Melville: Mardi (kỳ 26)
CHƯƠNG LXXXII
DONJALOLO ĐÃ SAI THUỘC HẠ ĐẾN CÁC ĐẢO CHUNG QUANH, VÀ NHẬN VỀ KẾT QUẢ NHƯ THẾ NÀO
Trước khi thuật lại điều được chứng kiến khi tiến vào Nhà Buổi Sáng, việc có thêm đôi chút thông tin dọn đường là điều cần thiết. Dẫu rằng, Donjalolo trong nhiều ngày chỉ đành để lười biếng và xa hoa, nhưng, với chàng, cũng có những khoảng trầm ngâm xảy đến, những khi toàn bộ nỗi tò mò về các sự việc bên ngoài Mardi sống lại với cường độ mỗi lúc càng mạnh thêm. Trong tâm trạng ấy, chàng sẽ cử các phái đoàn ra bên ngoài, mời đến Willamilla vua chúa của các đảo lân cận; cùng các thầy tế, thi sĩ, người kể chuyện, ảo thuật gia, và nhà thông thái có tiếng bậc nhất; để chàng được nghe họ trò chuyện về những điều mà chàng không thể mắt thấy tai nghe.
Nhưng cuối cùng, chàng nghĩ bụng, rằng những trình thuật khác nhau mà người ta kể lại cho chàng, không thể nào tránh được sự không chính xác; bởi đa phần chúng được thu thập từ dân cư của các quốc gia trên; những người mà, theo lẽ tất nhiên, hẳn phải có chiều hướng thiên vị hoặc không ngay thẳng trong các phát biểu của mình. Thành thử thời gian gần đây chàng mới cử các thuộc hạ đắc lực của chính chàng đến các hải đảo; những người trung thực trong tâm hồn, nhạy bén trong nhìn nhận, và sắc sảo trong suy xét; để tìm kiếm bất kỳ thứ gì hứa hẹn sẽ soi sáng cho chàng về những nơi mà họ đã ghé thăm, và cũng là để thu thập nhiều mẫu vật của nhiều điều thú vị khác nhau; để rồi cuối cùng, chàng có thể tận dụng các nghiên cứu của người khác, và nhìn bằng mắt họ.
Nhưng mặc cho hai người quan sát đã được gửi đi đến từng miền đất lân cận; song, ai cũng phải tự thân vận động; đặt ra các câu hỏi của chính họ; đưa ra các kết luận của chính họ; và trở về với các mẫu vật do chính họ tìm được; hoàn toàn không biết gì đến quá trình của người kia.
Xảy ra chuyện khi chúng tôi đến thung lũng hẹp này, ngay vào ngày mà những người du hành ấy trở về từ các chuyến đi của mình. Và Donjalolo đã chuẩn bị sẵn sàng vào sáng hôm sau để tưởng thưởng cho các nhà thám hiểm ấy một buổi chiêu đãi trọng thể chung. Và vì lý do đó, đoàn chúng tôi cũng được mời đến dự tiệc, như ở chương trước đã được thuật lại.
Trong Đại sảnh Cọ dừa bên Nhà Buổi Sáng, chúng tôi được người ta dọn sẵn cho những tấm thảm đặc biệt, ngự ngay bên trái vua; còn các tù trưởng, hầu cận, và thần dân của chàng thì được tề tựu ở dãy cột thoáng gió bên ngoài.
Khi mọi thứ đã sẵn sàng, đoàn những nhà thông thái và lữ hành dẫn bước tiến vào; và khiêm nhường đứng theo một hình bán nguyệt trước vua, biết bao nhiêu là giỏ lớn được đặt dưới chân họ.
Donjalolo bấy giờ đang khấp khởi, nghĩ đến kho phong phú kiến thức đáng tin cậy sắp được dâng lên cho mình.
“Zuma,” chàng nói, xưng hô với người đầu tiên, “ngươi và Varnopi được lệnh khám phá đảo Rafora. Vậy bây giờ hãy bắt đầu, và thuật lại tất cả những gì ngươi biết về nơi ấy. Khi kể xong câu chuyện của ngươi, chúng ta sẽ nghe câu chuyện của Varnopi.”
Cúi đầu thật thấp người lữ hành tuân theo.
Nhưng chưa được bao lâu, Donjalolo đã ngắt lời anh. “Ngươi nói gì, Zuma, về cái hang bí mật, và kho báu ở đó? Một lời tường thuật rất khác, lời thuật này, với tất cả những gì ta từng được nghe tới nay; nhưng biết đâu lời kể của ngươi là đúng. Tiếp tục.”
Nhưng cũng chưa được bao lâu, Zuma tội nghiệp lại bị ngắt lời một lần nữa vì những cảm thán ngạc nhiên. Đúng hơn nữa, là cả đến tận cuối màn tường thuật.
Nhưng khi anh đã xong việc, Donjalolo nhận xét, rằng nếu như có vì bất kỳ lý do nào mà Zuma sai sót hoặc mù mờ, thì Varnopi sẽ không thể không chỉnh lại cho đúng.
Vậy Varnopi đã được triệu lên.
Nhưng khi Varnopi khởi sự chưa được bao lâu, thì Donjalolo đã biến sắc.
“Cái gì! Chàng thốt lên, “các ngươi mâu thuẫn với nhau trước mặt chúng ta sao. Hỡi thần Oro! sự thật thông qua ủy quyền mới khó đạt được làm sao! Năm chục lời tường thuật mà ta được nghe về Rafora; chẳng cái nào hoàn toàn khớp với cái nào, hai tên xỏ lá này, các ngươi được cử đi cốt là để quan sát và báo cáo, hai tên đểu giả này, các ngươi ăn nói quanh co hết cả hai. Thế là làm sao? Liệu những cái tròng trong mắt chúng đều đa sắc, đến độ các sự vật đều hầu như khác biệt với cả hai; vì không thể chối cãi, rằng những thứ mà chúng nói va vào nhau chan chát nhường ấy là thứ mà ai cũng biết là cùng một thứ; dẫu được thể hiện bằng những màu và những chất không giống nhau. Nhưng những thứ không biết nói thì không thể nói dối hoặc nói sai được. Mở các giỏ của ngươi ra, Zuma. Rồi đây, mang chúng lại gần: thế rồi: cái gì đây?”
“Thưa, vật này,” Zuma run rẩy đáp, “là một mẫu vật của dải san hô nổi tiếng ở phía tây đảo Rafona; bệ hạ nhận thấy những màu nhuộm đỏ thẫm của nó.”
Donjalolo nói, “Varnopi, ngươi cũng có một mảnh san hô này?”
“Thần có, thưa bệ hạ,” Varnopi nói; “nó đây.”
Nhận lấy từ tay anh, Donjalolo chằm chằm nhìn vào cái màu trắng, được tẩy sạch của nó; đoạn ném nó ra ngoài lề, “Hỡi thần Oro hùng mạnh! Sự thật ngự trong những suối nước của ngài; nơi ai cũng được tự mình uống lấy. Còn ta, toàn bộ hy vọng hằng được hiểu biết về Mardi đều bay biến cả! Cút đi! Thà chẳng biết gì còn hơn là bị phỉnh gạt. Giải tán!”
Và thế là Donjalolo đứng dậy, đi khỏi.
Tất cả mọi người có mặt khi ấy đều bùng lên một trận la lối om sòm; một số đứng về phía Zuma; số khác về phía Varnopi; mỗi người, thay phiên nhau, đều được cho là người đáng tin cây.
Nhận thấy toàn bộ việc này, Babbalanja, người nãy giờ còn im lặng quan sát, mới dựa vào một trong số các cột cọ dừa, lặng lẽ thông tin cho Media rằng: — “Thưa ngài, tôi từng được nhìn thấy cũng chính cái rạn san hô ấy ở Rafona, nó có nhiều màu sắc khác nhau. Về phần Zuma và Varnopi, cả hai đều sai, và cả hai đều đúng.”
CHƯƠNG LXXXIII
HỌ ĐẾN CÁC HẢI ĐẢO PHỤ LƯU
Ở Willamilla, chẳng thấy Yillah đâu, vào ngày thứ ba chúng tôi tạm biệt Donjalolo; người đã hào phóng dành cho chúng tôi nhiều âu yếm; và, về phần Media thì có phần miễn cưỡng, chúng tôi rời khỏi thung lũng.
Từng làng một, khi ấy chúng tôi ghé thăm các làng thuộc đảo Juam; và đi xuồng trên biển, lang thang vài ngày giữa các đảo phụ lưu của nó. Ở đấy chúng tôi thấy các tộc trưởng của chàng cai trị trong lòng thung; các trưởng lão mà Donjalolo lấy làm tự hào; quá thành thực, khiên nhường, và trung thành; quá quyết tâm muốn cải thiện tình trạng của những người dưới sự cai trị của họ. Vì, có thể nói, Donjalolo là một quốc vương độ lượng; trong những lúc nghiêm túc, luôn kiếm tìm phúc lợi cho thần dân của mình, dẫu là theo quan điểm đế vương của riêng chàng. Nhưng than ôi, trong tháp canh đầy nắng giữa những ngọn núi, nơi chàng ngự, làm sao Donjalolo có thể chắc chắn, rằng những điều chàng đã ban sắc lệnh sẽ được thi hành ở những vùng mãi mãi cách xa khỏi tầm nhìn của chàng. A! rất dịu dàng, rất ngây thơ, rất lễ nghĩa, những khuôn mặt của các phó vương của chàng được trình diện trong suốt những chuyến thăm hằng tháng đến Willamilla. Nhưng những nét mặt ấy cũng hung ác không kém, khi, trở về các cù lao của họ, họ phó mình cho đúng phép bạo chúa hết thảy; như Verres nốc cạn quyền lợi của người dân Sicilia.
Như các tu sĩ dòng Carmelites, họ tiếp đón Donjalolo, chân để trần; thế mà đến lúc ở nhà, những sợi dây giày của họ được nô lệ buộc cho. Trước mặt vị quốc vương đai lưng, họ đứng đấy dây thừng thắt ngang như những thầy tu khó nghèo dòng St. Francis; thế mà cũng bằng những dây thừng ấy, trước các cung điện của mình, họ đem Sự Vô Tội và Sự Thật mà treo lên.
Rồi vẫn đi tìm Yillah, và vẫn thất vọng, chúng tôi lang thang qua những miền đất mà các trưởng lão ấy cai trị, Babbalanja thốt lên — “Ta đi thôi; hoài công tìm kiếm của mình, ở những hải đảo có những tộc trưởng làm vua.”
Sớm tinh mơ, sắp sửa lên đường đến một miền đất xa xôi, có các sứ giả của Donjalolo đến với chúng tôi, báo rằng chúa tể của họ đức vua đây, hối tiếc vì đã chia tay đoàn với Media và Taji quá sớm, nên đã khẩn nài họ chóng chở về; bởi vì ngay sáng hôm ấy, ở Willamilla, một bữa yến tiệc hoàng gia đang được dọn lên; nhiều vị vua ở các đảo lân cận được mời tới, đa phần những người trong số họ đã đến nơi.
Tuyên bố rằng chẳng có lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận, Media đồng ý; và cùng các sứ giả của vua, chúng tôi trở lại thung lũng.
CHƯƠNG LXXXIV
TAJI NGỒI XUỐNG DÙNG BỮA VỚI HĂM LĂM VUA, VÀ KHOẢNG THỜI GIAN CAO SANG CỦA HỌ
Khi chúng tôi ra khỏi hẻm núi thì trời đã về chiều. Và được thông báo rằng vị gia chủ chúng tôi đang đón các vị khách quý của chàng ở bên Nhà Buổi Chiều, chúng tôi hướng về nơi ấy.
Nhè nhẹ trên mặt chúng tôi, những làn gió lành của Omi, khuấy những chiếc lá trên cao; trong khi ấy, đó đây, qua những thân cây, thấp thoáng những trụ tượng thần ở cung vua, tay trong tay, được liên kết bằng những tràng hoa. Còn ở tít trên cao, trên một mặt phẳng, lấp lánh những vương miện gật gù của các vị vua, như chòm Bắc Miện, đường chân trời vừa tới.
Gần bên người bạn giữa trưa, thác nước ngay miệng hang, ngả mình trên tấm thảm đỏ của chàng, Donjalolo: — trong bộ lễ phục làm từ vải tappa trắng loại thượng hạng nhất ở Mardi, trang trí khắp lễ phục là những hình thằn lằn vàng tươi, được nhuộm quá lạ mắt, đến độ chàng như bị ngập giữa những con chuột vàng.
Đai lưng của Marjora thắt quanh lưng, với những mấu răng của cha ông chàng được gom thành cụm làm tua gắn vào. Một vương miện xếp khăn đính đá, trắng sữa, đội trên đầu, phía bên trên vẫy một túm lông chim Pintado.
Nhưng trong tay chàng đung đưa cái gì kia? Một quyền trượng, như bao quyền trượng, được cắm giữa những rạn san hô dưới chân chàng. Một khúc xương đùi được đánh bóng; nghe Râu Bím kể rằng trước kia từng là của Người đã Sát hại Teei. Chính Marjora đã chọn biểu tượng cai trị nhân loại ấy nhằm nhấn mạnh ý đồ bá chủ của mình.
Nhưng ngay cả điều này, tuy cuối cùng đã xảy ra với Teei quá cố, trước đây còn ghê gớm hơn. Vào thời của kẻ chiếm ngôi, có một niềm tin phổ biến, rằng nước bọt của các vị vua cấm không được chạm đất bao giờ; và Bộ Sử Biên Niên của Mohi đã đề cập, rằng trong suốt cuộc đời của Marjora, hộp sọ của Teei đã được dùng cho những mục đích đê tiện nhất: của Marjora, cái niềm căm hận không cỏ nào vùi được.
Song, những truyền thống như thế này luôn luôn mang vẻ đáng ngờ. Có lắm kẻ còn chối cái bướu thịt, đạo đức và thể chất, của Gloster Richard.
Vẫn tiến tới không ai hay, chúng tôi trông thấy từ xa các bậc Đế Vương ấy nhờ bầu không khí hội hè vui vẻ, đang chuyện trò với nhau như những con người bình dân nhất; tràn đầy niềm vui như các tăng lữ thời xưa. Nhưng khi nhận thấy chúng tôi lại gần, thì tất cả thay đổi. Một cặp quân chủ, những người nãy giờ còn đang đùa giỡn, đã vội chỉnh đốn mũ miện, điệu bộ đứng đắn, ra vẻ nghiêm như tượng. Phidias chẳng thể nào nặn cho được Jupiter nhanh đến thế.
Hăm lăm vua được ăn vận trong những tấm áo choàng nhuộm đủ màu; và những nét khác biệt của họ, như những hàng môi, mắt và tai trong biểu đồ nhân tướng học của John Caspar Lavater. Tiếng thế, nhưng so với một vị vua, mũi của họ chiếc nào cũng khoằm.
Họ có những bộ râu đuôi cáo dài xám bạc, và những chiếc cằm tráng men, như cằm con gái; những cái đầu trọc và những lọn tóc Merovingian; những cái trán nhẵn và những nếp nhăn: thành đường thẳng hoặc đường cong; một con mắt lác; một ông vua điếc; cạnh ông, một ông khác bị què; và không xa đó, một ông bị lẫn. Họ già và trẻ, cao và lùn, đẹp và xấu, mập và gầy, gian và khờ.
Vị gia chủ tiếp đón chúng tôi bằng phong thái nhã nhặn đầy sức sống: cắt cử một buồng cây gần đó cho Babbalanja và những người còn lại; và giữa những vị khách quyền thế, các á thần, ai lại để các á thần Media và Taji không được như ở nhà?
Vẻ hoạt bát hiếm có của Donjalolo khiến chúng tôi ngạc nhiên vô cùng. Nhưng chàng chỉ là đang trong cơn tái phát niềm vui tươi tuyệt vọng vốn luôn nối đuôi những thất bại trong nỗ lực bổ cứu cuộc đời mình. Và công cuộc xuất phát bất thành mới đây để đến vùng bên ngoài Mardi đã khiến chàng sa đà vào tâm trạng truy hoan. Dạo gần đây chàng cũng không chịu tránh xa một thứ rượu hoang, gọi là Morando.
Một người nô lệ lúc bấy giờ xuất hiện cùng một bát đựng thứ thức uống này, nó được các đấng ấy thoải mái chuyền tay nhau.
Chẳng dám giấu diếm gì, quả thực chúng tôi cũng thích thứ Morando này lắm. Nó có vị bùi, hăng cay; như mấy loại rượu arrack được chưng cất bên quần đảo Philippine. Và tác dụng của nó thì tuyệt diệu quả là, nó làm tan sự kết tinh hóa trong não; chẳng để lại gì ngoài những giọt tâm trạng vui vẻ nhỏ nhoi quý giá, kết hạt quanh bát xương sọ.
Trong khi đó, các bé trai đeo vòng hoa, trèo lên tay của các cột tượng thần, và quẫy chân chúng nó trong các vòm miệng cực thánh, những bức trướng tappa đỏ được treo khắp sảnh; để khi quét ngoài bờ hè thì chúng xào xạc trong làn gió từ hang thổi tới.
Ngay sau ấy, thì các nô lệ đô con tiến đến; mang một bồn trũng lớn rất sâu lòng, đậm sắc đỏ thắm, làm từ một thân cây. Bên ngoài, là vô số những hình tượng kỳ quái; dễ thấy nhất, làm diềm trang trí, là một dây vô tận những con thằn lằn hoàng gia đang lượn quanh chậu theo lối đuổi ngược theo đuôi của chúng.
Loài thằn lằn vàng này, vốn chỉ có trong các rừng cây ở Willamilla, đã làm nên huy hiệu của đảo Juam. Và khi các sứ giả của Donjalolo đi đến các đảo bên ngoài, họ mang theo hình vẽ nổi của nó, làm biểu tượng cho vị chủ nhân hoàng gia của mình; chính họ cũng được người ta gọi là các Quý Ông Thằn Lằn Vàng.
Cái bồn trũng màu đỏ thắm ấy được đặt chính giữa tất cả chúng tôi, mấy người hầu ngay tức thì trút dòng nước sống từ thác nước vào chính cái bồn ấy; một nghi thức, mà đối với một vài người trong đoàn thì không thể cắt nghĩa được, trừ phi đức Bệ Hạ, gia chủ chúng tôi, với toàn bộ sự tỉnh bơ hoàng gia, có ý muốn cho bản thân ngài được tỉnh hơn nữa, tắm tắp trước sự hiện diện của các vị khách quý. Đoán chừng, hầu như vẫn là non vội; thì, cái bồn này được đong nước trực tiếp đến mực bên dưới những hình thằn lằn một chút, những người hầu khởi sự cho vào đấy những mâm lớn đủ cỡ, hết thảy đều nặng tay những của ăn hảo hạng: — thịt lợn rừng; bướu cá heo; mít bột chín già, được nướng trong ngọn lửa thơm gỗ đàn hương, nhưng đã được để nguội; cá vàng, trộn với cốt thơm quả mọng; xốt thanh yên; những cuốn nướng bột nghiền khoai mỡ; chuối béo, ngâm trong một loại dầu ngọt lịm; mứt chuối táo quạ; thạch ổi; kẹo mật từ nhựa cọ; và nhiều cao lương mỹ vị khác; bên cạnh đông đảo những bầu rượu Morando, cùng các thức uống khác, được đặt cố định trên những chiếc phao chạm khắc để chúng được nổi trên mặt nước.
Các vị khách quý được ấn định chỗ ngồi, bằng những cán gỗ được xỏ qua tấm thảm tím của chàng, vị quốc vương, gia chủ chúng tôi, bấy giờ được các gia nhân nhẹ nhàng đưa đến ngự ngay đầu bồn trũng đỏ thắm ấy. Ở nơi, mà hai bên là những đầu đội mão cao ráo, miện trắng, và rực ánh hoàng gia, chàng ngự; như Mont Blanc vấn khăn tuyết, khi rạng đông thì nắm quyền trên các thượng nguồn sông Rhone; cả phải lẫn trái, lờ mờ hiện ra những chóp núi thếp vàng của Simplon, Gothard, Jungfrau, Great St. Bernard, và Grand Glockner.
Vẫn còn lộn xộn vì cuộc dỡ hàng, Hồ Como bập bềnh tới lui những hạm đội hân hoan của nó, bóng của các chỏm vua dập dờn dữ dội ở trong.
Thế nhưng không có rượu lạnh và thùng trái cây trữ mát, Hồ Como; như ban đầu đã kể; chỉ là một bàn ăn nhiệt đới, bề mặt của nó là một phiến cẩm thạch St. Pons lam nhạt ở thể lỏng.
Bấy giờ, các vua tháo vương miện; đặt sang bên các quyền trượng; nới lỏng các đai lưng; và giữa những của ăn xanh tốt ấy, các vua có râu thì gặm như dê; hoặc găm nanh vào thớ thịt lợn rừng mà ăn như chó ngao.
Và như lao vào một trận đánh đẹp, khởi đầu thì yên tĩnh, nhưng rồi hối hả tiến vào một cuộc xô xát hăng tiết, trận tiệc đẹp ấy bấy giờ mới bắt đầu nóng lên.
Tuy nhiên vẫn có một vài người sành ăn hoàng gia: những người sành ăn mải mê những sáng chế, trộn lẫn, và bày biện cho thật khéo; những người cư xử với trọn vẹn thận trọng và đường hoàng đúng mực; chẳng vội ẩu tả mà nuốt ực những của ăn ngon lành này. A! như vậy cũng hay, Hồ Como: đã thay thế cho những kẻ hầu người hạ. Bởi lẽ, tay này chuyền tay kia những mâm đồ ăn dong buồm; ngay khi vừa cập một bến, là đã được gửi ra biển sang bến khác.
Chúng quả thật rất phù hợp trong trường hợp này; dong buồm cao trên mặt nước, hầu kháng cự trận sóng lừng chè chén lắm phen làm xáo động vùng biển thân mật; và ở cả hai đầu đều nhọn, để bố trí chúng được cho khéo hơn hầu dễ bề qua lại.
Nhưng chẳng mấy chốc, rượu Morando, giữa những bình thon cổ khải hoàn, truyền khắp, quay vòng như những thuyền ba buồm trước gió. Thế nhưng các cuộc hải trình của chúng thì ngắn ngủi; và lát nữa đây, ở một vài cảng, những chồng thuyền trống lăm le bắc cầu qua hồ bằng những thuyền phao. Theo các hướng ấy, mà những ngọn gió Mậu Dịch đang nổi gió. Nhưng ngay sau đó, những bầu rượu không tải và vô dụng đều được đem bỏ hết thảy; rồi được thay thế bằng những quả bầu vui bụng, được một lúc dong sâu, đã bị đẩy trệch khỏi đường thuyền.
Sau cùng, toàn bộ đội chiến thuyền những mâm ăn — xác tàu đắm các thứ — được gửi đi đến đầu bên kia Hồ Como; và từ đó được dọn đi, nhường chỗ cho những ngọn đồi đỏ hây những trái cây, cùng những hòn đảo nổi những bông hoa. Quan trọng nhất trong tất cả, là một khối cầu vàng, như trái mộc qua, thơm nức đến độ bạn tưởng như chính mình đang thưởng thức hương vị của nó.
Thế mà rượu cũng chẳng thôi tràn trề. Ngày hôm ấy giống nho đảo Juam đã rỉ cốt nho; ngày hôm ấy những món tóc thân leo quấn tua, hết thảy đều đã duỗi ra; và nho từng trái một, đã nhụt chí hoàn toàn, những chùm nho chín nắng ấy đã buông rơi. Hăm lăm vua hoan hỉ bồ đào: hăm lăm vua ngà ngà vui sướng.
Vụ thu hoạch rượu Morando ấy chẳng bao giờ ngưng; cùng cả những thứ rượu khác, được cất trữ trong hầm rượu hoàng gia, nằm ẩn đâu đó trong hang. Ôi! đâu là nguồn sông Niger bất tận? Bạn tìm chỗ này, hay bạn tìm chỗ kia; cứ thế, cứ thế, qua khe núi, qua vega, qua thung — bạn sẽ chẳng tìm ra được thượng nguồn nào. Nhưng sao lại cần phải tới nguồn suối ẩn, trong khi mạch nước dồi dào của nó chảy qua? Ở những hang lớn gấp ba mà hang Delta đã chảy ra; những dòng sông vàng, trắng, và đỏ.
Nhưng ai có thể hát mãi? Nào tôi đi xuống, và rọi sáng đồng bằng cũ xưa, buồn tẻ.
Giữa những bình thon cổ khác được thả nổi, là một hũ rượu cổ nhỏ trông trịch thượng, khoa trương, nhưng đồng thời cũng vừa lâu đời vừa đáng kính, nổi quanh mặt nước, tự đắc như một kẻ chuyên quyền sắp được tôn vua, hoặc một tàu buôn chở châu báu hướng về cảng nhà trong gió. Song, nó trông nghiêm nghị, dẫu nó quay cuồng; có khi, đã đi rất xa cùng thứ rượu mạnh bên trong.
Ôi! những bờ cát đỏ sông Rhine và Rhone! Ôi, những kỷ niệm ngọt lịm của những vụ thu hoạch lái quả chín già! Ôi, những mạng nhện nơi các Kim Tự Tháp! Ôi, bụi trên lăng mộ Pharaoh! — hết thảy, hết thảy đều trở lại trong trí, khi ta nghĩ về bầu rượu huy hoàng ấy, cái chất rượu đậm như rượu Tokay, ngay cả chính nó cũng cổ xưa như các truyền thuyết của Mohi; trông vào thì đáng kính hơn cả râu của ông. Thứ rượu này bởi đâu mà có? Được vùi trong các bình, như trên nhãn có ghi, cùng với trái tim của Marjora xưa, giờ đã chết từ cả trăm ngàn kỳ trăng. Sau cùng được đào lên, trông nó chẳng ra rượu, thế mà đã cô đặc thành một loại si rô tinh diệu.
Bầu rượu đặc biệt này khác biệt nhờ vô số những vật trang trí, được đeo yên như hồng mã thánh thiêng được dẫn ra trước Thành Cát Tư Hãn của Tactary. Một mạng lưới được đính tua và lạ lùng bậc nhất nằm bên trong nó; và con thằn lằn hoàng gia thì bị đố kị xoắn quanh cổ, như một bàn tay đặt nơi cổ họng đang cất giữ bí mật vô giá nào.
Marzilla muôn năm! Sản vật Hoàng gia chỉ vua mới có! Một Percy rượu vang! Ngược về thời Chinh Phục! Mà thời xưa được chưng cất từ những quả mọng tím mọc ở thung lũng tím ở Ardair! Ba lần muôn năm.
Nhưng Marzilla hoàng đế chẳng dành cho hết thảy mọi người; chỉ có bậc thần thánh được dùng; các Vua và các á thần ở hải đảo; trừ ra những đám con rơi của những phường phóng đãng bất tử, khi xưa ở Mardi từng đập bể những cái đầu và làm tan nát những con tim, để lại những đứa con ngoài giá thú cho biết bao nhiêu phàm nhân, những kẻ mà lúc này có lẽ hoài công mà đòi cho được một cốc đầy Marzilla của bậc vua chúa hợp lẽ hợp phép.
Cái món Đặc sản Hoàng gia ấy bị ấn cho tôi, bởi Donjalolo bấy giờ đang cao hứng. Bằng bàn tay quyền trượng mà rót cho tôi đầy bình, chàng tuyên xưng niềm sung sướng chuyên quyền của chàng, rằng tôi phải nốc cạn đến giọt cuối cùng. Thú thực, đấy cũng chẳng có gì tai biến nặng nề; bởi được uống thứ rượu này tựa như hát một bài tụng ca hùng tráng, hoặc một bài thơ trữ tình mê cuồng cho tâm hồn.
“Uống đi, Taji,” Donjalolo kêu lên, “uống cho thật sâu. Trái tim của một vị vua đã được hoà tan trong rượu này. Uống cho thật lâu; mà bên trong ấy có ẩn chứa hạt giống trường sinh bất tử. Uống cho thật sâu, thật lâu: mỗi ngụm uống vào là mỗi ngụm khôn ngoan, can đảm. Hãy uống luôn mãi chẳng ngừng, hỡi Taji, bởi lẽ rượu này sẽ cho phép ngài đứng dậy và lên tiếng mặt đối mặt trước thần Oro hùng mạnh.”
“Borabolla,” chàng thêm, quay sang một ông vua già tròn như vung đang ngồi bên trái chàng, “Chớ gì thần Xipho, đã chẳng nài xin tổ phụ cố cụ ta cũng một ngụm rượu này, cùng phán rằng ông ấy sắp làm cha một người anh hùng hào kiệt sao?”
“Ngay cả như vậy. Thì Marzilla hiển vinh của ngài đã ba lần tạo ra Ononna dũng cảm, người đã tru diệt những người khổng lồ của rạn san hô.”
“Ha, ha, ngài nghe chưa, Taji hỡi?” Rồi Donjalolo uống cạn một cốc nữa.
“Tuyệt vời! sự linh hoạt của khuỷu tay hoàng gia, và sự cứng cáp của sống lưng hoàng gia! Còn đặc biệt hơn khi chúng tôi từng có ấn tượng rằng những con người này rất bạc nhược. Nhưng, đôi khi những gã trai trẻ trông vào tưởng yếu ớt ấy lại cho thấy chân tay rắn rỏi hơn những phường ăn chơi kỳ cựu lâu năm.
“Xả nước khỏi bồn trũng, và chất đầy rượu vào,” Donjalolo kêu lên. “Đập vỡ hết những bầu rỗng! Uống đi, hỡi các vua, và nâng cốc uống cạn.
Khi nói vậy, chàng bật dậy khỏi tấm thảm tím của chàng; và vô tình đặt một chân lên đầu lâu của Marjora; trong khi hết thảy những bộ xương toe toét cười với chàng từ ngoài hè; Donjalolo, giơ cao cốc rượu đỏ máu của mình, thốt lên lời cầu khẩn sau: —
Ha, ha, hỡi các thần các vua; nhất loạt, dâng cao;
Uống, uống nào! Reo hò, uống cạn! cuồng say đáp tiếng gọi mời!
Rót nhanh, rót đầy; vào những cốc chẳng bao giờ mắc tội;
Nốc một hơi, lúc triều lên, đến tận vành: —
Dâng thật ắp, con nước lũ, và con nước tâm hồn!
Ai sợ khi có rượu trong người? ai nghĩ về âu lo?
Ai khao khát cái khôn, khi rượu trong người bừng cháy?
Nước chìm sâu bên dưới, trong hải lưu chảy chậm;
Nhưng rượu dâng cao bằng ánh lửa ấm của nó: —
Dâng lên, đến khi não ứ tràn!
Như hai bán cầu, cuộn sóng, nồng trong tim,
Những hoàng kim khác, cùng nhạc, xoay quanh cực;
Vậy để cốc rượu của chúng ta, rạng ngời cùng sắc rượu,
Quanh quanh thành vòng, xoay, Hoàng Đạo của ta: —
Quay nhanh, và rung lên chùm chuông của chúng!
Nào hãy uống, hỡi các thần các vua; cái vui rượu nồng;
Đập dồn trong từng mạch; bởi đó, hân hoan hát ca.
Mặc triều rút, và chảy đi; rượu chẳng xỉn màu bao giờ;
Uống cạn hải triều rực trên vành lấm tấm hạt: —
Rót đầy, từng cốc, rót cho thật ắp!
Được những người có mặt bắt nhịp, đoạn điệp khúc vang lên hết lần này tới lần khác. Thứ rượu lấm tấm hạt nhảy múa trên những bộ râu; thác nước nâng giọng của nó cho cao hơn, hang động dội lại một tiếng kêu; những hồn ma của các Quốc vương San hô tựa như nhảy dựng khỏi đám xương bị sỉ nhục. Thế mà ha, ha, ha, hăm lăm vua gào ầm — những vua sống, chẳng phải những vua đã chết — lấy cả hai tay mà giữ chặt thắt lưng, và tru lên tràng cười của họ từ những vực sâu; như bầy chó săn của vua Nimrod trên xác nai sừng tấm chết rũ.
Những tay ăn chơi cuồng say và điên rồ, xem các người uống và gầm lên thế nào! thế mà vua chúa đâu chẳng còn: y phục lôi thôi; quyền trượng bê bối dưới đất.
Ruộng đất vinh quang, rượu vang mi đây! mang hết thảy những con tim lên một mức, và sau rốt là những cẳng chân lên đất; ngay cả các vua này, những người, công bằng mà nói, đã bị gán cho biết bao nhiêu phẩm chất họ chẳng có. Vì hễ ai từng cạn cốc cùng những quốc vương, sống lưng của họ trên ngai chẳng cứng đơ bao giờ, quá rành những quân bất lương, vốn là những người bằng hữu hoàng gia; nhờ rượu mà được nên thẳng thắn vượt hẳn những kẻ xuất thân tầm thường. Chẳng phải Alexander là một người bạn hào hiệp hay sao? Và Cambyses ngớ ngẩn? và còn bạn của Rowley xưa, như một người sành rượu và cả những điều khác, cứ luôn nhấp rượu Bordeaux hoặc nhấp những môi hôn.
Nếu như Taji mà có tham gia một hội, thì ấy sẽ là Hội Bít tết của các Vua!
Donjalolo lại nốc cạn một cốc nữa.
Sự vui vẻ khi ấy thổi một cơn gió mạnh; giống những giàn dây níu trên một con tàu giữa Bão Lớn, từng đường gân rung lên; những cơn gió Omi hối hả thổi tới; các bức trướng giũ mạnh; những chiếc cốc nhảy điệu fandango; và Donjalolo, vỗ tay, cho vời những phụ nữ múa đến diện kiến chàng.
Từ hang phát ra một tràng nhạc như tiếng sậy, khiến ai nấy cũng giật mình, và nhìn về hướng ấy hầu chiêm ngưỡng những khúc nhạc mê hoặc. Tiếng dọn đường cho cảnh. Thấp thoáng trong không khí, hiện ra các tiên nữ, những cánh tay bóng đẫm đan vào nhau như những con rắn lấp lánh của các nghệ nhân múa rắn Ấn Độ. Các cô tụ lại quanh thác; rồi dừng lại dưới làn bụi nước. Bỗng chốc, tựa như bật ra từ giữa khối nước ấy, một dáng bọt non, múa lượn vào tâm trí như một ý nghĩ. Sau cùng, phảng phất sang bên, nó chìm trở lại vào hang, một con sóng. Trời đêm chóng xế bóng, những bức trướng đỏ thẫm được vén lên, và được khoác trên tay của các trụ tượng thần, đón ánh hồng trời chiều.
Đầu hàng trước cuộc phản công của bữa tiệc, các vua bấy giờ ngả mình; và hai nàng thiếu nữ câm tiến vào: một người cùng bầu nước thơm; người kia cùng khăn thấm. Cúi xuống mái đầu nóng bừng của Donjalolo, người trước vẩy một làn mưa những giọt thơm, rồi từ từ được người bạn của nàng chấm lấy những giọt nước ấy. Cứ vậy, thay phiên nhau, ai cũng được phục vụ; chẳng nghe gì ngoài tiếng thở sâu.
Trong một chiếc bình cẩm thạch, lúc ấy họ đốt một loại khói thơm nào đó: một nắm hương liệu.
Ngay sau ấy, thì ba nàng hút thuốc xinh đẹp của vua tiến đến; những người, mồi các ống thuốc của họ trong ngọn lửa hương này, thổi vào đoàn những làn khói an thần của Aina.
Ngập trong nhược thú, tôi ra sức chống lại nó thật lâu; gắng vùng vẫy khỏi màn sương đê mê. Thế nhưng lại có một bàn tay quyến rũ như luôn ở trên tôi, ấn tôi nằm xuống.
Lờ mờ xuất hiện, như trong một giấc mơ, và là hình ảnh cuối cùng mà tôi nhìn thấy, chính là Donjalolo: — mắt nhắm, mặt tái nhợt, tóc ướt, được chầm chậm đưa lên trên kiệu, để rồi băng qua thung, và thức dậy trong sự hẻo lánh nơi hậu cung của chàng.
Khương Anh dịch