. Có một mối nguy ở trong sự đau đớn, cũng như có một mối nguy ở trong hạnh phúc, đối với những gì mà chúng ta viết. Vì vẻ đẹp của thơ là một tổng thể của sự tàn nhẫn, lòng kiêu ngạo, sự mỉa mai, sự dịu dàng xác thịt, phăng te di và ký ức, sự sáng và bóng tối, và nếu chúng ta không đạt được toàn bộ những cái đó cùng nhau, thì kết quả sẽ rất nghèo nàn, bấp bênh và không sức sống.
Nhưng, hãy chú ý, không phải người ta có thể hy vọng được an ủi khỏi nỗi buồn của mình, khi viết. Người ta không được tự tạo ảo tưởng và cho rằng cái nghề có thể cưng nựng chúng ta và ru ngủ chúng ta. Từng có, trong đời tôi, các Chủ nhật hắc ám và hoang vu bất tật, trong đó tôi mong bằng tất tật sức mạnh của mình viết được một cái gì đó nhằm an ủi được cho tôi khỏi nỗi cô đơn cùng sự buồn chán, để được mơn trớn và được ru bởi những câu và lời. Nhưng đã không có cách nào để tôi viết được lấy một dòng. Vào thời điểm ấy, nghề của tôi đã luôn luôn đẩy tôi ra xa, nó không muốn có liên quan gì với tôi, vì nghề này không bao giờ là một sự an ủi hay một sự lãng trí. Đấy không phải là một sự bầu bạn. Nghề này là một ông chủ, một ông chủ có khả năng vụt roi tóe máu chúng ta, một ông chủ la hét và kết tội. Ông ta buộc chúng ta nuốt nước bọt và nước mắt của mình vào, nghiến răng chùi máu trên các vết thương, và phục vụ ông ta. Phục vụ ông ta những lúc nào ông ta đòi. Thế là thậm chí ông ta giúp chúng ta đứng vững được, giữ cho hai chân đặt chắc trên mặt đất, ông ta giúp chúng ta chiến thắng sự điên và nỗi hoảng loạn, niềm tuyệt vọng và cơn sốt. Nhưng ông ta mới là người mới chỉ huy, và ông ta luôn luôn từ chối để tâm tới chúng ta, những khi chúng ta cần ông ta.
Từng xảy đến với tôi việc biết rõ đau đớn sau thời kỳ sống tại miền Nam, một nỗi đau đớn đúng nghĩa, không thể cứu vãn và chữa chạy, nó đã bẻ gãy cả cuộc đời tôi; và lúc tìm cách vá víu nó lại theo một cách thức nào đó, thì tôi thấy rằng cuộc đời tôi và tôi đã trở nên thiếu hiểu biết nếu so với trước kia. Chỉ còn lại mỗi, không hề thay đổi, cái nghề của tôi, nhưng cả về nó cũng sẽ rất sai nếu nói rằng nó đã không thay đổi, các công cụ vẫn như vậy, nhưng cách thức tôi dùng chúng rất khác. Thoạt tiên tôi ghét nó, nó làm tôi thấy kinh hãi, nhưng tôi biết rõ rằng, rốt cuộc, tôi sẽ lại bắt đầu phục vụ nó, và nó sẽ cứu tôi. Chính vì lẽ đó mà đôi khi tôi nảy ra ý nghĩ là mình đã không có một cuộc đời bất hạnh lắm, và tôi bất công những khi buộc tội số phận, và không chịu nhận thấy toàn bộ sự từ tâm của nó về phía tôi, bởi vì nó đã trao cho tôi ba đứa con cùng cái nghề của tôi. Thêm nữa, hẳn tôi thậm chí còn không thể tưởng tượng nổi cuộc đời mình nếu không có nghề này. Nó từng lúc nào cũng ở đó, nó đã không rời bỏ tôi, dẫu chỉ là một phút, và thậm chí những khi tôi cứ tưởng nó đã ngủ, con mắt đầy cảnh giác và bừng sáng của nó vẫn nhìn tôi.
Chính là như vậy, nghề của tôi. Tiền, bạn thấy chứ, thì nó không mang lại nhiều, và thậm chí người ta gần như lúc nào cũng buộc phải có, cùng lúc, một nghề khác để sống. Đôi khi, tuy vậy nó cũng mang lại một ít tiền: và tiền kiếm được nhờ nó là một điều rất êm dịu, giống nhận được tiền và các món quà từ tay người yêu. Nghề của tôi như thế đấy. Tôi nói rằng mình không biết gì nhiều nhặn về giá trị những kết quả mà nó đã đưa cho tôi hoặc nó sẽ có thể đưa cho tôi: hay, nói đúng hơn, tôi biết giá trị tương đối của các kết quả giành được, nhưng chắc chắn là không biết giá trị tuyệt đối. Khi tôi viết cái gì đó, theo thói quen, tôi nghĩ nó rất quan trọng, và tôi là một nhà văn rất lớn. Tôi nghĩ điều này xảy đến với tất cả mọi người. Nhưng có một góc trong tâm hồn tôi, nơi tôi biết rất rõ và luôn luôn mình là gì, tức là một nhà văn nhỏ, nhỏ xíu. Tôi thề là tôi biết điều đó. Nhưng điều này chẳng quan trọng mấy. Chỉ có điều tôi không muốn nghĩ đến những cái tên: tôi từng thấy là nếu tôi tự hỏi: "Một nhà văn nhỏ như ai?" thì tôi sẽ sầu khổ khi nghĩ tới tên của các nhà văn nhỏ khác. Tôi thích nghĩ chưa từng bao giờ có ai giống tôi hơn, rất nhỏ, nhà văn hạng rận hạng ruồi như tôi đây. Ngược lại, điều quan trọng là có lòng tin đinh ninh rằng đó thực sự là một nghề, một nghề nghiệp, một thứ mà người ta sẽ làm suốt đời. Nhưng, ở tư cách nghề, đấy không phải một trò đùa. Có vô số hiểm nguy, ngoài những gì mà tôi đã nhắc tới. Chúng ta cứ liên tục bị đe dọa bởi các nguy hiểm nghiêm trọng vào đúng cái lúc đang viết trang của chúng ta. Có mối nguy đột nhiên khởi sự uốn éo và hát. Tôi thì luôn luôn muốn phát điên được hát, tôi phải hết sức chú ý để khỏi làm vậy. Có mối nguy sẽ ăn gian với những từ không thực sự tồn tại trong chúng ta, mà chúng ta đã vợt được theo lối ngẫu nhĩ, bên ngoài chúng ta, mà chúng ta khéo léo tập hợp lại, vì chúng ta đã trở nên khá là ma lanh. Có mỗi nguy sẽ chơi trò ma lanh và ăn gian. Đây là một nghề khá khó, bạn thấy đấy, nhưng nó là nghề đẹp nhất trên đời. Các ngày và các hoàn cảnh nơi cuộc đời của chúng ta, các ngày và các hoàn cảnh nơi cuộc đời của những người khác mà chúng ta chứng kiến, những sự đọc, những hình ảnh, những ý nghĩ và những lời lẽ làm nó được thỏa và nó tăng trưởng ở bên trong chúng ta. Đây là một nghề được nuôi dưỡng cả bằng những thứ khủng khiếp, nó ngốn ngấu cái tốt đẹp nhất và cái tồi tệ nhất của cuộc đời chúng ta, các tình cảm xấu của chúng ta cũng như các tình cảm tốt của chúng ta chảy trong máu nó. Nó ăn và lớn lên bên trong chúng ta.
Huỳnh Bất Thức dịch
hai người bạn