favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2025
Next

Joseph Conrad về Henry James

14/12/2025 21:36

Nếu rộng rãi mà xem xét, các tiểu thuyết điệp viên-vô trị nổi tiếng nhất lấy bối cảnh London làm thành một bộ ba chứ không phải cặp đôi. Simon Leys đã nói về Một người tên là Thứ NămTay điệp viên. Cuốn ông không đề cập là The Princess Casamassima (1886) của James. Chắc chắn, Conrad, trong quá trình sáng tác Tay điệp viên (1907) với bối cảnh chính của truyện lần đầu được dời về London, đã nhận được nhiều cảm hứng từ James nói chung và The Princess Casamassima nói riêng. Tuy nhiên, họ không đơn thuần là thầy trò mà là hai tiểu thuyết gia kiệt xuất thu hút nhau bằng sự đồng cảm và trân trọng, bất chấp những sự khác nhau nhất định. Đã có những nhận định của Henry James về Conrad ở đây. Để hiểu hơn về mối liên hệ này, sau đây là bài tri ân của Joseph Conrad dành cho Henry James, viết khoảng năm 1903-04, tức chỉ ba năm trước khi Joseph Conrad cho ra đời Tay điệp viên.

 

Năng lực của phê bình phải lưỡng lự trước tầm vóc đồ sộ của sự nghiệp ngài Henry James. Những cuốn sách của ông nằm trên giá sách của tôi ở một vị trí dễ với tới, điều đó chứng tỏ thói quen đối thoại thường xuyên của tôi với chúng. Nhưng nhiều đó không phải toàn bộ sách của ông. Đến nay vẫn chưa có một toàn tập nào dành cho ông, như một số “bậc thầy” của chúng ta từng được hưởng nhận; không có những dãy sách ngay ngắn, đóng bìa vải hoặc thuộc da nửa gáy, như thế nhiêu đấy khiến tôi không khỏi vội vàng đưa ra lời khẳng định về tính toàn vẹn, cũng như truyền vào tôi một cảm giác chung cuộc, như thể sự buông xuôi trước số phận trên chính lĩnh vực mà tất cả những chiến thắng này đã giành được. Ở Anh, người ta chưa làm được những điều tương tự cho sự xuất chúng của ngài Henry James.

Trong một thế giới như chúng ta đang sống đây, nơi chất chứa đủ loại diệu kỳ cho tới đớn đau, lẽ ra người ta chẳng cần hao tổn tinh thần mà ngỡ ngàng vô ích trước những bìa sách đơn thuần, nếu như sự kiện ấy – hay nói đúng hơn là sự vắng mặt của sự kiện mang tính vật chất vốn nổi bật trong trường hợp những tác giả của nó có tầm ảnh hưởng (dù tốt dù xấu) – nếu không phải vì, tôi nói đấy, nó không biểu đạt một chân lý trực tiếp về mặt tinh thần và trí tuệ; một tai nạn – tôi đoan – của ngành xuất bản, mà từ bản chất phủ định của nó lại mang một ý nghĩa biểu tượng. Bởi, một cách rõ ràng, trong toàn bộ sự nghiệp của ngài Henry James, không hề có gợi ý nào về sự kết thúc, không đâu một manh mối của sự đầu hàng, hay thậm chí là khả năng đầu hàng, trước chính thành tựu chiến thắng của ông trên địa hạt mà ông là bậc thầy. May mắn thay, ông sẽ không bao giờ có thể tuyên bố về sự hoàn chỉnh của mình; và, dù cho trong một khoảnh khắc vô minh về bản thân, ông có thú nhận điều đó đi chăng nữa, thì ngay cả những tâm trí mà lời thú nhận ấy đáng lẽ nhắm đến cũng sẽ chẳng tin. Thật không thể tưởng tượng việc Henry James trở nên “hoàn chỉnh” bằng bất cứ cách nào ngoài sự tàn nhẫn của cái định mệnh kinh khủng của mỗi chúng ta, thứ mà sự chung cuộc của nó là vô nghĩa, theo nghĩa lô-gích của nó thuộc về một trật tự vật chất, thứ lô-gích của một hòn đá đang rơi.

Tôi không biết ngài Henry James nhúng ngòi bút vào mực hiệu nào; thực tế, dạo gần đây tôi nghe bảo ông đã chuyển sang đọc cho thư ký chép; nhưng tôi biết tâm trí ông đẫm trong dòng nước tuôn trào từ suối nguồn tươi trẻ của trí tuệ. Điều ấy, một đặc ân, một phép màu, gì cũng được, không hoàn toàn ẩn khuất ngay cả đối với những kẻ tầm thường nhất, những kẻ vừa chạy vừa đọc. Với những ai đủ duyên dáng để dừng bước, nó hiển hiện. Sau chừng hai mươi năm thông thuộc với các tác phẩm của ngài Henry James, điều ấy lớn dần thành một niềm xác tín tuyệt đối, mà, bỏ qua hết mọi tình cảm cá nhân, đem lại một cảm giác hạnh phúc cho sự tồn tại nghệ thuật của mỗi con người. Nếu lòng biết ơn, như ai đó định nghĩa, là sự ý thức sâu sắc về những ân huệ sắp tới, thì thật dễ dàng để biết ơn tác giả của The Ambassadors – xin nêu tên tác phẩm mới nhất của ông. Những ân huệ chắc chắn sẽ đến; mạch nguồn của lòng nhân từ ấy sẽ không bao giờ cạn. Dòng chảy cảm hứng tràn đầy tuôn theo một hướng đã định, không bị ảnh hưởng bởi những kỳ hạn hán, không vẩn đục trong sự trong khiết của nó bởi những cơn bão tố trên vùng đất văn chương, không kiệt quệ hay trở nên hung hãn trong sức mạnh của nó, không bao giờ chảy ngược, mở ra những tầm nhìn mới ở mỗi khúc quanh trên hành trình xuyên qua vùng đất trù phú đông đúc mà sự màu mỡ của nó đã tạo ra cho sự thưởng thức, cho sự phán xét, cho sự khám phá của chúng ta. Nó, trên thực tế, là một mạch nước thần diệu.

Cụm từ này, ẩn dụ về suối nước bất biến, về tuổi trẻ bất diệt, về dòng chảy, khi áp dụng vào nguồn cảm hứng của ông Henry James, có thể gác lại. Xét về quy mô và sức mạnh, toàn bộ sự nghiệp của ông có lẽ đáng được so sánh với một dòng sông hùng vĩ hơn. Mọi nghệ thuật sáng tạo đều là phép màu, là sự hiệu triệu cái vô hình thành những hình thức có sức thuyết phục, khai sáng, vừa quen thuộc vừa gây bất ngờ, nhằm giáo hoá nhân loại, cái nhân loại bị ghim chặt những điều kiện tồn tại của mình vào đắn đo sốt sắng của những con sóng thực tại vụn vặt nhất.

Có tính hành động trong bản chất, nghệ thuật sáng tạo của một tiểu thuyết gia có thể được so sánh với công việc giải cứu được tiến hành trong bóng tối, chống lại những cơn gió ngược bất chợt làm lay động hành động của một đám đông lớn. Đó là công việc giải cứu, việc vớt lấy những giai đoạn hỗn độn trong khoảnh khắc biến mất của nó, được ngụy trang bằng ngôn từ hoa mỹ, từ sự tối tăm bản nguyên vào một ánh sáng, nơi những hình hài đang vật lộn có thể được nhìn thấy, nắm bắt, được ban cho hình thức bền vững duy nhất trong thế giới của những giá trị tương đối này – sự bền vững của ký ức. Và đám đông cũng mơ hồ cảm nhận được điều đó; bởi vì yêu cầu của cá nhân đối với nghệ sĩ, trên thực tế, là tiếng kêu, "Hãy đưa tôi ra khỏi chính mình!" có nghĩa thực sự là, đưa tôi ra khỏi sự phù du trong những hành động của mình vào ánh sáng của ý thức bất diệt. Nhưng mọi thứ đều tương đối, và ánh sáng của ý thức chỉ bền vững, chỉ là thứ bền vững nhất trong những thứ trên mặt đất này, nó chỉ bất diệt khi so với những công việc chóng tàn của đôi tay siêng năng của chúng ta.

Khi cây cầu dẫn nước cuối cùng cũng vỡ thành muôn mảnh vụn, chiếc khí cầu cuối cùng đã rơi xuống đất, ngọn cỏ cuối cùng cũng đã chết trên một trái đất lâm chung, con người, với ý chí bất khuất được rèn giũa qua sự chống chọi biết bao khổ sở và đớn đau, sẽ giương thứ ánh sáng không suy suyển từ đôi mắt mình đối chọi với thứ hào quang yếu ớt của mặt trời. Năng lực nghệ thuật, thứ mà mỗi chúng ta đều sở hữu một lượng bằng hạt bụi, có thể tìm thấy tiếng nói của nó trong một cá nhân nào đó của nhóm người cuối cùng ấy, họ sẽ được ban tặng khả năng biểu đạt và sự dũng cảm đầy đủ để diễn giải trải nghiệm tối hậu của nhân loại bằng khẩu khí riêng mình, bằng ngôn ngữ của nghệ thuật. Tôi không có ý nói rằng người ấy sẽ cố gắng đánh lừa khoảnh khắc tàn mạt của nhân loại bằng một câu chuyện tinh xảo. Điều đó thì quá lớn lao để mà mong đợi – từ phía nhân loại. Tôi nghi ngờ sự anh hùng của những thính giả. Còn về sự anh hùng của người nghệ sĩ, thì không cần phải nghi ngờ gì nữa. Sẽ không có sự anh hùng nào từ phía anh ta. Người nghệ sĩ, trong thiên chức thông dịch viên của mình, sáng tạo (hình thức minh chứng rõ ràng nhất) bởi vì anh ta phải làm vậy. Anh ta đồng hoá mình với việc cất tiếng nói đến mức, đối với anh ta, sự im lặng không khác gì cái chết; và tiền đề đặt ra là, có một nhóm người còn sống, tụ tập trước ngưỡng cửa của anh ta để chứng kiến ánh sáng cuối cùng nhấp nháy trên bầu trời đen, để lắng nghe lời nói cuối cùng được thốt lên trong xưởng thủ công đã tắt lịm của trái đất. Có thể khẳng định chắc chắn rằng, nếu có bất kỳ ai, thì đó sẽ là con người giàu tưởng tượng, kẻ sẽ cảm thấy thôi thúc phải lên tiếng vào đêm trước của ngày không có ngày mai – bằng một lời khuyên khắc khổ hay một câu bình phẩm chua chát, ai biết?

Về phần mình, từ sự quen biết ngắn ngủi và thoáng qua với loài người, tôi nghiêng về ý nghĩ rằng lời chót cuối của họ sẽ diễn tả ra, dù có vẻ lạ lùng đến đâu, một thứ hy vọng, mà hiện giờ đối với chúng ta là hoàn toàn không thể hình dung. Bởi nhân loại thật đáng yêu trong kiêu hãnh, sự tự tin của nó và sự dai dẳng bất khuất của nó. Nó sẽ ngủ trên chiến trường giữa những xác chết của chính mình, như đạo quân nọ đã giành được một chiến thắng hoang vu. Nó sẽ không biết mình bại trận khi nào. Và có lẽ phẩm chất ấy nơi nó là đúng đắn. Những chiến thắng ấy có lẽ không hoang vu như thoạt nhìn từ một góc nhìn thuần túy chiến lược, thực dụng. Ngài Henry James dường như giữ niềm tin đó. Có lẽ không ai miêu tả tốt hơn ông sự kiên cường của tính khí, hay biết cách khoác chiếc áo danh dự tinh thần lên hình dáng kiệt quệ của một người chiến thắng trong cuộc chiến hoang vu. Và danh dự ấy luôn được giành lấy xứng đáng; bởi những cuộc đấu tranh mà ngài Henry James ghi chép với cái nhìn tinh tế và trực diện như vậy, dẫu chỉ là những cuộc tranh chấp cá nhân, nhưng sự tuyệt vọng trong im lặng của chúng vẫn anh hùng (theo nghĩa hiện đại), dù thiếu những khẩu hiệu hô hoán, tiếng va chạm vũ khí và âm thanh kèn đồng. Đó là những cuộc phiêu lưu mà chỉ những linh hồn biết tinh chọn mới dấn thân. Và ngài Henry James ghi lại với sự trung thực không sợ hãi và kiên định những péripéties của cuộc tranh đấu và những cảm xúc của các chiến binh.

Những kích động mãnh liệt nhất của một cuốn tiểu thuyết cape et d’épée, thứ tiểu thuyết về cột buồm và móc câu tàu rất đỗi thân thương với tuổi trẻ – những kẻ hiểu biết về hành động (cũng như về những thứ khác) còn non nớt và hạn chế – sẽ được so sánh, cho sự thức tỉnh của những năm tháng trưởng thành hơn của chúng ta, với những nhiệm vụ được đặt ra, với những khó khăn được trình bày, cho ý thức về chân lý, về sự tất yếu – mà trên hết, về cách cư xử – của những người đàn ông và phụ nữ của ngài Henry James. Nhân loại của ông thật đáng yêu. Nó đáng yêu trong sự kiên cường của mình; nó từ chối thừa nhận bị đánh bại; nó sẽ ngủ lại trên chiến trường. Những hình ảnh thời chiến này tự khắc hiện lên dưới ngòi bút; bởi từ tính hai mặt của bản chất con người và sự cạnh tranh giữa các cá nhân, lịch sử sự sống trên trái đất rốt cuộc phải là một lịch sử của một cuộc chiến tranh thực sự rất tàn khốc. Đồng loại, các vị thần, hay những dục vọng của một con người, đều sẽ không để hắn yên ổn. Nhờ vào những đồng minh và kẻ thù này, hắn ta nắm giữ quyền lực bấp bênh của mình, hắn ta làm chủ cái ý nghĩa phù du của mình; và chính mối quan hệ này, duy nhất mối quan hệ này, trong mọi biểu hiện của nó, lớn và nhỏ, nông hoặc sâu là thứ được bình luận, diễn giải, chứng minh bởi nghệ thuật của tiểu thuyết gia bằng cách duy nhất khả dĩ để thực hiện nhiệm vụ này: thông qua sự sáng tạo độc lập về hoàn cảnh và tính cách, đạt được bằng cách vượt qua mọi khó khăn của diễn đạt, trong một nỗ lực hư cấu đã tìm thấy cảm hứng từ thực tại của những hình thức và cảm giác. Rằng một sự hy sinh phải được thực hiện, rằng một thứ gì đó phải được từ bỏ, là chân lý được khắc sâu trong những hóc kín nhất của ngôi đền xinh đẹp được xây dựng cho sự giáo hóa của chúng ta bởi các bậc thầy tiểu thuyết. Không có bí mật nào khác sau bức màn. Mọi cuộc phiêu lưu, mọi tình yêu, mọi thành công đều được tóm gọn trong năng lượng tối thượng của một hành động từ bỏ. Đó là giới hạn tận cùng của sức mạnh chúng ta; đó là lực lượng mạnh mẽ và hiệu quả nhất trong tầm tay chúng ta, nơi dựa vào những lao động của một người đàn ông cô độc trong thư phòng của mình, tảng đá trên đó những thể chế cộng đồng được xây dựng có thể soi cái bóng khiêm nhường của mình lên cả hai đại dương. Như một lực lượng tự nhiên vừa bị che khuất vừa được soi sáng bởi sự đa dạng của hiện tượng, sức mạnh của sự từ bỏ bị che khuất bởi một khối lượng những điểm yếu, sự do dự, những động cơ thứ yếu, những bước đi sai lầm và thỏa hiệp làm nên tổng thể hoạt động của chúng ta. Nhưng không người nào xứng với danh hiệu ấy có thể đòi hỏi nhiều hơn, lớn hơn nữa. Và những người đàn ông và phụ nữ của ngài Henry James xứng đáng với danh hiệu ấy, trong những giới hạn mà nghệ thuật của ông, xin nói rõ ràng và tự tin như thế, đã vẽ ra xung quanh các hoạt động của họ. Ông không khắc hoạ họ bằng tầm vóc của các Titan. Bản thân trái đất đã thu nhỏ lại trong dòng chảy của các thời đại. Nhưng trong mọi lĩnh vực của những bối rối và cảm xúc con người, có nhiều hơn một sự vĩ đại – đó là chưa tính đến ở đây sự vĩ đại của chính người nghệ sĩ. Bất cứ nơi nào anh ta đứng, tại điểm khởi hay kết tận của vạn vật, một người đàn ông phải hiến tế các vị thần của mình cho những dục vọng, hoặc hiến tế những dục vọng của mình cho các vị thần. Đó chính là vấn đề đủ lớn, nếu được tiếp cận bằng tinh thần chân thành và tri thức.

Trong một tiểu luận phê bình của mình, xuất bản cách đây chừng mười lăm năm, ngài Henry James đòi cho tiểu thuyết gia vị thế tương đương với nhà sử học, như là vị thế thỏa đáng duy nhất, cho chính ông và trước độc giả của mình. Tôi nghĩ rằng yêu sách đó không có gì phải tranh cãi nữa, và vị thế ấy là bất khả xâm phạm. Tiểu thuyết chính là lịch sử, lịch sử nhân loại, hoặc nó chẳng là gì cả. Nhưng nó cũng hơn thế nữa; nó đứng trên nền tảng vững chắc hơn, dựa trên thực tại của các hình thức và sự quan sát các hiện tượng xã hội, trong khi lịch sử dựa trên tài liệu, cũng như việc đọc các bản in và chữ viết tay – trên những ấn tượng gián tiếp. Vì thế, tiểu thuyết gần với sự thật hơn. Nhưng hãy tạm gác lại điều đó. Một nhà sử học cũng có thể là một nghệ sĩ, và một nhà tiểu thuyết là một nhà sử học, người bảo tồn, người giữ gìn, người giải thích kinh nghiệm con người. Thế là xứng hợp, đối với một người có dòng dõi và truyền thống như ngài Henry James, ông chính là nhà sử học của những lương tâm tinh tế.

Tất nhiên, đây là một nhận định chung chung; nhưng tôi không nghĩ sự thật của nó sẽ bị, hoặc có thể bị, chất vấn. Điểm thiếu sót ở đây là nó bỏ qua quá nhiều thứ; và, hơn nữa, ngài Henry James quá đỗi quan trọng để có thể bị đóng khung trong một cụm từ. Sự thật vẫn còn đó, rằng ông đã và đang thực hiện sự lựa chọn của mình, và sự lựa chọn ấy đã và đang được biện minh mọi khía cạnh bởi thành công của nghệ thuật nơi ông. Ông đã chọn mình phần vĩ đại hơn. Phạm vi của một lương tâm tinh tế bao trùm nhiều thiện và ác hơn phạm vi của một lương tâm mà có thể gọi, một cách đại khái, là không tinh tế, tức một lương tâm ít bị quấy rầy bởi sự phân biệt tế nhị giữa các sắc thái của hành vi. Một lương tâm tinh tế quan tâm nhiều hơn đến những điều cốt yếu; những chiến thắng của nó hoàn hảo hơn, dù ít lợi lộc hơn, theo nghĩa trần tục. Nói tóm lại, trong hoạt động của nó có nhiều chân lý hơn để một nhà sử học phát hiện và trình bày. Nó có sự phức tạp và sức gợi mở vô hạn. Tất cả những điều ấy thâu gọn trong nghệ thuật của Henry James. Ông làm chủ vùng đất, lãnh địa của mình, không phải là hoang dã, nhưng đầy những thoáng nhìn lãng mạn, những bóng sâu và những khoảng nắng. Không còn bí mật nào trong vùng đất của ông. Ông đã phơi bày chúng như cách chúng nên được phơi bày, tức là, một cách tuyệt đẹp. Và, thật vậy, sự xấu xí chỉ có một vị trí nhỏ nhoi trong thế giới sáng tạo này của ông. Tuy vậy, nó luôn được cảm nhận với sự chân thực trong nghệ thuật của ông; nó ở đó, nó bao quanh khung cảnh, nó áp sát vào đó. Nó được làm cho lồ lộ, hữu hình, trong những cuộc đấu tranh, trong những tiếp xúc của những lương tâm tinh tế, trong những bối rối của họ, trong những nguỵ biện và sai lầm họ phạm phải. Bởi vì một lương tâm tinh tế, tự bản chất, là một lương tâm đức hạnh. Điều tự nhiên ở nó chính là sự tinh tế ấy, một ý thức bền bỉ về cái đúng, cái đúng vô hình nhưng luôn hiện diện. Nó hiển hiện rõ nhất trong chiến thắng tối hậu của họ, trong sự trỗi dậy của họ từ điều kỳ diệu, thông qua một hành động từ bỏ đầy nghị lực. Lưu ý, đầy nghị lực chứ không phải mãnh liệt: sự khác biệt ở đây là đáng kể, khổng lồ, như giữa bản chất và cái bóng.

Xuyên suốt tất cả, ngài Henry James luôn nắm giữ vững chắc bản chất, những gì đáng có, những gì đáng giữ. Đã từng có những ý kiến trái lại, nếu không bằng khẳng định tuyệt đối, thì ít nhất cũng được ngụ ý, với tần suất khá thường xuyên. Đối với hầu hết chúng ta, những kẻ sống một cách tự nguyện trong một thứ ánh trăng trí tuệ nào đó, dưới thứ ánh sáng lờ mờ phản chiếu của sự thật, thì những cái bóng đã bị những người đàn ông và phụ nữ của ngài Henry James từ bỏ một cách kiên quyết lại nổi bật lên vì được ban cho một giá trị phi thường, một giá trị phi thường đến mức sự khước từ của họ xúc phạm, bởi sự cẩn trọng không cần thiết của nó, những bản năng thực dụng mà một Đấng Quan Phòng cẩn thận đã gieo vào lồng ngực chúng ta. Và, bên cạnh nguyên nhân chính đáng gây bất mãn đó, rõ ràng một giải pháp có tính chất từ bỏ như các nhân vật của ông thường chọn thiếu hụt nhất định tính chung cuộc, khi đem nó đi so với những phương pháp giải quyết thông thường bằng phần thưởng và trừng phạt, bằng tình yêu rực rỡ, bằng vận may, bằng một cái chân gãy hay một cái chết đột ngột thì khiến người ta sửng sốt, khó chịu. Tại sao công chúng độc giả, vốn với tư cách một tập thể, một tập thể chưa bao giờ đặt ra cho người kể chuyện mệnh lệnh phải trở thành một nghệ sỹ, lại đòi hỏi anh ta phải giả mạo làm Thượng Đế, là điều hoàn toàn không thể hiểu nổi. Nhưng sự thật là vậy; và những giải pháp kia là hợp lý bởi chúng thỏa mãn khát khao về một kết cục, thứ mà trái tim chúng ta còn thèm khát hơn cả đồ ăn thức uống trên cõi đời này. Có lẽ ước muốn chân thực duy nhất của nhân loại, trong những giờ phút họ không phải lo nghĩ về cơm áo gạo tiền, là được thư thả thể chất và thoả mãn tinh thần. Thế mà, người ta lại không bao giờ được an ổn bởi những tiểu thuyết của ngài Henry James. Sách của ông kết thúc như một giai đoạn trong đời kết thúc. Bạn ở lại với cảm giác cuộc đời vẫn đang tiếp diễn; và ngay cả sự hiện diện tinh tế của người đã khuất cũng được cảm nhận trong sự im lặng đó, thứ bao trùm lên tác phẩm-nghệ thuật khi ta đọc đến chữ cuối cùng. Nó khiến ta thoả mãn sâu sắc, nhưng nó không đặt dấu chấm hết cho gì cả. Ngài Henry James, nghệ sĩ lớn và nhà sử học trung thực, không bao giờ cố gắng làm điều không thể.

Bùi Gia Bin dịch

 

Poe đọc Hawthorne

Graham Greene: G. K. Chesterton

Henry James: Nathaniel Hawthorne

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công