favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Thu 2025
Next

Minima moralia (tiếp)

16/09/2025 15:37

tiếp tục từ kia

Phần I

"Sự sống thì không sống."
(Kürnberger)

 

1

Dành cho Marcel Proust. – Đứa con của cha mẹ giàu có, kẻ, bất kể là do tài năng hay do yếu đuối, chọn lấy nghề gọi là trí thức - chẳng hạn nghề nghệ sĩ hay học giả - sẽ gặp phải vô vàn khó khăn với những kẻ mang danh xưng khó chịu là đồng nghiệp. Và đó không chỉ là bởi người ta ghen ghét với sự độc lập của y, ngờ vực sự nghiêm túc trong ý định của y, và nghi y là một đặc sứ ngầm của các thế lực đã được thiết lập. Những nghi ngờ như thế, dù khởi nguồn từ một căm phẫn sâu xa, thường sẽ được chứng minh là có cơ sở. Nhưng trở lực thực sự nằm ở chỗ khác. Công việc tinh thần giờ đã trở thành một hoạt động “thực dụng”, một công việc với phân công lao động nghiêm ngặt, những ngành tách biệt và một hệ thống đầu vào có giới hạn. Kẻ vốn độc lập về tiền bạc, kẻ lựa chọn nó vì ghê tởm nỗi nhục của việc kiếm tiền, sẽ không sẵn lòng thừa nhận thực tế ấy. Và vì thế, y bị trừng phạt. Không phải là một “chuyên gia”, y bị xếp trong hệ thống phân cấp cạnh tranh như một tay tài tử, bất kể y am hiểu lĩnh vực của mình đến đâu. Và nếu muốn tạo dựng sự nghiệp, y buộc phải chứng tỏ mình còn cố chấp và hạn hẹp hơn cả những chuyên gia ngoan cố nhất. Sự đình chỉ phân công lao động mà hoàn cảnh kinh tế của y cho phép thỏa mãn trong những giới hạn nhất định bị xem là đặc biệt đáng chê trách: nó bộc lộ một sự miễn cưỡng trong việc thừa nhận bộ máy mà xã hội áp đặt, và sự chuyên quyền không dung thứ bất cứ sự lập dị nào thuộc dạng này. Sự phân khoa tinh thần (Departementalisierung des Geistes) là một phương thức nhằm tiêu diệt tinh thần ở bất cứ nơi nào nó không được thực thi theo chức trách chính thức (ex officio), theo lệnh. Bất cứ kẻ nào khước từ sự phân công lao động - dù chỉ bằng cách tìm thấy niềm vui trong công việc của mình - cũng tự đặt mình vào thế hở sườn theo những tiêu chuẩn của nó - theo cách không thể tách khỏi những yếu tố vượt trội của anh ta. Trật tự nhờ thế được bảo đảm: một số người buộc phải tham gia vì không còn cách nào khác để sinh tồn, còn những kẻ có thể sống theo cách khác thì bị giữ bên ngoài vì họ không muốn tham gia. Cứ như thể giai cấp mà các trí thức độc lập đã đào thoát khỏi đang trả thù họ, bằng cách áp đặt những đòi hỏi của nó trong chính lĩnh vực mà kẻ đào thoát tìm chốn dung thân.

 

2

Ghế cỏ.[1] Quan hệ của chúng ta với cha mẹ đang bắt đầu trải qua một biến đổi buồn bã, mờ tối. Do bất lực về kinh tế, họ đã đánh mất nỗi kinh hãi mà họ từng gây ra. Từng có lúc ta nổi loạn chống lại sự khăng khăng của họ về nguyên tắc thực tại (Realitätsprinzip), sự tỉnh táo luôn chực bùng thành cơn thịnh nộ đối với kẻ không chịu từ bỏ. Nhưng giờ ta phải đối diện với một thế hệ tự nhận mình là trẻ, nhưng trong mọi cử động và phản ứng của nó lại trưởng thành một cách không thể chịu nổi so với thế hệ cha mẹ chúng: một thế hệ, bởi đã từ bỏ trước khi bất cứ xung đột nào kịp xảy ra, đã rút ra từ đó một uy quyền cứng rắn, độc đoán, không thể lay chuyển. Có lẽ con người thời nào cũng cảm thấy thế hệ cha mẹ mình trở nên vô hại, bất lực khi sức mạnh thể chất của họ suy tàn, trong khi thế hệ chính họ dường như bị đe dọa bởi lớp trẻ: trong một xã hội đối kháng, quan hệ giữa các thế hệ cũng là quan hệ cạnh tranh, mà đằng sau nó là bạo lực trần trụi. Nhưng ngày nay, sự đối kháng ấy đang thoái lui về một trạng thái không còn gắn với phức cảm Oedipus, mà với hành vi giết cha. Một trong những tội ác biểu tượng của phát xít chính là việc giết người già. Một khí hậu như vậy nuôi dưỡng một sự thấu hiểu muộn màng nhưng sáng suốt với cha mẹ ta, sự thấu hiểu giữa những kẻ bị kết án, chỉ bị quấy rầy bởi nỗi sợ rằng chính ta, giờ cũng bất lực, có lẽ không còn khả năng chăm sóc họ như họ đã từng chăm sóc ta khi họ vẫn còn giữ được điều gì đó. Bạo lực giáng xuống họ khiến ta quên đi bạo lực họ từng gây ra. Ngay cả những ngụy biện của họ - những lời dối trá từng đáng ghét đến thế, qua đó họ tìm cách trình bày lợi ích riêng của mình như lợi ích chung - giờ lại hé lộ một trực giác về sự thật, khao khát giải quyết một xung đột mà thế hệ con cháu tích cực (positive) của họ, miễn nhiễm với mọi bất định, chỉ vui vẻ phủ nhận. Ngay cả những tinh thần đã nhạt nhòa, thiếu nhất quán, đầy ngờ vực chính mình của thế hệ già cũng vẫn cởi mở với đối thoại hơn sự xuẩn trơn tru của lớp trẻ. Ngay cả những dị tật và biến dạng thần kinh của thế hệ cha mẹ ta cũng đại diện cho một cá tính, cho điều gì đó được hình thành qua nỗ lực con người, khi so sánh với thứ khỏe mạnh dặt dẹo, thứ tinh thần thiếu trưởng thành được nâng thành chuẩn mực ngày nay. Ta bàng hoàng nhận ra rằng trước kia, khi chống đối cha mẹ vì họ đại diện cho thế giới, ta đã nhiều lần trở thành cái loa bí mật cho một thế giới còn tồi tệ hơn. Những nỗ lực phi chính trị nhằm thoát khỏi gia đình bourgeois thường chỉ dẫn đến sự sa lầy sâu hơn vào những ràng buộc của nó, và đôi khi chính tế bào mầm tai họa của xã hội - gia đình - đồng thời cũng là tế bào mầm nuôi dưỡng ý chí không khoan nhượng hướng về một xã hội khác. Cùng với sự suy vong của gia đình, chừng nào hệ thống còn tồn tại, cái mất đi không chỉ là cơ quan hiệu lực nhất của bourgeois mà cả lực kháng cự - thứ từng áp chế cá nhân, nhưng cũng từng củng cố - và có lẽ tạo ra - cá nhân tính. Sự suy vong của gia đình làm tê liệt năng lực phản kháng. Trật tự tập thể đang lên chỉ là sự nhạo báng hình dung xã hội phi giai cấp: nó thủ tiêu cả bourgeois lẫn Phi lai (Utopie) - thứ từng được nuôi dưỡng từ tình yêu của người mẹ.

 

3

Cá trong nước. – Từ khi trung gian lưu thông bị thay thế bởi bộ máy phân phối toàn diện của nền công nghiệp tập trung cao độ, nó cũng bắt đầu một thứ hậu sinh tồn kỳ lạ. Trong khi cơ sở kinh tế của các nghề trung gian tan biến, thì đời sống riêng tư của vô số người lại trở thành đời sống của các đại lý và môi giới; thật vậy, toàn bộ khu vực riêng tư đã bị nuốt chửng bởi một sự rộn lên khó hiểu, mang tất cả dáng dấp của thương mại nhưng lại chẳng thực sự có gì để làm. Những kẻ lo sợ - từ kẻ thất nghiệp cho đến giới chuyên nghiệp (Prominenten) vốn có thể chỉ trong nháy mắt chuốc lấy cơn thịnh nộ của những người mà họ đại diện đầu tư - tin rằng chỉ bằng sự nhạy cảm, cần mẫn, sốt sắng, mánh khóe và thủ đoạn - tóm lại, bằng phẩm chất nhà buôn - họ mới có thể tự tiến cử mình trước yếu tố điều hành (Exekutive) được hình dung như hiện diện khắp nơi. Và chẳng bao lâu, không còn mối quan hệ nào mà mục đích của nó không phải là quan hệ, không còn xúc động nào mà không bị đặt dưới một thứ tiền kiểm, để xem nó có đi chệch khỏi những gì đã được chấp thuận hay không. Khái niệm quan hệ - một phạm trù của trung gian và lưu thông - không bao giờ phát triển hưng thịnh nhất trong khu vực lưu thông đúng nghĩa, tức thị trường, mà luôn luôn trong những hệ thống khép kín, một độc quyền phân cấp. Giờ đây, khi toàn bộ xã hội trở thành hệ thống phân cấp, những quan hệ mờ đục cũng bám dính khắp nơi, ngay cả ở chỗ trước đây còn giữ được chút bề ngoài của tự do. Tính phi lý của hệ thống hiển lộ trong số phận kinh tế của từng cá nhân cũng như trong chính tâm lý ký sinh của họ. Trước kia, khi vẫn tồn tại một cái gì như sự phân tách bourgeois giữa nghề nghiệp và đời sống riêng tư - người ta gần như muốn nuối tiếc sự biến mất của phân tách đầy tai tiếng ấy - thì những kẻ nào đem mục đích vào đời sống riêng tư đều sẽ bị soi xét với nhiều ngờ vực, như một kẻ xâm nhập vô lễ. Còn ngày nay, kẻ nào để cho mình dính vào chuyện riêng tư mà không có mục đích rõ ràng sẽ bị coi là ngạo mạn, xa lạ và không đúng mực. Gần như đáng ngờ cả những ai không “muốn” (wer nichts “will”): không ai còn tin kẻ khác sẽ giúp mình trong cuộc giành giật miếng ăn mà không đưa ra đòi hỏi đáp trả. Vô số kẻ biến tình trạng vốn là hệ quả của việc giải thể các nghề nghiệp thành chính nghề của mình. Họ là những người tử tế, dễ mến, ai cũng là bạn họ, những kẻ “công chính,” human đến mức sẵn sàng tha thứ cho mọi sự hèn hạ và không ngừng kết án là sentimental (ủy mị) mọi xung động chưa được chuẩn hóa. Họ trở thành không thể thiếu nhờ sự thông thạo mọi kênh lối và cửa sau của quyền lực, đoán trước những phán quyết bí mật nhất và sống nhờ việc truyền đạt mau lẹ những điều đó. Họ có mặt trong mọi phe chính trị, ngay cả ở nơi mà sự khước từ hệ thống được coi là đương nhiên và nhờ thế mà một dạng chủ nghĩa tuân thủ (Konformismus) mềm dẻo và xảo quyệt riêng phát triển. Thường thì họ gây thiện cảm nhờ một tính tốt nào đó, nhờ sự đồng cảm với đời sống của kẻ khác: lòng vị tha trên cơ sở đầu cơ. Họ khôn ngoan, dí dỏm, lanh và linh hoạt; họ đánh bóng tinh thần con buôn cũ bằng những thành tựu của tâm lý học ngày hôm kia. Họ sẵn sàng cho bất cứ điều gì, kể cả tình yêu, nhưng luôn luôn bất trung. Họ phản bội không phải do bản năng, mà từ nguyên tắc: ngay cả bản thân họ cũng được định giá như một thứ lợi nhuận, mà họ sẽ chẳng để ai khác hưởng. Họ gắn bó với Tinh thần (Geist) vừa bằng đồng cảm vừa bằng thù hận: đối với kẻ suy nghĩ, họ là một cám dỗ, nhưng cũng là kẻ thù tệ hại nhất. Bởi chính họ - hết sức tinh vi - nhận ra, chiếm lấy và làm ô uế nơi ẩn náu cuối cùng của sự phản kháng, những khoảnh khắc tự do còn sót trước đòi hỏi của guồng máy. Cá nhân luận đến muộn của họ đầu độc những gì còn sót lại của cái Individuum (cái cá thể).

 

4

Sự sáng suốt cuối cùng. – Một cáo phó trên báo về một thương nhân viết: “Độ rộng của lương tâm ông sánh cùng sự nhân từ của trái tim ông.” Cái lỡ lời mà những người để tang mắc phải khi dùng thứ ngôn ngữ cao nhã thường vốn dành riêng cho những dịp như thế - sự thú nhận bất đắc dĩ rằng người quá cố nhân từ kia hoàn toàn không có lương tâm - đã đẩy đoàn đưa tang theo con đường ngắn nhất đến miền sự thật. Khi một người tuổi cao mà lại nổi tiếng “minh triết” thì có thể ngờ rằng cuộc đời ông ta là một chuỗi tai tiếng. Ông đã tập bỏ mọi xúc động. Cái gọi là “lương tâm rộng rãi” tự đánh bóng mình thành một thứ cao thượng của tinh thần, tha thứ cho tất cả, vì hiểu quá rõ tất cả. Một sự đánh tráo chen vào giữa tội của chính mình và tội của kẻ khác, rốt cuộc được giải quyết có lợi cho kẻ nào chiếm thế thượng phong. Sau một đời dài dặc như vậy, người ta chẳng còn phân biệt nổi ai đã làm gì với ai. Trong sự trình hiện trừu tượng của bất công phổ quát, mọi trách nhiệm cụ thể đều bị xóa mờ. Kẻ cáo già liền lật ngược mọi thứ, như thể chính hắn mới là người phải chịu đựng: “Nếu cậu biết, chàng trai trẻ ạ, đời là thế nào.” Còn những kẻ ngay từ giữa đường đời đã được tôn vinh là đặc biệt nhân từ thì phần nhiều chỉ đang rút một khoản ứng trước từ sự minh triết ấy. Kẻ nào không ác thì không thực sự sống trong sự minh triết, mà chỉ sống trong một hình thức đặc thù, cứng rắn và bất dung. Do thiếu vắng đối tượng thích hợp, hắn hầu như không biết biểu đạt tình yêu của mình theo cách nào ngoài sự căm ghét đối với những đối tượng “không thích hợp” và qua đó, tất nhiên, lại trở nên giống hệt những gì hắn căm ghét. Bourgeois, ngược lại, thì khoan dung. Tình yêu của hắn dành cho con người “như họ vốn thế” khởi sinh từ lòng căm ghét đối với con người đúng nghĩa.

 

5.

Thưa bác sĩ, thật là tử tế. – Chẳng gì còn là vô hại nữa. Những niềm vui nhỏ bé, những biểu hiện đời sống, vốn tưởng được miễn khỏi trách nhiệm của suy nghĩ, giờ không chỉ mang trong mình một khoảnh khắc của sự ngu dốt trâng tráo, của sự nhắm mắt làm ngơ máu lạnh, mà còn trực tiếp phục vụ cho chính đối cực tận cùng của chúng. Cả cái cây đang nở hoa cũng thành dối trá ngay khi người ta nhìn thấy hoa nở mà không thấy bóng của nỗi kinh hoàng; cả tiếng thốt vô tội “Đẹp quá” cũng thành ngụy biện cho nỗi nhục của tồn tại, tồn tại vốn là cái khác, và không còn cái đẹp nào, cũng không còn sự an ủi nào ngoại trừ cái nhìn đi thẳng vào kinh hoàng, chịu đựng nó, và trong ý thức không suy giảm về phủ định, về tiêu cực (Negativität), vẫn bám chặt vào khả thể của một điều gì đó tốt hơn. Phải cảnh giác trước tất cả những gì vô tư, ngẫu nhiên, tất cả những buông lơi hàm ý nhượng bộ trước sự áp đảo của cái đang-tồn-tại [Existierende]. Nghĩa ẩn độc ác của sự khoan khoái, vốn trước kia chỉ giới hạn trong những chúc rượu vui vẻ, từ lâu đã lan sang cả những thúc động thiện chí hơn. Khi trong cuộc chuyện tình cờ với một ai đó trên tàu, người ta thuận theo - chỉ để tránh cãi vã - vài câu mà mình biết rõ là hợp thức hóa giết chóc, thì đó đã là phản bội; không một ý nghĩ nào miễn nhiễm khỏi sự truyền đạt của nó, và chỉ cần buột miệng ở sai nơi và trong một sự đồng thuận sai cũng đủ để làm suy yếu sự thật của nó. Mỗi lần đi xem chiếu bóng, dẫu cảnh giác tột độ, tôi vẫn trở về ngu muội và tồi tệ hơn. Sự hòa đồng, tự nó, đã là đồng lõa của bất công, bởi nó vờ rằng vẫn còn có thể chuyện trò cùng nhau trong một thế giới đã đông cứng, và những câu đùa xã giao cũng góp phần làm cho im lặng kéo dài vô tận, bởi qua những nhượng bộ ấy, người nói lại một lần nữa bị hạ nhục trong chính lời nói của mình. Nguyên tắc ác vốn luôn rình rập trong sự dễ mến đã phát triển, trong tinh thần bình đẳng, thành sự dã man toàn diện. Thái độ trịch thượng và sự nhún nhường làm ra vẻ mình cũng chẳng hơn ai thực ra là một. Bằng cách đồng hóa với những yếu kém của kẻ bị áp bức, người ta xác nhận trong những yếu kém ấy điều kiện tiên quyết của thống trị và bồi đắp trong chính mình sự man rợ, ngu tối và bạo lực cần thiết để thực thi thống trị. Nếu, trong thời đại này, mọi cử chỉ trịch thượng bị loại bỏ và chỉ còn sự đồng hóa phơi ra, thì chính trong sự che mờ quyền lực hoàn hảo ấy, quan hệ giai cấp bị chối bỏ lại càng bùng vỡ không thể điều hòa. Đối với người trí thức, sự đơn độc kiên định là hình thức duy nhất để bảo chứng một mức độ đoàn kết nào đó. Tất cả những trò nhập cuộc, tất cả những cái gọi là nhân tính của tương tác và chia sẻ chỉ là mặt nạ cho sự chấp nhận mặc nhiên cái phi nhân. Người ta cần phải là một với đau khổ của con người: bước đi nhỏ nhất hướng đến những hân hoan của họ cũng đồng thời là một bước tiến tới sự chai cứng của khổ đau.

 

6.

Phản đề. – Với những ai không nhập cuộc, vẫn tồn tại nguy cơ tự cho mình cao hơn kẻ khác và biến sự phê phán xã hội thành một thứ ý luận (Ideologie) phục vụ cho lợi ích riêng. Trong cuộc dò dẫm hòng biến tồn tại của mình thành ảnh tượng chập chờn của một đời sống đúng, hắn phải luôn luôn ý thức được sự thiếu chất của nó và biết rằng ảnh tượng chẳng thể nào thay thế đời sống đúng được. Những băn khoăn ấy, tuy vậy, lại gặp phải sức nặng của cái tính bourgeois trong hắn. Kẻ giữ khoảng cách cũng vướng mắc chẳng kém gì kẻ nhập cuộc; kẻ trước không hơn kẻ sau điều gì ngoài sự tri nhận nỗi vướng mắc ấy và may mắn của chút tự do nhỏ nhoi nằm trong sự thừa nhận đó. Khoảng cách của hắn với guồng máy (Betrieb) là một thứ xa xỉ do chính guồng máy ấy thải ra. Bởi thế, mọi cử động tự rút lui đều hằn dấu cái bị phủ định. Cái lạnh lùng mà hắn buộc phải phát triển không thể tách khỏi cái lạnh bourgeois. Ngay cả khi hắn phản kháng thì trong nguyên tắc đơn tử (monadologischen) vẫn ẩn náu cái phổ quát thống trị. Nhận xét của Proust, rằng bức ảnh của ông nội một công tước và một người Do Thái trung lưu hóa ra giống nhau đến mức chẳng ai còn nghĩ tới trật tự giai cấp nữa, đã chạm tới một tình trạng bao quát hơn nhiều: tất cả những khác biệt từng làm nên hạnh phúc, thậm chí cả nền tảng đạo đức của tồn tại cá nhân đều - theo lối khách quan - biến mất đằng sau sự thống nhất (Einheit) của thời đại. Ta nhận ra sự suy tàn của giáo dục, thế nhưng văn xuôi của chúng ta, khi đem so với Jacob Grimm hay Bachofen, lại mang dấu vết của công nghiệp văn hóa theo những cách mà ta chẳng hề ngờ. Ta không còn biết tiếng Hy Lạp hay Latinh như Wolf hay Kirchhoff. Ta chỉ ra cái cách văn minh trượt vào tình trạng a bê xê (Analphabetismus), trong khi chính ta lại quên cả cách viết thư hay đọc một văn bản của Jean Paul như nó hẳn đã được đọc trong thời ông. Ta ghê tởm sự thô tục hóa của đời sống, nhưng sự vắng bóng của mọi phép tắc chung có tính ràng buộc khách quan lại buộc ta bước nào cũng phải hành xử, nói năng và tính toán theo những cách rõ ràng là dã man nếu đo bằng chuẩn mực nhân tính, và vụng về thô thiển, ngay cả theo chuẩn mực khả nghi của xã hội lịch thiệp. Với sự tan rã của liberalism, nguyên tắc bourgeois đích thực, tức là cạnh tranh, không hề bị vượt qua, mà chuyển từ tính khách quan của các tiến trình xã hội vào cấu trúc của những nguyên tử chen lấn - nói cách khác, vào bình diện nhân học. Sự khuất phục của đời sống trước tiến trình sản xuất làm nhục và áp lên từng cá nhân sự cô lập và cô đơn, điều mà ta dễ lầm tưởng là kết quả của lựa chọn ưu việt. Cái ý rằng mỗi người - trong lợi ích riêng của mình - đều đặt mình cao hơn kẻ khác là một ý luận bourgeois lâu đời chẳng kém cái ý phóng đại rằng mọi kẻ khác đều cao hơn ta - chỉ vì họ là khách hàng. Kể từ khi bourgeois cũ thoái vị, bóng ma của cả hai ý ấy vẫn vảng vất trong tinh thần của giới trí thức, những kẻ vừa là kẻ thù cuối cùng của bourgeois, vừa là những bourgeois cuối cùng. Chừng nào còn cho phép mình nghĩ, đối lập với sự tái sản xuất trần trụi của tồn tại, chừng đó họ vẫn hành xử như kẻ đặc quyền; nhưng khi chỉ dừng lại ở phạm vi suy nghĩ, họ lại công khai sự hư vô (Nichtigkeit) của đặc quyền ấy. Tồn tại riêng tư, vốn khát khao được giống một đời sống xứng đáng với con người, lại đồng thời phản bội con người, bởi cái giống ấy bị tước khỏi sự thực hiện phổ quát (allgemeinen Verwirklichung), thứ lại đang đòi hỏi năng lực cảm nhận độc lập hơn bao giờ hết. Không có lối thoát nào khỏi sự vướng mắc. Lựa chọn có trách nhiệm duy nhất là từ chối dùng ý luận phục vụ cho tồn tại của mình, và ngoài ra, trong đời sống riêng tư thì hành xử khiêm nhường, kín đáo, không phô trương, không phải vì giáo dưỡng mà vì nỗi hổ thẹn rằng, cả trong địa ngục, người ta vẫn còn không khí để thở.

 

7

They, the people – Việc trí thức phần lớn chỉ giao du với nhau không nên khiến họ lầm tưởng rằng họ tệ hại hơn phần còn lại của nhân loại. Bởi lẽ, họ gặp nhau chủ yếu trong tình thế nhục nhã nhất: tình thế của những kẻ ăn xin cạnh tranh nhau và bởi thế gần như luôn luôn bị buộc phải phơi những khía cạnh tồi tệ nhất của mình ra trước nhau. Những người khác, đặc biệt là “dân thường” mà giới trí thức hay ca ngợi đức hạnh, thường chỉ gặp trí thức ở vai của kẻ đang tìm cách bán cho anh ta thứ gì đó, mà không phải sợ rằng khách hàng sẽ chen chân vào lãnh địa của mình. Người thợ sửa ô-tô hay cô bán rượu có thể dễ dàng giữ mình khỏi sự trâng tráo: bởi sự thân thiện vốn đã được áp đặt từ trên. Ngược lại, nếu người chỉ biết a bê xê tìm đến trí thức để nhờ viết hộ thư, thì trí thức quả thật có thể để lại một ấn tượng tương đối tốt đẹp. Nhưng ngay khi dân thường phải xông vào ẩu đả để giành phần mình trong sản phẩm xã hội (Sozialprodukt), họ sẽ vượt xa bất kỳ điều gì có thể thấy trong kho ghen ghét và đố kỵ mà giới văn nhân hay nhạc trưởng phô bày. Việc tôn vinh những splendid underdog [kẻ dưới đáy sáng lòa]  rốt cuộc chỉ là sự tôn vinh cái hệ thống splendid đã tạo ra họ như thế. Mặc cảm tội lỗi chính đáng của kẻ được miễn trừ lao động chân tay không nên trở thành cái cớ cho sự “ngu dốt nhà quê” (Idiotie des Landlebens). Trí thức, vốn là kẻ duy nhất viết về trí thức và bêu xấu trí thức nhân danh cái gọi là chân thực (Echtheit) chỉ càng củng cố sự dối trá. Phần lớn xu hướng chống trí thức và phi lý đang thống trị hiện thời, cho đến cả Huxley, được khởi động chính bởi việc các nhà văn tố cáo cơ chế cạnh tranh mà lại không thể nhìn thấu nó, và rốt cuộc lại sa vào chính nó. Ngay ở địa hạt riêng của mình, họ đã loại bỏ ý thức về tat tvam asi [“Ngươi chính là cái kia,” trích từ Upanishads]. Vì thế mà cuối cùng họ lại chạy bổ đến các ngôi đền Ấn Độ.

Anh Hoa dịch

tiểu luận & châm ngôn

Tâm hồn và Hình thức

Lịch sử (ngắn) văn chương Đức

Nghĩ

Đoản luận: Văn chương

Đoản luận về Giáo dục

 

[1] Gợi nhắc trong một bài thơ Đức nổi tiếng: Der liebste Platz, den ich auf Erden hab, Das ist die Rasenbank am Elterngrab. (Chốn thân thương nhất của tôi trên trần gian/ Là ghế cỏ bên mộ phần cha mẹ).

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công