Melville: Mardi (kỳ 31)
CHƯƠNG XCVII
NIỀM TIN VÀ HIỂU BIẾT
Một điều khó tin sắp được thuật lại; nhưng một điều có lẽ khó tin và vẫn thật; đôi khi nó khó tin chính vì nó thật. Và nhiều kẻ không tin chỉ là không tin điều ít khó tin nhất; và nhiều kẻ cuồng tín lại gạt bỏ điều hiển nhiên nhất. Nhưng ta hãy bám chặt vào tất cả những gì ta có; và hãy chặn mọi rò rỉ nơi niềm tin của ta; kẻo một khe hở, rộng cỡ một bàn tay, sẽ làm đắm con tàu bảy mươi bốn[1] của ta. Thái Bình Dương bao la biết đâu sẽ ập vào từ một cửa sổ mạn; và nếu ta từ bỏ một tấm ván, là ta đã từ bỏ cả một hạm đội. Cứ mà võ trang đầy đủ trong bộ giáp của St. Paul[2], nào mũ sắt, nào áo giáp dài, nào xà cạp, ta hãy chiến đấu với những người Thổ từng chút từng chút một, và chẳng chịu thua gì sất đến khi nào bọn họ bước qua được xác của ta.
Nhưng chúng ta đừng quay lưng với bạn bè, nhầm lẫn họ với bọn kẻ thù. Vì những kẻ bất đồng quan điểm chỉ tán thành hơn chúng ta. Dẫu Milton là một kẻ lạc giáo so với kinh tín điều của Athanasius, niềm tin của ông đã vượt xa chính cái niềm tin của Athanasius; và niềm tin của Athanasius đã vượt xa niềm tin của Thomas, người tông đồ đã tận mắt trông thấy những dấu đinh. Bởi đấy, mà dẫu rằng tất cả chúng ta lúc này là các Ki-tô hữu, nhưng biết đâu chừng những người giỏi nhất trong chúng ta, vào thời ông Thomas, có khi đã khác.
Trí năng càng cao, thì niềm tin càng lớn, và càng bớt cả tin: Gabriel từ chối nhiều hơn chúng ta, nhưng đã tin vượt chúng ta hết thảy. Các kì quan vĩ đại nhất là các sự thật đầu tiên; và các sự thật đầu tiên là những thứ chúng ta có được sau cùng. Những thứ gần nhất thì xa xôi nhất. Dẫu tai của bạn nằm sát bên não bạn, thì nó vẫn mãi mãi nằm ngoài tầm nhìn của bạn. Con người ta có một cái nhìn toàn diện về mặt trăng hơn so với chính cái người đang ở trên mặt trăng. Chúng ta biết mặt trăng tròn; còn người kia thì suy ra nó. Bởi vì chính chúng ta ở trong chúng ta, nên chúng ta chẳng biết chính mình. Và chỉ khi nào chúng ta dễ tin, thì chúng ta mới không là kẻ không tin đến nơi đến chốn; và chỉ khi nào chúng ta thiếu niềm tin, thì chúng ta mới tin những gì chúng ta làm.
Theo một số sự thật từ thuở tạo thiên lập địa, toàn thể nhân loại là những kẻ không tin. Bạn có tin rằng bạn đã từng sống ba ngàn năm trước đây? Rằng bạn đang ở trong cuộc xử tội thành Tyre, bị choáng ngợp trong thành Gomorrah? Không đâu. Nhưng với tôi, tôi đang ở cái thời mà nước Hồng Thủy đang rút đi, và tôi thấm khô mặt đất, và dựng ngôi nhà đầu tiên. Cùng với các Chi tộc Israel, tôi ngất đi trong hoang địa; đã ở trong tòa, khi Solomon trổi vượt hơn mọi thẩm phán có trước ông. Tôi, chính là người đã xoá sổ cái công trình thất lạc của Manetho, bàn về thần học Ai Cập, vì chứa đựng những bí ẩn không được phép tiết lộ cho đời sau, cùng những điều xung đột với quy điển kinh thánh; tôi, người đã khởi xướng âm mưu chống lại sát nhân tím, hoàng đế Domitian; tôi, người trong thượng viện đã kiến nghị, rằng Aurelian tốt bụng và vĩ đại được làm hoàng đế. Tôi đã chủ mưu cho Diocletian và Charles Đệ Ngũ thoái vị; tôi đã chạm tới trái tim của Isabella, mà nàng đã lắng nghe Colombus. Tôi là hắn, người đã đem giấu Hiến Chương khỏi lãnh thổ vua trong hốc cây sồi già ở Hartford; tôi đã chứa chấp Goffe và Whalley: tôi là tù trưởng của những mặt nạ Mohawk, người từng ở cảng của Khối Thịnh vượng Chung Xưa, đã ném Chè Tiêu Chủng của Đoàn Đông Ấn xuống biển; tôi là Tiên tri Ba Tư Hạ mình; tôi, người đeo mặt nạ sắt; tôi, Junius.
CHƯƠNG XCVIII
CHUYỆN MỘT LỮ KHÁCH
Chính Samoa là người đã kể câu chuyện khó tin ấy; và chàng kể nó với vai trò là một người lữ khách. Nhưng những ai ru rú xó nhà đều bảo rằng mấy tay lữ khách toàn bọn nói điêu. Thế thì một cuộc hải trình đến Ethiopia sẽ chữa cho họ khỏi cái chứng ấy; vì số ít kẻ hoài nghi là các lữ khách; số ít lữ khách nữa là những kẻ nói điêu, mặc cho tục ngữ nói về họ như thế. Như nhiều người nói, rằng chuyện Bruce là anh em họ với Nam tước Munchausen là chuyện không có thật; nhưng lại đúng, như Bruce đã nói, rằng dân Abyssinia cắt các khứa thịt sống từ đàn gia súc của họ. Đa phần, chính những viên ký lục bất lương của ông mới là những người đã làm cho những chuyến du hành của Mandeville trở nên quái dị. Và mặc cho hết thảy bọn nói điêu sẽ đi đến Gehenna; song, giả sử rằng Mandeville chết trước Dante; thì, dẫu cho Dante có điều tra dân số dưới Địa Ngục, chúng ta chẳng tìm thấy Sir John, bên dưới cái gì giống như một lưỡi bò nướng, ở nơi hỏa ngục nhất của các hỏa ngục, là Hỏa Ngục.
Nhưng không để sự thật bị trì hoãn nữa. Lên bục đi, Samoa, và qua thông ngôn của anh, hãy lên tiếng.
Ngày xửa ngày xưa, trong suốt chuyến lang thang khắp biển bất tận của mình, anh Upolu được giao nhiệm vụ vá đầu cho một người bạn, người ấy đang đau đớn tột cùng vì một trận bắn ná dữ dội.
Khi kiểm tra, phần não cũng như hộp sọ cho thấy bị chấn thương rất nặng, người ta bắt về một con lợn sữa; và các bước chuẩn bị sơ bộ đã xong, phần não sống của nó được đặt vào trong khoang não, phẫu thuật trepan được hoàn thiện bằng sọ dừa, và da đầu được căng qua và cố định.
Người này đã không chết, mà vẫn còn sống. Nhưng đang là một chiến binh có ý thức và tinh thần lớn, anh trở thành một kẻ đầu óc càn rỡ và mọi rợ, thể hiện nhiều đặc điểm từ phẫu thuật ghép não lợn của anh. Anh sống được hơn một năm sau cuộc phẫu thuật; tuy vậy, cuối giai đoạn ấy, thì phát điên, và chết trong mê sảng.
Có bằng chứng vững chắc từ người kể chuyện, giai thoại ấy được nhiều người có mặt công nhận lắm. Nhưng Babbalanja thì kiên trì đến phút chót.
“Nhưng, nếu câu chuyện này là thật,” ông nói, “và vì nó đã được kết luận rất hay, rằng não của chúng ta bằng cách nào đó là cơ quan nhận biết; vậy thì, tôi chẳng hiểu vì lẽ nào mà lý trí con người lại chẳng thể đặt vào một con lợn, bằng cách cho vào hộp sọ của nó những thứ ở trong hộp sọ con người. Từ lâu tôi có suy nghĩ, rằng con người, lợn, cây, chỉ là các thử nghiệm sinh lý học lạ lùng; và rằng khoa học rồi cũng sẽ cho phép các triết gia được tạo ra các loài mới, và bằng cách nào đó phối trộn, và chế biến các chất liệu cốt yếu của các sinh vật khác nhau; và từ đó mà tạo nên những kết hợp mới. Bạn tôi Atahalpa, nhà chiêm tinh kiêm nhà giả kim, từ lâu có một chiếc lọ, trong đó anh ta nỗ lực tạo ra một loại tiên, các chất liệu được pha trộn theo tri nhận của riêng anh.”
Nhưng họ chẳng chút để tâm gì đến Babbalanja. Chính câu chuyện của người lữ khách mới là thứ thu hút được sự chú ý hơn cả.
Những thớ thịt căng, và cả những câu chuyện căng của Samoa.
CHƯƠNG XCIX
“MARNEE ORA, ORA MARNEE”
Suốt buổi chiều cái hôm người thợ lặn qua đời, người ta chuẩn bị các nghi thức cuối cùng cho di hài của anh, và thắp đuốc đưa anh ra khu lăng mộ, nơi biển khơi; vì, tập quán ở đây cũng giống như ở Odo.
Khi ấy, khắp hải đảo, các sứ giả đi qua đi lại, ăn vận buồn thảm, gõ những cái trống da cá mập; rồi chốc chốc, kêu lên rằng — “Một người đã chết; chớ nhóm lửa; hãy xót thương, hỡi thần Oro! — Chớ cho xuồng ra khơi đến khi an táng. Đêm nay, hỡi thần Oro! — Chớ nấu đồ ăn.”
Và thi thoảng, những người này trở qua trở lại, những người khác áo quần nổi bật; cùng những phách castanet từ vỏ trai ngọc, tạo nên thứ âm nhạc vui nhộn; và những người ấy hát —
Vui lên, hỡi người dân Mondoldo,
Một thiếu nữ đêm nay sẽ thành hôn:
Vui lên, hỡi các khuê nữ Mardi, —
Nào hoa, nào hoa cho chiếc giường tân hôn.
Khi được cho biết rằng người ta sắp thực hiện các nghi thức sơ bộ, chúng tôi ra chỗ chòi lá, nơi thi hài được mang đến đó.
Được liệm trong vải trắng, người ta đặt thi hài trên một tấm thảm; hai tay nó im lìm khoanh vào nhau, một đóa lan nhật quang đặt giữa hai môi; ở đằng chân, một cành táo gai.
Người nhà thì đang khóc than, và lấy vỏ sò mà tự rạch cho chảy máu mình ra, và vấy máu lên y phục của họ.
Khi chê trách mấy người than khóc khổ não nhất trong số những người đưa tang ấy, vợ anh thợ lặn, đã thốt lên rằng, “Phải; nỗi đau lớn lao đấy, nhưng khổ đau của tôi còn lớn lao hơn.”
Một người khác, người cha điếc của kẻ đã chết, loạng choạng đi tới, mò mẫm; nói rằng, giờ đây ông đã mù cả rồi; độ vài tháng trước ông vừa mất một mắt vì cái chết của thằng con cả; và giờ thì đứa còn lại cũng qua đời nốt.
“Lão chẳng còn đứa con nào,” ông kêu lớn; “từ nay hãy gọi lão là Roi Mori,” nghĩa là, Hai lần Đui mù.
Đang khi người nhà khóc than dữ dội dường ấy, thì những người còn lại trong đoàn thi thoảng lấy vỏ sò mà rạch mình; nhưng rất nhẹ, và đa phần là ở lòng bàn chân; vì đi chân trần đã lâu, nên đã nổi chai kha khá. Tuy vậy, việc này bị gián đoạn khi những người đưa tang thật đã ngoảnh mặt đi; dẫu chưa hề có bất kỳ sai lệch gì về độ dài khuôn mặt họ.
Nhưng chung quanh, những tiếng than khóc lại một lần nữa bật ra, khi có người được mời đến đỡ đần phần cử hành tang lễ cho trọng thể, cũng là để an ủi những người khổ đau.
Tướng tá tròn trịa, người này là một Borabolla khác. Ông này thở phì phò và hổn hển.
Khi ông tiến lại cái xác, một sự im lặng thổn thức theo sau; rồi cầm tay người chết, người lạ mới lên tiếng thế này: —
“Xin chớ khóc than, hỡi những người bạn của Karhownoo, vì người anh em đây của các bạn không còn sống. Cái đầu bị thương không còn làm anh ấy đau đớn nữa; nếu như một cây lao có đâm vào, thì anh ấy sẽ chẳng cảm thấy gì. Phải; Karhownoo đã được cất khỏi mọi bệnh tật và cái ác ở chốn Mardi khốn khổ này.”
Nghe đến đấy, ông già Hai lần Đui mù, tai thì điếc, chẳng nghe thấy gì, bứt mớ tóc bạc của mình, và kêu lên rằng, “Than ôi! than ôi! con trai lão; bay từng là cái đứa vui vẻ nhất ở Mardi, vậy mà giờ đây những trò chơi khăm của bay chẳng còn.”
Nhưng người kia tiếp — “Xin chớ khóc than, tôi bảo, hỡi những người bạn của Karhownoo; người chết mà các bạn đang xót xa thì đang hạnh phúc hơn người sống; chẳng phải linh hồn anh ấy đang ngự ở các đảo trên trời hay sao?”
“Phải! phải!” chị vợ phát rồ trả lời, để cho máu lẫn với nước mắt của chị, “Karhownoo bất hạnh đáng thương của tôi thì đang hạnh phúc gấp ba lần trên Thiên Đàng!” Và chị lại rên rĩ, và cấu xé má chị ra.
“Xin chớ phát rồ, tôi bảo.”
Nhưng chị chỉ càng thêm rồ.
Và bấy giờ người lạ mặt tốt bụng đi ra; nói rằng, ông phải vội đến một lễ cưới, đang chờ ông có mặt ở một chòi lá sát bên.
Hiểu rằng cái thi hài đến tận nửa đêm mới được mang đi, chúng tôi thiết nghĩ hay là đi xem cách thức ở Mondoldo người ta cưới xin thế nào.
Tiến lại gần chỗ ấy, chúng tôi được những giọng nói vui vẻ đón mừng, và ca hát lắm thay, được tăng lên rất mực khi người ta trông thấy ông lạ mặt tốt bụng.
Ăn vận sặc sỡ trong những tấm áo dài sang trọng, với lông vũ trên đầu, cô dâu chú rể đứng giữa đám người vui vầy, chuẩn bị kết duyên vợ chồng.
Đứng trước họ, người lạ mặt được trao một sợi dây, trang hoàng bằng những đóa hoa, để che đi những thớ sợi to chắc của nó; và cầm lấy đôi tay cô dâu, ông buộc chúng lại theo một bài ca trong nghi lễ; quanh cổ nàng, theo từng tràng, bố trí các đầu dây hoa. Rồi quay sang chú rể, chàng được trao một sợi khác, cũng được kết hoa, nhưng có một tảng đá to được gắn vào đó, được chạm khắc và vấy màu rất nhiều; quả vậy, nó được người ta che đậy mọi bề quá mức, đến độ nếu có ai không biết nó là gì, và nâng nó lên, chắc sẽ kinh ngạc vô cùng về trọng lượng của nó. Sợi dây này được cột vào thắt lưng chú rể, chàng nghiêng về phía cô dâu, do gánh nặng của vật.
Tất cả những người có mặt khi ấy cùng hát một bài, và nhảy múa quanh cặp đôi hạnh phúc, những người lúc bấy giờ trông chẳng chút thoải mái gì cho cam; một người bị trói tay, còn người kia bị tảng đá kéo xuống ác liệt.
Một lát sau, người lạ mặt tốt bụng xoay lưng họ lại với nhau, nói thế này: —
“Bởi sợi xích hoa của nàng, hỡi cô dâu, tôi tuyên bố nàng là vợ; và bởi tảng đá nặng của chàng, hỡi chú rể, tôi tuyên bố chàng là chồng. Cả hai hãy cùng sống và hạnh phúc; vì thần Oro khôn ngoan và tốt lành đã đặt chúng ta ở Mardi để được vui mùng. Chớ gì toàn thể mẹ thiên nhiên chẳng mừng rỡ cùng những rừng cây xanh và những đóa hoa của bà sao? và chẳng dạm hỏi lẫn gả cưới những chim trời, láy lên tiếng rền diễm phúc của chúng nơi những buồng cây hay sao? Nên chi, này cô dâu chú rễ, hãy sống và hãy hạnh phúc; vì những kẻ không hạnh phúc mới lỗi phạm đến thần Oro, vì ngài đã ấn định cho họ được sống vui tươi.”
Và buổi lễ kết thúc bằng một cuộc yến tiệc vui vẻ.
Nhưng không phải lễ cưới nào ở Mardi cũng đều giống như vậy. Những người khác thì được kết hôn bằng những nghi thức khác nhau; chẳng xiềng đá lẫn xích hoa. Những người này họ hứa hôn bằng nước mắt chứ chẳng phải nụ cười, và nguyện ước trong lòng.
Từ ngôi nhà vui vẻ trở về ngôi nhà tang thương, chúng tôi nán lại đến nửa đêm để chứng kiến cảnh tiễn xác ra ngoài.
Bên ánh đuốc, có vô số các xuồng, cùng các tay chèo đang đợi sẵn, được kéo ra bãi biển, để đưa những người có ý định đi theo anh thợ lặn đáng thương về nhà của anh.
Thi hài được cho lên xuồng, đôi chút bối rối kéo theo về chỗ ngồi cho những người còn lại trên mấy chiếc sà lúp. Sau cùng đoàn đưa tang tiến ra biển, gồm cả đoàn của chúng tôi. Hai hàng hai, tạo nên một đoàn dài những ánh đuốc đi dọc quanh đảo, các xuồng đều hướng về lối ra ở rạn san hô.
Giữ im lặng đúng mực được một lúc; thì ngay sau đó, nghe thấy tiếng thì thầm phát ra ở đâu; chắc là cuộc bàn luận sầu hải về kết cục trong nghiệp lặn của anh. Thế nhưng chúng tôi lấy làm bất ngờ khi biết được, rằng người ta chẳng nghĩ ngợi nhiều về cái anh Karhownoo tội nghiệp ấy; mà họ đang bàn chuyện với nhau về vụ thu hoạch mít bột sắp tới, và cuộc ghé thăm gần đây của Vua Media và cả đoàn ở Mondoldo. Tuy vậy, nhưng từ đằng xa, ta cũng nghe được những khóc than của những người đưa tang thật, người nhà của anh thợ lặn.
Băng qua rạn san hô, và từ đó đi thêm một đoạn ngắn, các xuồng được bố trí theo một hình tròn; chiếc xuồng mang xác người ở chính giữa. Xong xuôi các nghi thức, thi hài được phó cho những con sóng; bọt sóng trắng làm rạng lên cú lao mình chậm rãi, cuối cùng của anh thợ lặn, để được nhìn thấy những cảnh tượng còn kì lạ hơn cả thứ anh từng thấy nơi ổ ấp Rạn san hô Rùa.
Và lúc này, khi trời vẫn đang nửa đêm, hết thảy những người có mặt đang chăm chú nhìn xuống biển, ngắm lằn nước trắng của xác chết, được những ánh lấp lánh chiếu sáng không ngớt, thì nghe thấy một giọng lạ, và ai nấy đều giật mình và nhìn xa xăm, khi bài ca hoang dã này được cất lên: —
Nơi biển cả chúng ta gieo kẻ chết,
Biển cả không đáy, không đáy;
Mỗi bong bóng một tiếng thở não,
Khi xác chìm, đến muôn đời luôn mãi.
Nơi biển cả chúng ta gieo kẻ chết, —
Kẻ chết nào lo lắng chi đâu;
Nơi biển cả chúng ta gieo kẻ chết, —
Biển cả có nghĩ ngợi bao giờ đâu.
Chìm, chìm xuống, ôi thân xác, vẫn chìm xuống
Tận sâu dưới biển không đáy kia,
Nơi những ẩn hình mãi lang thang,
Bên dưới, bên dưới nơi biển cả không đáy.
Đây màn đêm trên đầu, và đêm chung quanh,
Và màn đêm sẽ ở cùng ngươi;
Khi ngươi chìm xuống, và chìm xuống mãi,
Nơi biển cả không đáy cho sâu thật sâu.
Tiếng nói bí ẩn ấy dần tắt đi; còn cái xác bây giờ không còn thấy nữa; và nín lặng vì kinh ngạc, cả đoàn hướng về tiếng rên trầm của những cơn sóng cuộn và tiếng rì rầu của những cơn gió thổi.
Cuối cùng, không một tiếng nói, lễ tang kết thúc bằng cách thả một tấm bia được chạm khắc từ thân cọ lùn xuống biển, để đánh dấu chỗ an táng. Nhưng một đỉnh sóng đã đón lấy nó, và nó đã chóng trôi mất.
Trở về đảo, một khoảng lặng dài bao trùm. Nhưng rồi dần dà, như thể cảnh tượng mà họ vừa mới dự phần vào, lần nữa nhắc họ về sự kiện đau buồn đã đưa họ lại với nhau, cả đoàn lại nghĩ ngợi về nó; vài người có mặt ở đấy, buồn rầu và tình cờ bóng gió về bữa tiệc thịt rùa của Borabolla, mà vì lẽ ấy đã bị tạm hoãn.
Khương Anh dịch
