Javier Marías viết các cuộc đời (tiếp)
Robert Louis Stevenson giữa những kẻ phạm tội
Có lẽ vì ông mất khi còn rất trẻ hoặc vì ông mang bệnh suốt đời; có lẽ vì những chuyến đi xa xứ nhuốm màu phiêu lưu nhờ đó vào thời ấy ông gần như được xem là anh hùng, hoặc có lẽ vì chúng ta đều bắt đầu đọc ông từ thuở ấu thơ; nhưng dù bất kỳ lý do nào đi nữa, hình ảnh Robert Louis Stevenson luôn luôn mang một nét hào hiệp và thuần khiết gần như thiên thần, mà nếu lý tưởng hóa quá mức dễ trở nên sự ngọt ngào gây ngán.
Stevenson chắc chắn là một người hào hiệp, nhưng không quá mức, hay đúng hơn, vừa đủ hào hiệp, bởi lẽ quý ông đích thực nào trong đời cũng ít nhất một lần từng cư xử như một tay vô lại. Một lần ấy của Stevenson có lẽ xảy ra gần Monterey, California, khi ông vô tình gây cháy rừng. Lúc đó, một đám cháy đã bùng lên ở nơi khác và lan rất nhanh, khiến Stevenson - vì sự tò mò khoa học - tự hỏi liệu nguyên nhân có phải do lớp rêu phủ dày đặc ở các khu rừng California hay không. Để kiểm chứng, ông nảy ra một ý xuất sắc là thử châm lửa một mảng rêu nhưng lại không buồn tách mảng rêu ấy khỏi thân cây từ trước. Cái cây bốc cháy như một ngọn đuốc và Stevenson hẳn cảm thấy đó là cái kết hoàn toàn thỏa đáng cho thí nghiệm của mình. Hành động vô lại của ông xảy đến sau đó khi ông nghe thấy tiếng hô hoán của những người đang dập đám cháy đầu tiên cách không xa và, lập tức nhận ra chỉ còn kế sách duy nhất là chuồn đi trước khi bị phát hiện. Có vẻ ông đã chạy nhanh chưa từng thấy trong đời, như thể chỉ những kẻ cực kỳ khôn ngoan hoặc cực kỳ nhát gan mới có thể chạy.
Ông đến California là để giúp đỡ người phụ nữ Mỹ sau này trở thành vợ mình, Fanny van de Grift Osbourne, mà ông từng gặp trước đó ở châu Âu; bà hơn ông mười tuổi, đã kết hôn với một người mang họ Osbourne - người chồng hờ hững, hoàn toàn chẳng quan tâm đến bà - và là mẹ của hai đứa con. Bà từng thúc giục ông sang thăm, dù ta không rõ bà đã dùng lời lẽ ra sao. Và Stevenson, không nói một lời nào với bố mẹ (vì ông là đứa con một được nuông chiều), rời Edinburgh đến New York, rồi băng ngang nước Mỹ trên những chuyến tàu tồi tàn dành cho dân nhập cư. Chuyến đi ấy khiến sức khỏe vốn yếu ớt của ông càng thêm sa sút. Ngay từ nhỏ, Stevenson đã phải chịu đựng những cơn ho dai dẳng và các đợt ho ra máu do lao phổi chẩn đoán không rõ ràng khiến ông mất ngủ triền miên và nhiều lần suýt chết. Mối quan hệ ban đầu giữa ông và Fanny van de Grift khá mờ nhạt, bởi sau chuyến hành trình vất vả ấy, ông không ở lại với bà mà một mình đến sống tại một trang trại nuôi dê; mãi sau này họ mới kết hôn, gần như khá hời hợt. Từ đó bà trở thành một người vợ lúc nào cũng hiện diện, thậm chí không thể thiếu, đồng thời cũng là y tá và người chăm sóc riêng của ông. Stevenson từng nói nếu biết sẽ phải sống như một người bệnh thì ông đã không lấy vợ.
Ông còn từng nói: “Một khi đã kết hôn thì anh chẳng còn gì, ngay cả quyền tự sát, ngoài việc phải sống tử tế.” Và trong một dịp khác ông nói thêm: “Điều tôi quan tâm không phải là hạnh phúc của mình khi kết hôn, đó là một cuộc hôn nhân trong cơn hấp hối; và nếu hôm nay tôi còn sống sót được như thế này thì đấy là nhờ sự chăm sóc của người phụ nữ đã lấy tôi vào cái lúc tôi chỉ còn là một mớ ho hen xương xẩu, xứng làm biểu tượng cho cái chết hơn chú rể.” Còn vợ ông, trái lại, dường chẳng mấy bận tâm đến mớ rắc rối đó; thực ra nó lại khiến bà cảm thấy mình có ích và trở nên tự hào, nhờ vậy mà thấy đời mình cũng có phần giá trị. Thật ra, ngoài Henry James - người luôn cư xử với bà rất tử tế - thì bạn bè của Stevenson đều ghét Fanny ra mặt. Lấy lý do lo cho sức khỏe của Louis, bà can thiệp vào mọi chuyện trong đời ông và tìm cách tách ông khỏi những người bạn mà theo bà - cùng với các cuộc rượu, thuốc lá, ca hát và chuyện trò - là mối hiểm họa to lớn.
Mặc dù Stevenson rất trung thành với vợ và kiên quyết bảo vệ bà khi bà bắt đầu các thử nghiệm văn chương của riêng mình rồi bị một người bạn của ông buộc tội đạo văn, việc chấp nhận những sự áp đặt đó hẳn không dễ dàng đối với ông, nhất là xét theo bức thư ông viết cho Henry James vào cuối đời, khi ông đã sống ở Nam Thái Bình Dương, trong đó ông than phiền rằng mình bị cấm rượu và thuốc lá (đối mặt với cuộc sống không có chúng, ông viết, thì “người ta chỉ còn biết tru tréo, đạp đổ và bỏ chạy”). Và dù vẫn một lòng trung thành, ông từng buột miệng bình luận bức ảnh chụp vợ, thừa nhận rằng Fanny đã chuyển từ diện “xinh xắn” sang diện “tái nhợt, soi mói và đáng để ý”. Thành thực mà nói, nhìn bức ảnh ấy và cả những bức ảnh khác chụp bà cách đây một thế kỷ, người ta khó mà không thừa nhận rằng Fanny van de Grift lúc nào cũng mặc những bộ đồ giống bao tải còn gương mặt thì mang vẻ cau có, hách dịch, thù địch, thậm chí chát chúa.
Nhưng có lẽ còn khó từ bỏ hơn cả rượu và thuốc lá là những người bạn, nếu ta nhớ rằng trước khi kết hôn, Stevenson từng sống một cuộc đời lưu đãng (Bohemian) công khai, thậm chí buông thả. Chưa nói đến những chuyến du hành, phần lớn theo kiểu phiêu bạt, và cả vẻ ngoài lôi thôi đến mức người qua đường ở Mỹ tưởng ông là ăn mày nên tránh xa, Stevenson còn có rất nhiều mối quan hệ bạn bè mà cha mẹ ông, vốn nghiêm khắc và giàu có, hẳn sẽ coi là tồi tệ. Chỉ cần nghĩ đến Long John Silver, Mr. Hyde, tay chủ điền Ballantrae hay bọn trộm xác chết, ta sẽ không lấy làm lạ khi người đã tạo ra họ lại mang hệ đạo đức đầy mâu thuẫn, nếu không phải trong hành động, thì ít nhất là trong vai trò người quan sát và người nghe. Ông luôn luôn bị cuốn hút bởi cái Ác và chưa bao giờ xa lánh ai chỉ vì những gì họ từng làm.
Khi còn nhỏ, bên cạnh việc mang trong mình những xúc cảm tôn giáo mãnh liệt - đến mức hằng đêm nằm một mình trên giường, ông thường thao thao bất tuyệt về Sự Sa Ngã của Loài Người và Cơn Thịnh Nộ của Quỷ Satan - ông còn say sưa thưc hiện những hành vi “tội lỗi” một cách ngây thơ, với sự nhiệt tình mà, theo lời ông thú nhận, chưa điều gì trong đời trưởng thành có thể sánh được. Khi sắp bước vào tuổi trưởng thành, ông bắt đầu lui tới chỗ gái điếm - những người ông hết mực quý mến và luôn luôn ra sức bênh vực - và tham gia trò mà ông gọi là Jink, tức là “thực hiện những hành động lố bịch nhất chỉ vì sự lố bịch của bản thân chúng và tiếng cười chúng mang lại”.
Nhưng tất tật chẳng là gì so với các tội lỗi của bạn ông: có thời gian ông thân thiết với một nhà châm biếm được cho là có cái lưỡi cay độc bậc nhất Edinburgh, người đã giúp Stevenson nhìn thấy mặt tiêu cực của mọi con người, mọi ý, mọi thứ; nhà châm biếm không biết mệt ấy, có vẻ như, thậm chí còn hạ cố buông lời với Chúa chỉ vì vài điều răn được diễn đạt một cách quá sức tồi tệ; ông ta có thể gạt phăng Thánh Phaolô bằng một câu châm ngôn, và chôn vùi Shakespeare chỉ bằng một cặp mệnh đề đối lập kiểu triết học. Tuy vậy, nghiêm trọng hơn nhiều là tội ác của một người bạn khác: Chantrelle, kẻ chỉ thấy vui khi say xỉn. Hắn ta là người Pháp, từng bỏ trốn khỏi đất nước vì một vụ giết người rồi lại chạy khỏi nước Anh vì lý do tương tự, và trong quãng thời gian sống ở Edinburgh, đã có ít nhất bốn hoặc năm người trở thành nạn nhân trong những “bữa tiệc tối nho nhỏ với món khoái khẩu của ông ta là phô mai nướng kèm thuốc phiện”. Tên sát nhân Chantrelle là một người có khuynh hướng văn chương, có thể ứng khẩu dịch Molière trơn tru. Theo lời Stevenson, hắn hoàn toàn có thể thành công rực rỡ trong nghề đó, hay bất kỳ nghề nào khác, dù lương thiện hay bất lương. Tuy vậy, xem ra hắn luôn luôn bỏ dở mọi dự định và quay lại với “kế hoạch đơn giản hơn” là giết người. Cuối cùng, hắn bị đưa ra xét xử và kết án, dường như chỉ đến lúc ấy Stevenson mới hay về những việc hắn đã làm. Người ta đành phải tin ông, và tin rằng nếu biết toàn bộ sự thật thì có lẽ ông đã không giao du với Chantrelle nhiều đến thế. Nhưng dù thế nào, kinh nghiệm ấy đã để lại nơi Stevenson một mức độ khoan dung nhất định kể cả với những tội ác ghê tởm nhất; bởi làm sao mà giải thích được lời ông viết trong một bức thư về tù trưởng Ko-o-amua, người mà ông rất quý mến suốt thời gian sống lưu vong ở Polynesia: “... một tay ăn thịt người khét tiếng một thời, giết xong là vừa đi vừa gặm xác kẻ thù trên đường về, thế mà lại là một quý ông hoàn hảo, cực kỳ tử tế và chất phác; mà không hề là thằng ngốc.”
Những năm cuối đời sống tại Nam Thái Bình Dương đã khiến Henry James - một trong những người bạn tốt nhất của ông, tức là người tỉnh táo nhất và ít tội lỗi nhất - không khỏi bực mình. James đã viết vô số bức thư năn nỉ ông trở về châu Âu để bầu bạn và thôi cái trò giả làm tên ngốc. Sau khi Stevenson nuốt lời hứa sẽ quay lại vào năm 1890, James trách ông có các hành vi mà trong lịch sử chỉ có thể sánh với “những ả lẳng lơ và kỹ nữ trứ danh nhất. Quả thật, anh chính là một Cleopatra phiên bản nam, một Pompadour hải tặc vùng Biển Sâu, một con người lả lơi phiêu bạt của Thái Bình Dương”. Sự thật rằng là việc cảm thấy khỏe hơn nhờ khí hậu, phải chịu đựng vợ, mẹ, các con riêng của vợ và cả đám tùy tùng luôn theo sát cũng như việc bị dân bản xứ đặt cho những cái tên ngớ ngẩn như Ona, Teriitera và Tusitala, thì chẳng có gì đáng kể khi nói về quãng thời gian ông sống trên đảo - giai đoạn yên ả nhất đời ông. Ông nhớ Edinburgh da diết vào những năm cuối đời khi biết mình sẽ không bao giờ có thể trở lại.
Stevenson là một nhân vật khó nắm bắt, như thể con người ông chưa bao giờ thực sự định hình trọn vẹn, hoặc cũng đầy mâu thuẫn như chính những nhân vật mà tôi đã nhắc đến ở trên. Ông rất rộng lượng, và đặc biệt là sau thành công của Đảo giấu vàng, ông thường tự chấp nhận thiếu thốn để gửi tiền cho những người bạn khó khăn hơn dù đôi khi, những người bạn đó hóa ra lại chẳng túng thiếu như họ nói nhưng cũng không buồn báo lại cho ông biết. Một trong những châm ngôn nổi tiếng nhất của ông là: “Trái tim cao cả đã bị lừa dối. ‘Được thôi,’ trái tim cao cả đáp lại.” Ông có lòng tự trọng rất lớn, nhưng đồng thời cũng có thể trở nên khoác lác và xấc xược. Có lần, ông viết cho Henry James về tài năng đang lên của Kipling: “Kipling là người trẻ tuổi triển vọng nhất từng xuất hiện kể từ... ờm... lúc tôi xuất hiện.” Và trong một bức thư khác gửi James quãng khởi đầu tình bạn, ông thẳng thừng yêu cầu James, người hơn ông bảy tuổi, phải bỏ hai tính từ “vĩ đại” và “ghê gớm” ở hai trang cụ thể trong lần tái bản tới của Roderick Hudson. Hai người vô cùng ngưỡng mộ nhau, James xem Stevenson là một trong số ít người mà ông có thể bàn luận nghiêm túc về lý thuyết văn học. Ngày nay, hầu như chẳng ai còn đọc các tiểu luận của Stevenson dù chúng nằm trong số những bài viết sinh động và sắc sảo nhất của thế kỷ trước. Khi còn sống ở Bournemouth, ông có một chiếc ghế bành mà không ai khác được ngồi, vì đó là “ghế của Henry James”, và James nhớ ông da diết khi ông đi khỏi mãi mãi. Năm 1888, James viết cho ông: “Anh đã trở thành một huyền thoại tuyệt mỹ - một kiểu người chết không chôn, phi phàm và phiền toái.”
Robert Louis Stevenson có cái chết tự nhiên, yên ổn và được chôn cất vào ngày 3 tháng Mười hai năm 1894, trên hòn đảo Samoa của ông. Khi chiều buông, ông ngừng làm việc và chơi bài với vợ. Sau đó, ông xuống hầm lấy một chai vang Burgundy cho bữa tối. Trở ra hiên để gặp lại Fanny, ông bỗng đưa hai tay lên đầu và kêu toáng: “Cái gì thế này?” Rồi ông hỏi dồn: “Trông anh có lạ không?” Ngay khi nói xong, ông khuỵu gối xuống bên Fanny, gục ngã vì xuất huyết não. Người ta đưa ông vào giường và ông không bao giờ tỉnh lại nữa. Khi ấy ông bốn mươi tư tuổi.
Khi viết về Stevenson, người ta nên kết lại bằng “Requiem” - bài thơ ông đã viết từ nhiều năm trước và hiện được khắc trên mộ phần của ông, nằm cao trên đỉnh núi Vaea ở Samoa, bốn nghìn mét so với mực nước biển:
Dưới bầu trời rộng đầy sao,
Hãy đào mộ cho tôi yên nghỉ;
Tôi sống vui và chết cũng vui,
Và tôi nằm xuống với trọn ý nguyện.
Xin khắc cho tôi mấy dòng thơ này;
“Đây là nơi anh hằng mong mỏi;
Người thủy thủ trở về từ biển cả,
Người thợ săn trở lại từ núi đồi.”
Ivan Turgenev bên trong nỗi buồn
Chủ nghĩa bi quan trong tiểu thuyết và truyện ngắn của Ivan Turgenev, điều mà một vài đồng nghiệp từng trách ông, có lẽ chỉ là cái giá tối thiểu và vô hại nhất trong tất tật những gì ông phải trả cho môi trường gia đình khủng khiếp, thậm chí độc địa, nơi ông lớn lên. Bà mẹ nổi tiếng và giàu có của ông, Varvara Petrovna, là hiện thân của sự tàn nhẫn, nhỏ nhen và man rợ, chỉ sau mỗi bà mẹ ruột của bà, tức bà ngoại Ivan, về người bà ấy ông đã kể câu chuyện sau đây. Về già, bà bị liệt và gần như suốt ngày ngồi bất động trong ghế bành. Một hôm, bà nổi giận với cậu người hầu trẻ đang chăm sóc mình và, trong cơn nóng giận, bà vớ lấy một khúc gỗ và nện thẳng vào đầu cậu ta đến mức cậu ngã gục xuống sàn bất tỉnh. Cảnh tượng ấy làm bà thấy quá phản cảm, đến nỗi bà kéo xác cậu lại gần, đặt đầu cậu - đang chảy máu đầm đìa - lên ghế bành, phủ một cái gối lên rồi ngồi đè lên đó khiến cậu ngạt thở mà chết; người ta đoán bà làm vậy là để khỏi bị quấy rầy bởi cái đầu và những vệt máu đáng ghét kia.
Không thể phủ nhận rằng, với một gia đình như thế, Turgenev đã thể hiện lòng can đảm và phẩm tính đáng kể khi viết tác phẩm tự sự đầu tay Hunter’s Album [đã có bản dịch tiếng Việt, Bút ký người đi săn]; thậm chí, theo truyền thuyết, chỉ ba ngày sau khi đọc nó Sa hoàng Alexander đã ra lệnh giải phóng nông nô. Người ta cũng kể rằng, ít nhất hai lần, Hoàng hậu đã chỉ thị cho ban kiểm duyệt không được can thiệp vào các cuốn sách của Turgenev mặc dù điều đó khó mà xác định là một vinh dự hay sự dè bỉu. Tuy vậy, bất chấp khởi đầu ấy cùng không ít tác phẩm viết về các vấn đề nước Nga, Turgenev trong suốt đời mình vẫn thường là đối tượng của sự ghét bỏ và khinh miệt từ chính đồng bào vì họ coi ông là một người Nga xa lạ, bị Tây hóa, vô thần, nhẹ dạ - một kẻ dành quá nhiều thời gian ở Pháp, Anh hoặc Đức, chủ yếu là để săn chim. Đúng là ông rất thích săn bắn, nhưng cũng đúng không kém rằng ông chưa bao giờ hoàn toàn quay lưng với quê hương, và lời bạn bè khuyên ông nên mua kính thiên văn để quan sát tình hình nước Nga thực chất là một lời châm biếm thiếu công bằng.
Sự thật là, ở khía cạnh này, Turgenev là một con người bị chia đôi, hoặc cũng có thể ông buộc phải tìm kiếm sự tha thứ cho sự chia rẽ ấy từ những người bạn thiết thân ở cả hai phía. Trong các bức thư gửi những người bạn Xlavơ, ông công kích thế giới phương Tây, đặc biệt bài xích những niềm tin và quy ước xã hội của người Pháp; nhưng trong thư gửi Flaubert, Maupassant, Mérimée hay Henry James, ông lại cay đắng than phiền về những điều mà người Nga xưa nay vẫn thường than phiền, tức là tất tật những gì thuộc về nước Nga. Ở Paris, ông gần như được xem là một nhà văn Pháp, tuy vẫn phảng phất một vẻ quý tộc khiến người ta nhận ra ông là người ngoại quốc; theo nghĩa đó, cũng chẳng khác mấy khi ông ở điền trang Spasskoye hay St. Petersburg nơi ông bị cả đám nông nô lẫn các văn sĩ khác coi là người xa lạ đến nỗi có lần, khi ông cùng Ralston - người dịch tiếng Anh của mình - trở về Spasskoye, đã xảy ra một sự nhầm lẫn hết sức kỳ quặc. Ralston có ngoại hình rất giống Turgenev - ông cũng là một người đàn ông to lớn, với mái tóc và bộ râu trắng xóa. Khi đám nông nô thấy chủ mình xuất hiện cùng một “bản sao ngoại quốc” cũng biết tiếng Nga, và - điều còn đáng ngại hơn - một mực đi thăm hết nhà này sang lều kia, đặt đủ câu hỏi chi tiết và ghi chép mọi thứ vào sổ tay, họ bắt đầu tin rằng chuyện này báo hiệu một âm mưu đen tối, hiểm độc, thậm chí mang yếu tố siêu nhiên. Cuối cùng, họ tự thuyết phục mình rằng vị khách bí hiểm ấy chính là điềm báo cho một hình phạt nào đó. Nhiều người thu dọn hết đồ đạc, chất lên những chiếc xe kéo ọp ẹp rồi xếp hàng dọc theo con đường, chờ lệnh đi khỏi vì họ đã đi đến kết luận rằng họ sắp bị trục xuất sang Anh cùng với bản sao quỷ ám của ông chủ, và rằng chỗ của họ sẽ bị thay thế bởi một tầng lớp dân cư ngoan ngoãn hơn, có thể được đưa từ nước Anh sang theo một hình thức trao đổi kỳ quái nào đó.
Dù Turgenev là một người chủ ôn hòa và nhân hậu, thì với truyền thống gia đình như vậy, việc các tá điền có thể tưởng tượng ra những hình phạt kỳ quái nhất không hẳn là quá khó hiểu. Bà mẹ, Varvara Petrovna, cũng không thua kém gì mẹ mình về độ tàn nhẫn: gọi nông nô của mình là “thuộc hạ” và đối xử với họ tệ hơn cả danh xưng đó. Chẳng hạn - và để không phải kể quá nhiều hành vi tàn độc - bà cấm các gia nhân sinh con vì việc ấy sẽ khiến họ sao nhãng bổn phận, và những đứa trẻ hiếm hoi lỡ sinh ra đời thì lập tức bị bỏ rơi, những đứa trẻ sơ sinh thường bị dìm xuống ao. Varvara Petrovna cũng chẳng đối xử tốt hơn là bao với chính con mình (Nikolai và Ivan), bà vẫn đánh họ cho tới tận lúc gần trưởng thành và cả với các cháu nội cũng vậy, nhất là khi Turgenev thường xuyên đi vắng, bà tha hồ hành hạ đứa con gái ngoài giá thú mà ông có với một cô thợ may làm thuê trong nhà; đặc biệt thích thú việc thỉnh thoảng cho cô bé ăn mặc như tiểu thư để khoe với khách; sau khi hỏi cô bé giống ai và người ta đồng thanh bảo rằng giống con trai bà, Ivan Sergeyevich, bà lập tức cởi sạch quần áo lộng lẫy của cô bé và tống cô bé trở lại gian bếp nơi cô vẫn thường sống. Thế nhưng Ivan vẫn là đứa con bà cưng nhất, điều này thể hiện rõ khi, sau một trận cãi vã lớn khác với ông, Varvara Petrovna đã giẫm nát bức chân dung vẽ đứa con hư hỏng thời trẻ, nhưng suốt một năm trời vẫn không cho cô hầu nhặt nó lên khỏi đống kính vỡ.
Có thể thấy rằng các mối quan hệ của Turgenev với phụ nữ dường như chưa bao giờ dễ dàng, nhưng quá đơn giản nếu cho rằng vì căm ghét mẹ mình mà ông buộc phải lặp lại cùng một kiểu áp chế và bạo lực. Tình yêu lớn nhất đời ông là nữ ca sĩ Pauline Viardot, còn được biết đến với cái tên “La García” - gần như chắc chắn là tên thật của bà, xét đến việc bà là một người Di-gan gốc Tây Ban Nha (hoặc cố mô phỏng như vậy). Bà đã kết hôn với Mr. Viardot hơn bà hai mươi tuổi và chưa từng bỏ chồng, kể cả trong suốt thập kỷ đầu lạnh nhạt với Turgenev lẫn về sau khi bà chấp nhận ông. Hơn thế nữa, chính Turgenev mới là người phải thích nghi với hoàn cảnh, dường như ông đã có những quãng thời gian dài sống chung với hai vợ chồng nhà Viardot, giữ mối quan hệ “huynh đệ” với ông Viardot, và một kiểu “vợ chồng” chừng mực nào đó với “La García”. Bà là một phụ nữ xấu nhưng mang sức hút kỳ lạ, bản tính mạnh mẽ và sở hữu tài năng đáng kể; vẫn còn một bức chân dung bằng ngôn từ do nhà thơ Heine vẽ nên, trong đó sự ngưỡng mộ cuồng nhiệt của ông gần như gây rợn, nhất là khi ta nhớ rằng, khác với Heine hay họa sĩ Delacroix, Turgenev không dừng lại ở việc chỉ ngưỡng mộ bà từ trên sân khấu: “Có những khoảnh khắc trong lúc nàng biểu diễn đầy cuồng nhiệt,” Heine viết đầy phấn khích, “nhất là khi nàng há to cái miệng rộng lớn của mình, để lộ hàm răng trắng lóa và nở nụ cười mang một vẻ ngọt ngào tàn nhẫn cùng vẻ dữ dội khoái trá, đến mức người ta có cảm giác như toàn bộ giống cây và loài thú quái dị của Ấn Độ và châu Phi sắp ùa ra ngay trước mắt.”
Cuối cùng, La Viardot, cũng chính là La García, đã phản bội Turgenev với một họa sĩ, và mối quan hệ giữa họ bị cắt đứt, song chắc chắn không phải vĩnh viễn: vào cuối đời nhà văn vẫn viết lời cho những vở operetta do bà sáng tác và biểu diễn; không chỉ thế, ông còn tham gia đóng vai trong đó, lê bước trên sân khấu, giữa các vũ nữ phương Đông, cải trang thành một vị quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ. Nữ hoàng Victoria, người từng dự khán một buổi biểu diễn gia đình kiểu này rất lấy làm thích thú, tuy vậy cũng bày tỏ nghi ngờ về việc liệu cách hành xử như vậy có “đứng đắn” hay không ở một con người vĩ đại như thế.
Những nghi ngờ ấy cũng được Tolstoy chia sẻ, sau khi chứng kiến Turgenev nhảy điệu cancan cùng một cô bé mười hai tuổi trong một bữa tiệc sinh nhật đặc biệt náo nhiệt. Bá tước Tolstoy đã ghi lại một cách nghiêm khắc trong nhật ký đêm hôm đó: “Turgenev... điệu cancan. Buồn.” Dĩ nhiên giữa hai người vừa có những khác biệt rõ rệt, vừa có một mức độ thân tình nhất định. Mâu thuẫn giữa họ lên đến đỉnh điểm khi Tolstoy thách Turgenev đấu súng sau một cuộc tranh cãi nảy lửa về việc nước Nga có nên phương Tây hóa hay không; và để cuộc đấu không kết thúc chỉ bằng vài vết xước và vài ly sâm banh, ông còn đòi dùng súng săn. Turgenev đã xin lỗi, nhưng sau đó nghe tin Tolstoy đi khắp nơi gọi mình là kẻ hèn nhát, thì đến lượt ông gửi lời thách đấu, dù có hoãn lại vì sắp phải ra nước ngoài. Khi đó Tolstoy lại là người phải xin lỗi, và thế là mười bảy năm trôi qua, cuối cùng họ không hoãn nữa mà hủy hẳn trận đấu, cũng nhờ thế mà hòa giải. Cả Tolstoy lẫn Dostoyevsky đều tìm đến Turgenev khi mất trắng vì cờ bạc trong những chuyến đi Tây Âu (Dostoevsky thậm chí còn mất cả chiếc đồng hồ đeo tay). Turgenev đã cho họ vay tiền, nhưng điều đó không ngăn được Dostoyevsky liên tục công kích ông, chưa kể phải mất chín năm mới chịu trả nợ. Dostoyevsky bị động kinh nên Turgenev tha thứ cho ông và đối xử với ông như một người bệnh, tức là nửa thương hại nửa bao dung.
Rõ ràng Turgenev cảm thấy thoải mái hơn nhiều khi ở cạnh các đồng nghiệp người Pháp, những người hết mực kính trọng ông. Khi ông đến thăm Mérimée hay Flaubert, họ thường thức trắng đêm để trò chuyện. Một số người Anh thì ít mặn mà hơn: Carlyle phá lên cười khi Turgenev kể một giai thoại mà ông cho là vô cùng buồn, và Thackeray một người thô lỗ cũng cười ồ khi nghe Turgenev ngâm bằng tiếng Nga một bài thơ của Pushkin mà ông hết mực tôn thờ. Khi Maupassant đến thăm ông hai tuần trước khi mất, Turgenev bảo lần sau nhớ mang theo một khẩu súng lục: ông bị ung thư cột sống và đang chịu những cơn đau khủng khiếp. Những ngày cuối đời ông mê sảng, gọi Pauline Viardot là “Lady Macbeth” và trách bà đã từ chối không cho ông biết đến hạnh phúc của hôn nhân. Quả thật, ông luôn luôn gọi mối quan hệ giữa họ là “cuộc hôn nhân không chính thức”. Ông rơi vào hôn mê và chỉ tỉnh lại một lần duy nhất để nói với Pauline: “Lại gần đây... gần nữa. Đã đến lúc phải chào từ biệt... như các Sa hoàng Nga... Đây là nữ hoàng của các nữ hoàng. Em đã mang lại điều tốt lành biết bao!” Thật khó mà biết được những lời sau cùng ấy có nhuốm màu mỉa mai hay không. Ivan Turgenev qua đời ngày 3 tháng Chín năm 1883, thọ sáu mươi tư tuổi, tại Bougival, gần Paris. Thi hài ông được đưa về St. Petersburg và chôn cất theo đúng di nguyện, bên cạnh người bạn cũ Belinski, người đã mất từ nhiều năm trước.
Turgenev cả tin đến mức đã sống cả đời trong trạng thái bị người khác lợi dụng, nhất là bởi chính đồng bào mình, những người mà ông luôn sẵn sàng cứu giúp, hỗ trợ về vật chất và tinh thần mỗi khi họ gặp khó khăn, kể cả khi họ là những người hoàn toàn xa lạ. Dù vô thần và có phần nhẹ dạ, ông lại trân trọng sự nghiêm túc trong văn chương và nhiều phẩm hạnh khác với mức độ nghiêm khắc vượt xa phần lớn đồng nghiệp cùng thời. Trong một bài viết ít người biết tới, “The Execution of Tropmann”, kể lại một vụ xử chém mà ông chứng kiến ở Paris năm 1870, ông thuật lại rằng khi giây phút hành quyết kẻ sát nhân Tropmann cận kề, “một cảm giác về một tội lỗi nào đó do chính tôi gây ra, một nỗi xấu hổ bí mật nào đó, cứ lớn dần lên trong tôi”, và ông viết thêm rằng, vào khoảnh khắc ấy, những con ngựa kéo chiếc xe bịt bùng chờ chở xác chết chính là những sinh vật vô tội duy nhất có mặt ở đó. Câu chuyện này là một trong những lập luận mạnh mẽ nhất từng được viết ra để phản đối án tử hình. Hoặc cũng có thể, là một trong những câu chuyện buồn nhất. Quả thật, Pauline Viardot, hay “La García”, người mà ta có thể cho là hiểu ông rất rõ, từng nói về Ivan Turgenev: “Ông ấy là người đàn ông buồn bã nhất.”
Thomas Mann giữa những đau khổ
Theo Thomas Mann, bất kỳ tiểu thuyết nào thiếu vắng sự mỉa mai thì, xét về bản chất, đều ngu xuẩn, và dĩ nhiên, ông tin rằng các tác phẩm của mình thấm đẫm điều đó, một niềm tin khá kỳ lạ đối với bất kỳ ai từng đọc những thiên sử thi lừng danh của ông. Nhận định này có phần dễ hiểu hơn nếu ta nhớ rằng Mann phân biệt rất rõ giữa hài hước và mỉa mai, cho rằng Dickens thì thừa mứa cái trước mà thiếu hụt cái sau. Có lẽ vì thế mà tiểu thuyết của Mann chỉ khiến độc giả đôi lúc khẽ bật cười (ta có thể hình dung ông cười khẩy khi viết), trong khi Dickens lại khiến người ta phá lên cười gần như ở mọi trang.
Điều chắc chắn là Thomas Mann chưa từng gây cười (dù là gượng gạo) trong đời sống cá nhân của mình, ít nhất nếu xét trên thư từ và nhật ký, những thứ nghiêm túc ghê gớm. Những trang nhật ký này, dĩ nhiên, chỉ được công bố vào năm 1975, hai mươi năm sau khi ông qua đời, và một khi đã đọc nó, ta chỉ có thể nghĩ ra ba lý do khả dĩ cho sự trì hoãn ấy: một là để thiên hạ phải chờ đợi mà tôn ông lên mây; hai là để người ta chưa kịp biết rằng ông không tài nào rời mắt khỏi các chàng trai trẻ; và ba là để không ai phát hiện ra những trục trặc ông gặp phải với cái dạ dày, cũng như mức độ sống còn của những trục trặc ấy (ý tôi là cái dạ dày) đối với ông.
Bất kỳ nhà văn nào để lại những phong bì niêm phong và căn dặn không được mở cho đến lâu sau khi ông ta qua đời rõ ràng đều tin chắc vào tầm quan trọng lớn lao của mình, một niềm tin thường được xác nhận khi, sau bao nhiêu chờ đợi kiên nhẫn, những chiếc phong bì tội nghiệp và gây thất vọng ấy rốt cuộc cũng được mở ra. Trong trường hợp của Mann và những cuốn nhật ký của ông, điều khiến người ta ấn tượng nhất là việc ông rõ ràng cảm thấy mọi điều xảy ra với mình đều xứng đáng được ghi chép lại, từ việc ông thức dậy vào buổi sáng, đến tình hình thời tiết, việc ông đang đọc gì và, trên hết, ông đang viết gì. Tuy nhiên, rất hiếm khi ông đưa ra được một nhận xét khôn ngoan về những điều ấy, vì vậy nhật ký của ông giống như ghi chép của một người đang cố giúp hậu thế tái dựng từng ngày vĩ đại không gì sánh được hơn là nhằm kể lại các sự kiện thầm kín hay giãi bày ý riêng tư. Chúng tạo cảm giác rằng Mann luôn luôn hình dung về một thế hệ hậu học chăm chỉ, những người sẽ trầm trồ bởi mỗi dòng ghi chép: “Trời đất, thì ra đó là cái ngày Vị Đại Văn Hào viết Holy Sinner [Der Erwählte] rồi đêm hôm sau lại đọc vài bài thơ của Heine, quả là một hé lộ lớn!” Khó mà hình dung được hiệu quả kinh ngạc mà những đoạn ghi chép lê thê về tình trạng dạ dày của ông có thể mang lại: “Không ổn. Đau bụng do đại tràng”, ông ghi lại vào một ngày năm 1918. “Đau bụng nhẹ”, ông cảm thấy cần phải ghi lại vào năm 1919, và cũng trong năm đó, ông viết: “Sau bữa sáng, đã đi tiêu.” Năm 1921, tình hình chẳng khá hơn nhưng vẫn được cho là xứng đáng để ghi: “Buổi tối, hồi hộp và co thắt dạ dày”, hoặc: “Khó ở, rối loạn tiêu hóa.” Đến năm 1933, Mann vẫn chưa thôi bị ám ảnh và theo ông thì hoàn toàn hợp lý: “Ăn sáng trên giường. Có xu hướng tiêu chảy.” Vậy nên chẳng có gì ngạc nhiên khi một năm sau ông than thở: “Đau dạ dày”, hay đến năm 1937, ông vẫn còn đủ tỉnh táo để thừa nhận: “Dạ dày tôi không sạch”, rồi thêm: “Tôi nuốt đồ ăn rất khó, phải lọc qua rây.” Tới năm 1939, tình thế đảo chiều và ông thấy hợp lẽ khi ghi: “Bị táo bón.” Ít ra thì năm trước đó, 1938, chúng ta bắt gặp một dòng ghi chú khác, tuy không kém phần khó ở: “Tôi không đeo răng giả đã khá lâu. Đau.”
Tuy vậy, ta không nên nghĩ rằng nhật ký của ông chỉ rặt những chứng khó ở tầm thường: bên cạnh việc kể xem hôm ấy ông có uống một ly punch không, tấm thảm đã được mang từ tiệm giặt về chưa, hoặc ông đi gặp chuyên viên chăm sóc móng chân sau khi vừa làm móng tay, còn có cả những ghi chép đầy ẩn ý về đời sống tình dục đầy giằng xé của Mann. Ví dụ như: “Dịu dàng.” Hoặc: “Một đêm ái ân. Nhưng dẫu sao cũng không nên mơ tới bình yên.” Còn đây, một câu rắc rối hơn nhiều: “Hôm qua, ngay trước khi đi ngủ, tôi gặp phải cơn tấn công tình dục, kéo theo những hậu quả nghiêm trọng cho hệ thần kinh: quá kích thích, lo lắng, mất ngủ triền miên, dạ dày suy nhược biểu hiện qua chứng trào axit và buồn nôn.” Lại nữa: “Quá độ tình dục, nhưng mặc dù sự hưng phấn thần kinh khiến tôi mất ngủ khá lâu, thì rốt cuộc, về mặt trí tuệ, điều đó lại tỏ ra có lợi hơn là có hại.” Từ “trí tuệ” ấy có lẽ giúp ta phần nào giải mã một ghi chú khác, vốn thẳng thắn nhưng thực sự khó hiểu: “Xáo trộn tình dục và xáo trộn trong công việc của tôi khi đối mặt với việc không thể từ chối viết điếu văn cho Eduard Keyserling.” Cuối cùng, dạ dày và tình dục hội ngộ trong một ghi chú đầy lạc quan, hay đúng hơn là ngây thơ cả tin: “Tôi buộc phải ngừng uống loại bia mạnh người ta làm dạo này, không chỉ vì nó gây hại cho dạ dày, mà còn vì nó có tác dụng như một chất kích dục, khiến tôi bị kích thích và trằn trọc suốt đêm.”
Như bạn thấy, Mann hiếm khi nói rõ ràng, người ta vẫn mặc nhiên cho rằng những cơn “tấn công”, “quá độ” hay “xáo trộn” kia hẳn phải liên quan đến vợ ông, Katia, người đã sinh cho ông sáu mặt con. Thế nhưng, những người phụ nữ khác dường hoàn toàn vô hình trong mắt ông, không giống như các cậu con trai. Khi ông đến nghe Rabindranath Tagore đọc thơ, ấn tượng ban đầu của ông là Tagore “trông như một quý bà Anh già dặn và thanh nhã”; mặt khác, ông cũng không bỏ lỡ chi tiết rằng con trai của Tagore “da ngăm, cơ bắp, thuộc kiểu đàn ông rất nam tính”. Cũng trong sự kiện đó, ông viết rằng mình “bị mê hoặc bởi hai chàng trai trẻ, lạ mặt, đẹp trai, có thể là người Do Thái”.
Vài ngày sau, sự hiện diện của “một chàng trai trẻ khỏe khoắn với mái tóc vàng óng” đã “gây cho tôi một cơn mê đắm dịu dàng”; và chỉ vài tuần sau đó, một người làm vườn trẻ, “mặt non, tay nâu, phanh ngực áo sơ mi” đã khiến ông “xao xuyến”. Ông đặc biệt biết ơn nền điện ảnh Đức thập niên 1930, không như điện ảnh Mỹ hay Pháp, đem lại cho ông “niềm khoái cảm được chiêm ngưỡng những cơ thể thể trai trẻ, nhất là những cơ thể nam giới trong trạng thái khỏa thân”. Mặc dù nhìn chung ông khinh thường loại hình nghệ thuật này, vốn thiếu vắng ngôn từ và chỉ đại diện cho tầng lớp bình dân, ông vẫn thừa nhận “tác động gợi cảm mà nó gây ra cho tâm hồn”.
Người ta dễ kinh sợ khi biết Thomas Mann, trái ngược hẳn với sự hài hước và châm biếm mà một số độc giả hay người quen từng gán cho ông, thực ra luôn luôn sống trong trạng thái sầu muộn, uể oải, những cơn rối loạn thần kinh, cảm giác hoảng loạn, cùng đủ thứ dằn vặt tâm lý khác, nổi bật nhất trong số đó là sự cáu kỉnh. Ngoại trừ Proust (và theo một cách hoàn toàn khác), hiếm ai từng khám phá mối quan hệ giữa bệnh tật và bản tính nghệ sĩ một cách triệt để đến thế; và theo nghĩa đó, có thể nói ông vẫn thuộc típ khá cổ điển, bởi mối liên hệ này thực ra đã được thiết lập từ ít nhất một thế kỷ trước khi ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay Buddenbrooks vào năm 1901. Điều kỳ lạ là những chứng bệnh và nỗi bất an ấy dường rất ổn định: chúng không hề rời ông bất kể ông sống ở đâu - suốt những năm tháng buộc phải sống lưu vong sau khi đi khỏi Đức trước Thế chiến thứ hai và cả sau khi nhận giải Nobel năm 1929 - như thể chúng là tất yếu. Điều khiến ông trở nên cao quý, rốt cuộc, là lập trường chống phát xít không lay chuyển, từ đầu đến cuối, dù bản thân tư tưởng chính trị (hoặc phi chính trị) của ông lại không mấy rõ ràng và có lẽ cũng chẳng đặc biệt đáng để tán thưởng: ông dường từng nghiêng về, để chống lại cả chủ nghĩa phát xít lẫn chủ nghĩa tự do, một hệ hình gọi là “chế độ độc tài khai sáng”; đó là cách diễn đạt mà tính từ mơ hồ và giàu hàm ý chẳng thể át được sức nặng của cụm danh từ.
Điều đáng buồn ở Thomas Mann là ông thực sự tin rằng mình không coi trọng bản thân, trong khi thứ hiển lộ trước mắt người đọc - từ tiểu thuyết, tiểu luận, thư từ đến nhật ký - lại chính là lòng tin tuyệt đối của ông vào sự bất tử của chính mình. Có lần, để giảm nhẹ giá trị của Death in Venice - tác phẩm mà một độc giả người Mỹ đang hết lời ca ngợi - thì điều duy nhất ông nói để kéo người hâm mộ ấy xuống mặt đất là: “Dù sao thì, tương đối mà nói, tôi vẫn còn là người mới bắt đầu. Một người mới bắt đầu có thiên tài, nhưng vẫn là mới bắt đầu.” Một khi không còn là người mới bắt đầu nữa, ông tin rằng mình hoàn toàn có thể tạo ra các thành tựu vĩ đại. Trong một bức thư gửi nhà phê bình Carl Maria Weber, ông tự tin nói về “câu chuyện vĩ đại mà tôi vẫn còn chưa viết”. Niềm ngưỡng mộ của ông dành cho Don Quixote thì ai cũng biết, vì trong chuyến đi bằng tàu hơi nước Volendam sang New York, ông đã tranh thủ đọc lại cuốn sách ấy để viết nên một tập sách mỏng mang tên Voyage with Don Quixote. Tuy nhiên, ông không chỉ thấy cái kết trầm và trang nghiêm nơi tiểu thuyết của Cervantes gây thất vọng, mà còn tự tin mình có thể cải thiện nó: “Phần kết của cuốn sách khá nhạt nhẽo, không đủ lôi cuốn; tôi sẽ làm tốt hơn với Jacob.” Ông đang nói, dĩ nhiên, về Jacob trong bộ bốn tiểu thuyết Joseph and His Brothers, mà ở Tây Ban Nha, chỉ có mỗi Juan Benet - một người vừa kiên nhẫn vừa u uất - đủ sức đọc trọn vẹn từ đầu đến cuối. Thật bất ngờ khi biết rằng Mann tin rằng những cuốn sách vĩ đại là kết quả của các ý khiêm nhường, rằng tham vọng không nên đi trước tác phẩm và cần gắn liền với công việc sáng tạo, chứ không phải với cái tôi của người sáng tạo. “Không có gì sai lạc hơn một thứ tham vọng trừu tượng, một tham vọng tự thân, tách khỏi tác phẩm, thứ tham vọng nhợt nhạt của cái tôi. Bất kỳ ai nuôi dưỡng những cảm xúc như thế đều hành xử như một con đại bàng bệnh hoạn”, ông từng viết. Xét đến chính những tham vọng của ông, cả những điều đã nói ra lẫn những điều chưa từng thổ lộ, ta chỉ có thể kết luận rằng căn bệnh mà đại bàng Mann mắc phải, rốt cuộc, không gì khác ngoài chứng mù. Khi trò chuyện với một người bạn học cũ về cái chết, ông nhận xét: “Như tôi đã bất tử hóa nó trong The Magic Mountain.” Phải là một người đầy tham vọng và cực kỳ coi trọng bản thân mới có thể trịnh trọng ghi vào nhật ký của mình, vào một ngày năm 1935: “Lá thư viết bằng tiếng Pháp từ một nhà văn trẻ ở Santiago de Chile, báo cho tôi biết về ảnh hưởng của tôi đối với nền văn học Chile mới.” Tôi không thể không gạch chân bốn từ: hai từ đầu là “báo cho tôi biết”, từ thứ ba là “ảnh hưởng”, và từ cuối cùng là “Chile”.”
Theo lời những người từng quen biết ông, Thomas Mann có dáng vẻ nghiêm nghị, nhất là khi nhìn từ phía sau. Nhìn từ đằng trước, cái mũi, cặp lông mày cùng đôi tai nhọn hoắt lại khiến ông trông khá tinh quái, có phần mâu thuẫn với vẻ nghiêm trang đó. Ông đầy nhiệt huyết trong các bài diễn thuyết trước công chúng, đến mức có lần nói quá thời lượng cho phép ở một buổi phát thanh và phải dừng lại giữa chừng để xin lỗi. Xuất thân thượng trung lưu của ông đôi khi bộc lộ rõ trong những trận cãi vã với người hầu: “Cơn giận dữ với cô hầu Josefa”, “Đầu bếp phản trắc, hầu gái điếc”, “Mấy cô hầu mới có vẻ không hoàn toàn vô dụng”, và “Bọn đầy tớ lại dọa bỏ việc. Đám hạ đẳng ấy khiến tôi buồn nôn và ghê tởm”, là một vài trong số những dòng ghi chép đầy giận dữ mà ông dành cho nhật ký mật của mình.
Hai chị em gái của ông đều tự sát, cũng như con trai Klaus của ông, một tiểu thuyết gia khiêm tốn và bị lãng quên so với cha mình. Quả thật ông phải chịu rất nhiều đau khổ. Tuy nhiên, khi chị gái Carla qua đời, nỗi đau mất mát lại xen lẫn với sự bất mãn vì bà đã chọn cách kết liễu đời mình ngay tại nhà mẹ đẻ thay vì ở một nơi thích hợp hơn. Ông cũng từng chịu cảnh lưu vong và bị đồng bào căm ghét dữ dội; ông trở thành công dân Tiệp Khắc rồi công dân Mỹ. Nhưng suốt đời, ông có được niềm an ủi không nhỏ: sự thành công tuyệt đối trong văn chương, thứ có lẽ cũng đủ để bù đắp phần nào cho mọi mất mát. Ông qua đời do chứng huyết khối vào ngày 12 tháng Tám năm 1955, tại Zürich, hưởng thọ tám mươi tuổi. Không có lời bình luận mỉa mai nào được ghi lại sau cái chết của ông. Gia đình đã chu đáo chôn theo ông một chiếc nhẫn mà ông luôn luôn lấy làm tự hào và không tháo khỏi tay. Viên đá trên nhẫn có màu xanh lục, nhưng không phải là ngọc lục bảo.
Thanh Nghi dịch