Emanuele Trevi: Nhà của pháp sư
Emanuele Trevi sinh năm 1964, một nhà văn rất Rome. Ban đầu (như cuốn sách Sogni e favole kể), Trevi - dưới tác động của môi trường sống quy củ - có ý định trở thành giáo sư đại học, nhưng thiên hướng văn chương, thứ không bao giờ để cho những ai mang nó được yên ổn, đã quyết định rằng nước Ý phải có thêm một nhà văn.
Và nhà văn ấy mang lại rất nhiều ý nghĩa. Emanuele Trevi hay kể về cuộc đời những người bạn của mình: Due Vite (Hai cuộc đời), cuốn sách rực rỡ, khiến không ít độc giả phát hiện Rocco Carbone và Pia Pera, cũng như một vạt chân thực của cuộc sống văn chương và nghệ thuật nước Ý vào quãng cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21. Trevi chỉ thực sự quan tâm đến những gì cụ thể, và không ít lần nhấn mạnh vào nỗi hoài nhớ thế kỷ 20 đã dần xa, theo lối không thể cứu vãn, như thể cứ thế loãng đi, cái thời một bài phê bình của Pietro Citati từng có ý nghĩa rất lớn.
Nhưng hiện diện của Trevi cho thấy một khác biệt: đó là một cái nhìn vào những người ở thế hệ ngay trước - họ liên tục bình luận Natalia Ginzburg, Elsa Morante hay Umberto Saba, còn Trevi bình luận họ. Không hẳn là bình luận, mà cái nhìn ấy tìm kiếm các chi tiết, những gì còn lại, quý giá, thường là những điều nhỏ nhặt, như một câu nói, một biểu hiện khuôn mặt, một cử chỉ; tất tật ở trong một bầu không khí dịu nhẹ đầy trìu mến, nhưng cũng có khi bùng lên thành các xung đột dữ dội.
Điều đáng kinh ngạc, như một nghịch lý, nằm ở chỗ tuy tỏ ra chỉ một mực chú tâm vào những điều cụ thể, tức là bỏ chạy khỏi những khái quát hóa hay trừu tượng, nhưng Emanuele Trevi lại liên tục chạm vào cái mystique. Rất có thể chính việc để ý tới các mảnh nhỏ của thực tại lại mới là con đường đưa đến sự khai trí hoặc khải ngộ. Có thể thấy điều này rất rõ trong cuốn sách Qualcosa di scritto, viết về Pier Paolo Pasolini và nhất là Laura Betti, người bạn đời và bạn đường của Pasolini. Những cuốn sách của Trevi cũng cho thấy các tài năng không nhỏ của một nhà phê bình.
La casa del mago (Nhà của pháp sư), cuốn sách mới nhất của Emanuele Trevi, là sự kết tinh những gì đặc biệt nhất ở nhà văn có cái nhìn dịu dàng ấy. Cuốn sách được dùng để kể về ông bố của Trevi, Mario Trevi, một nhà trị liệu tâm lý theo trường phái Jung, và được Ernst Bernhard trực tiếp hướng lối. Trevi cho thấy một việc bình thường như tiếp quản căn hộ của ông bố mới qua đời có thể dẫn người ta đến những vùng bí hiểm như thế nào của cuộc đời và của thực tại, thậm chí còn vượt ra khỏi đó. Một cuốn sách đẹp với đoạn mở đầu (vào truyện) mang tiêu đề: "Con biết ông ấy thế nào rồi đấy".
Đoạn mở đầu Nhà của pháp sư được đăng ở đây với sự cho phép của tác giả. Tạp chí Văn Bản và Vita Nova hết sức cảm ơn Emanuele Trevi vì đã hào phóng và hào hứng với việc Văn Bản dịch ra tiếng Việt một đoạn trong cuốn sách, và vì đã lưu giữ một kỷ niệm đẹp về những con rùa ở Văn Miếu, Hà Nội.
Mở đầu: "Con biết ông ấy thế nào rồi đấy"
- Emanuele Trevi
"Con biết ông ấy thế nào rồi đấy." Những lúc nào mẹ tôi nói chuyện với tôi về bố tôi, bà đều đi thẳng vào trọng tâm, luôn luôn là cùng một điều: để đương đầu được với bất kỳ vấn đề gì gây ra bởi con người kỳ bí đó, khối Rubik tươi cười và có hàng ria rậm đó, cần phải biết-ông-ấy-thế-nào. Trong khi tôi đòi có được những ánh sáng của bà, bà lại đẩy lùi tôi vào thứ bóng tối sẫm nhất của một tật ngôn ngữ lúc nào cũng thế, nó giống một câu thần chú hơn là một suy nghĩ duy lý: "Con biết ông ấy thế nào rồi đấy." Vả lại, hiển nhiên chính bà không biết cái đó, chẳng ai biết - ngay cả, có lẽ, Jesus Hài đồng, vốn dĩ biết quá rõ những bí mật của trái tim bị che giấu nhiều hơn cả, như các nữ tu vẫn đảm bảo với tôi ở lớp. Nhưng, tôi cứ nghĩ đi nghĩ lại, tại sao người nào cũng phải như thế nào đó, buộc những kẻ khác, để tốt cho họ, phải biết người đó? Chẳng phải chúng ta có thể, hết sức đơn giản, giống y nhau tất tật sao? Hồi ấy, tôi là một đứa bé hết sức bình thường, tuyệt đối thích ứng: một phiên bản thu nhỏ của con người trưởng thành mà tôi sẽ trở thành, không vương vấn gì các đỉnh cao cùng vực sâu. Tôi có xu hướng coi các châm ngôn của mẹ tôi là chuẩn xác, tuy vậy tôi vẫn tiếp tục ghét cách nói đó, gần như ít nhất ở mức ngang bằng với cái sự khủng khiếp lừng danh "Hãy tự biết chính mình". Tôi từng luôn luôn chẳng hề đoái hoài việc tự biết chính tôi và biết xem những người khác thì như thế nào. Về phần điểm thứ nhất, tôi có cảm tri rằng, nếu tiến lên như mình có thể trong cuộc đời, thì thông thường người ta làm vậy theo lối ngoài ý thức: chẳng biết gì hết, có thể nói thế. Càng ít tự biết về bản thân, người ta lại càng sống tốt hơn. Về phần người khác, trong mắt tôi điều quan trọng hơn cả không nằm ở chỗ họ như thế nào, mà họ có yêu quý tôi hay chăng. Tôi giống lũ chó, tôi đợi một vuốt ve, một cái bánh nhỏ. Chó thì không tự biết mình và không biết những kẻ khác ra sao. Đối với chúng, sự thật duy nhất trên đời nằm ở cái vuốt ve kia, ở cái bánh nhỏ kia.
Con. Biết. Ông ấy. Thế nào. Rồi đấy. Lời sấm đầy đe dọa bắt đầu vang lên trong các lời lẽ của mẹ tôi với tần suất của một cái còi báo động bấn loạn khi bố tôi tuyên bố theo cách thức hoàn toàn bất ngờ rằng ông sẽ dẫn tôi tới Biennale. Tôi lên chín hoặc mười tuổi. Việc bố tôi thích nghệ thuật đương đại là một trong những điều hiếm hoi về đó người ta có thể đoan chắc. Ở điểm này ông đúng là đứa con của thế kỷ ông, cái thế kỷ đầy huyễn ảnh và bạo lực. Các điểm, các đường, các mặt phẳng: ông hiểu biết những cái đó, ông có gu và có trực giác. Nếu có tiền, hẳn ông đã là một nhà sưu tầm lớn. Thêm nữa, không phải sở hữu, mà ngắm nhìn mới là điều khiến ông quan tâm. Tại Rome, ngay sau chiến tranh, ông đã có thói quen giao du với các họa sĩ được phú cho một cuộc sống nội tâm phức tạp cùng những tri giác tế nhị. Ông ngưỡng vọng họ ngang mức với mùi tinh chất nhựa thông lơ lửng ở xưởng vẽ của họ, những vệt nhiều màu trên áo bờ lu mặc khi làm việc của họ. Vào thời đó, ông nghèo đến mức tính trung bình ông chỉ có thể tự ban cho mình một bữa ăn mỗi ngày. Tôi đã giữ một số quyển album của giai đoạn ấy, trong đó ông dán tất tật các bản chép mà ông tìm được của Picasso, của Mondrian và các bậc thầy khác. Những viện bảo tàng cá nhân của giấy và hồ. Ông đặc biệt ưa Paul Klee. Một hôm, sau khi một bác sĩ tuôn ra về ông một chẩn đoán đáng khiếp hãi, ông bèn đi Bern vì ông muốn xem, trước khi chết, những bức tranh đáng quan tâm của Klee được lưu giữ tại thành phố cổ xưa đó. Thiên thần, vòng xoáy, kim tự tháp nhiều màu... Hành động xứng danh một kẻ loạn óc đúng nghĩa ấy té ra lại nhiều lợi ích hơn người ta có thể tưởng tượng. Ông sống thêm năm mươi năm nữa, đấy là ít nhất, hoặc vì chẩn đoán của bác sĩ đã sai, hoặc vì các tác phẩm của nghệ sĩ Thụy Sĩ đầy thông thái đó - quả thật, được nhiều người coi là một dạng shaman - đã gây lên ông một hiệu ứng chữa bệnh. Lý trí im bặt trong địa hạt đó, và nó làm thế là đúng, vì lý trí gắn chặt vào những sự vị chung, chứ không phải các cá nhân rơi vào sự điên của mình cùng nỗi kinh hoàng cái chết đầy vô vọng của họ. Nếu lý trí chăm lo cho các cá nhân, tới lượt mình nó cũng sẽ phát điên. Như thể hình học lập dựng những luật của nó dựa trên các ghi chép rối tung của đám mất trí thay vì dựa trên các tam giác và hình cầu. Nói ngắn gọn, bố tôi luôn luôn đến Venice xem Biennale. Việc kỳ này hay kỳ kia khiến ông thấy thích hay gây thất vọng cho ông, điều đó thì không sao biết được: tất tật các thói quen của ông đều bị phủ lên một tấm màn bí ẩn và, hết sức chắc chắn, chẳng ai đòi ông phải báo cáo về bất cứ điều gì.
"Con sẽ thấy, nó hơi giống một công viên giải trí." Cái ngày ông quyết định đưa tôi đi - khoảng năm 1972 - tôi thực sự sung sướng. Mẹ tôi, vốn dĩ không có đối thủ trong nghệ thuật nhìn thấy khía cạnh cong queo của mọi sự, tự lĩnh trách nhiệm hoàn chỉnh công thức bằng cách nêm vào đó liều lượng hoảng sợ phù hợp. "Nhớ kỹ nhé. Ngay khi tới khách sạn, con phải lấy một miếng xà phòng nhỏ cho vào túi, không bóc giấy gói. Điều này thì đừng có quên đấy. Tên và địa chỉ của khách sạn được viết trên đó, phòng trường hợp con bị lạc. Tên các khách sạn nằm trên tất tật những miếng xà phòng. Tại Venice thì dễ bị lạc lắm, Venise là một mê cung, con thấy mê cung trong trò xếp hình của con chưa? Venice còn tệ hơn thế cả nghìn lần, nhưng đối với con thì còn dễ gấp đôi, việc bị lạc, vì con lơ đãng và vì bố con sẽ chẳng hề bỏ công nhìn xem con có đang đi theo không. Con biết ông ấy thế nào rồi đấy. Hai bên xứng đôi vừa lứa quá. Một người lớn không bao giờ để ý tới người bên cạnh và một đứa bé lúc nào đầu óc cũng trên mây. Hẳn các vị có thể lạc mất nhau ngay trong hành lang ở nhà. Con phải túm lấy vạt áo veste của bố con, vào áo gió, vào bất kỳ cái gì. Đừng có quên: ông ấy chẳng bao giờ ngoái đầu lại, chính con là người phải dính chặt vào ông ấy." Với hỗn hợp không thể bắt chước của mê tín và lo âu ở bà, đặc biệt điển hình ở nhiều người miền Nam và Calabria, mẹ tôi là cả một hiện tượng trong nghệ thuật họa ra ở chân trời các kịch bản thảm họa. Những khi bà miêu tả cho ta nghe một loài nấm độc, ta có cảm tri mình đã nhầm lẫn mà nuốt nó; lúc bà bảo trời sắp mưa, quần áo của ta đã ướt sũng và nặng trịch trước cả khi ta đặt chân ra khỏi nhà. Ý nghĩ bố tôi và tôi đi Venice đối với bà gợi lên một dạng lâu đài các quân bài dựng trên gờ cửa sổ một hôm gió to. Không phải là bà không thích chuyến đi, ngược lại. Thứ nhất, bà thấy sung sướng vì bố tôi nghĩ đến điều này và bà tán thành sự hào hứng của tôi; nhưng, hệt như don Juan của Castaneda, bà đinh ninh rằng "một người đi đến với hiểu biết như lên đường đi đánh trận". Tôi không được xem nhẹ vấn đề tính cách của bố tôi. Nhất lại còn là tại mê cung Venice nữa: có vẻ như là còn tráo trở và lằng nhằng hơn trò xếp hình trong trắng của tôi. Lý do khiến những người Venice tự tạo cho mình, vào thời điểm xây dựng thành phố, mối phiền kinh khiếp: trao cho nó hình thức của một mê cung, vuột đi mất hoàn toàn khỏi tôi. Tuy vậy, vấn đề không nằm ở tự thân mê cung, mà là đi đến đó cùng bố tôi: một Dedalus chẳng mấy để ý gì tới Icarus. Bố tôi - bà giải thích thật lâu - không có khả năng ở giữa chúng tôi thực sự, hai chân cắm xuống Đất Mẹ cũ kỹ, chắc chắn và ngái ngủ của chúng tôi, cùng đồng loại của ông: bầu bạn duy nhất mà chúng ta có, xét cho cùng. Ông có thói quen đi mất ngay chính giữa mọi điều, không ai để ý ("Cái vỏ vẫn còn đó, nhưng ông ấy thì chẳng ai biết đã đâu mất rồi"): khó đoán được ông sẽ vắng mặt mất bao lâu. Với cái nhìn nhuốm lợi ích của một đứa bé, tôi có thể nói thêm rằng những cuộc trở lại của ông được đặc trưng hóa bằng một sự vui tươi cùng một sự hào phóng thực sự vô chừng mực. Gặp được ông vào các dịp ấy là việc mang lại nhiều lợi thế. Lúc đã trở thành người lớn, tôi đọc tiểu luận nổi tiếng của Montaigne về sự cô đơn, nó khuyên người ta tự tạo ra trong lòng mình một dạng arrière-boutique [phòng hậu cửa hiệu] để trú ẩn vào, kể cả những khi có mặt người khác, nhằm hồi phục sự tự trị riêng, sự làm chủ bản thân vấn dĩ luôn luôn bị kẻ khác đe dọa. Và tôi đã ngay lập tức nghĩ đến bố tôi. Về phần mình, dường như ông sống theo cách thức khá thường trực trong "arrière-boutique" của ông. Nói cách khác, dẫu đôi khi rất đáng yêu, ông có điều kiện tự nhiên, bản năng sơ khai của một người ẩn núp, của một kẻ đào thoát khỏi xã hội con người. "Con có thấy những vách đá nhẵn lì phía trên biển kia không? Bố con giống thế đấy, những lúc ông ấy không muốn nghe ta. Ông ấy không chìa ra chỗ bám nào." Những ẩn dụ khác trong tổng mục hào phóng của mẹ tôi: con bạch tuộc, trốn đi đằng sau màn mực đen kịt, thứ giúp nó tự vệ. Một cái điện thoại đổ chuông trong trống rỗng. Lúc nào cũng là cùng con Nhân sư. Kể từ hồi chúng tôi còn nhỏ xíu, em gái tôi và tôi đã quen đi theo ông, những khi cần, giống bọn vịt con của Konrad Lorenz đi theo thứ đầu tiên mà chúng nhìn thấy lúc chui từ trong quả trứng ra, dẫu đấy là con vịt chính danh hay một quả bóng cao su, chẳng hề tự hỏi quả bóng hay mẹ chúng có nghĩ gì đến chúng hay không. Dấu ấn của chúng tôi: Hãy Đi Theo Cái Người Không Ngoảnh Đầu Lại. Mẹ tôi, vốn dĩ còn có thói quen tệ hại và phi lý tuyên bố rằng mình không muốn nhắc đi nhắc lại điều gì, trên thực tế nhắc đi nhắc lại chúng và tạo ra các biến tấu từ chúng tới tận mức của cạn kiệt. Nhưng giáo dục được thực hiện như vậy: các từ đào như những giọt nước vào thứ đá bở của bất kỳ cái sọ nào. "Đừng quên miếng xà phòng. Vẫn còn giấy bọc, bằng không thì chẳng được tích sự gì đâu. Trên đó phải ghi tên khách sạn. Mẹ cũng đã nói điều này với bố con rồi, nhưng con biết ông ấy thế nào rồi đấy."
Nỗi e sợ luôn luôn là một thứ hữu ích cần bỏ vào va li - xét về nền tảng tôi nhất trí với mẹ tôi về điểm này. Một mức độ của nghi ngại, trong sự bố trí của thế giới và trong chính chúng ta, đối với các cơ chế tinh tế và không thể lường trước là thứ la bàn tốt nhất: ở trong mê cung của Venice cũng như của tất tật những thứ khác. Cả thế giới này là Venice. Chừng một đứa bé biết rằng bố của nó sẽ không bao giờ ngoảnh đầu lại xem nó có đang đi theo hay không... thì nó phải coi hoàn cảnh đó như một trò chơi, một thách thức. Bằng cách vờ như, chẳng hạn, bám đuôi theo dõi thân sinh mình, giống trong các bộ phim. Câu chuyện Orpheus và Eurydice, mới được học ở lớp, chỉ có thể củng cố thêm cho tôi. Nếu cái kẻ ngớ ngẩn ngập đầy đau thương kia mà bắt chước bố tôi, thì chẳng phải ông ta đã dẫn được vợ mình đến được ánh mặt trời, thay vì hư vô hóa tất tật những nỗ lực của mình do một cử động sốt ruột ít nhất thì cũng có tính cách loạn trí, đấy ư? Tuy nhiên, các luật của cuộc đời con người nói ngược lại và phá hủy mọi hình thức lý trí hóa. Một từ quá lên, một suy nghĩ quá lên là đã đủ để phá hoại đi định hướng khôn ngoan hơn cả, quyết định chín chắn hơn cả. Bằng cách thúc đẩy tôi thực thi ở mức tối đa năng lực chú ý của mình, mẹ tôi đã làm được việc là tiêm các mầm của một thảm họa được thông báo quá mức. Quả thật nó đã xảy ra. Sau khi xuống khỏi khoang tàu nằm của chúng tôi - phương tiện di chuyển mà bố tôi thích nhất, vượt xa mọi thứ khác - chúng tôi đến khách sạn, nơi tôi vội vã nhét một miếng xà phòng còn nguyên trong giấy bọc vào túi quần. Khi đã sẵn sàng, chúng tôi băng ngang quảng trường San Marco để đi ra chỗ vaporetto [tàu thủy ở Venice]. Bố tôi đang ở trong thế giới của chúng tôi và, nhớ ra tình yêu mà tôi vẫn có với các con thú (hồi ấy, tôi có ý định trở thành bác sĩ thú y), ông bảo để ông mua cho tôi một túi đựng hạt ngô để thu hút lũ bồ câu đậu xuống hai bàn tay và vai tôi. Ở ông có điều này thật huyền hoặc: ông luôn luôn nhớ được những điều ngõ hầu gây sung sướng cho một thằng bé, ông khuyến khích chúng. Ngày nay, trò giết thời gian trong trắng, cho bồ câu ăn, gần như bị coi là một tội ác chiến tranh, và các cái giá nơi những ông già bán túi đựng hạt ngô trên quảng trường San Marco đã biến mất từ bao giờ chẳng thể nhớ nổi. Tôi làm cho lũ biết bay đói khát kia sà xuống tay, vai và đầu tôi. Một cú đập cánh thuộc loại gây nhiều phấn khích nhất bọc lấy cả người tôi: một phiên bản tự tạo của clip nổi tiếng trong đó Madonna hát "Frozen". Khi tôi không còn hạt nữa, lũ thú hoàn toàn không có chút tình cảm nào đó - nếu không muốn nói là "lũ khốn" - bay đi khỏi ngay tức khắc. Vẫn còn chuếnh choáng vì kinh nghiệm đó, tôi ngẩng đầu lên và chính vào giây phút ấy tôi phạm sai lầm. Cuộc đời con người là như thế, dẫu chúng ta có thích điều này hay chăng: ta sung sướng cho bọn bồ câu ăn và, chỉ chốc lát sau - chỉ cần một phần nhỏ của một giây - xin chào mừng tới Cái Không Biết, Cái Khiếp Hãi. Tôi trông thấy cái áo trench-coat của bố tôi từ sau lưng, dây buộc thòng xuống bên cạnh: cái áo trench màu hạt dẻ sáng hết sức quen thuộc. Hai tay đút túi, ông đang rảo bước về phía các vòm tường của quảng trường San Marco, về phía quán Caffè Quadri. Quên biến lũ bồ câu, tôi vội lao theo ông và túm lấy cái dây lưng. Mẹ tôi nói đúng: bố tôi chẳng bao giờ ngoảnh đầu lại. Chúng tôi mau chóng bị nuốt chửng vào những vòm tường, có lẽ để đi vào calle dẫn thẳng đến Rialto, dẫu thế nào thì cũng là để tiến sâu vào các đoạn đầy bóng mát của Venice. Và đột nhiên... Những giây phút nơi chúng ta nhận thấy rằng mình vừa làm một trò xuẩn thật tợn được ghi khắc vào thời gian và ký ức của chúng ta bằng các cây kim mảnh của hoảng hốt và của xấu hổ. Tới tận hôm nay, khi nhớ lại câu chuyện, tôi vẫn rùng mình. Một ông kia, một ông rất thông thường và không phải bố tôi, mà là một ông người Venice đang tiến về đâu tôi cũng chẳng biết nhằm lo toan công chuyện, nhận ra rằng có một thằng bé đi theo mình, tay nắm chặt lấy đầu sợi dây lưng của ông ta và rốt cuộc ngoảnh đầu lại. Tôi đã bíu vào cái áo trench không đúng. Ông kia trọc đầu, mũi khoằm: tôi nhớ ông ta như thể hôm nay ông ta đang đứng ngay trước mặt tôi. Có lẽ tôi có đủ thời gian để nhận thấy ông ta rất giống Yul Brynner, diễn viên chuyên đóng phim western nổi tiếng thời ấy. Tôi nói điều này vì những ý nghĩ kỳ cục hoặc phù phiếm đôi khi nảy ra trong các hoàn cảnh gây nhiều sang chấn tâm lý hơn cả: những đường vân mảnh trên thứ đá đen của nỗi hoảng hốt. Điều mà tôi còn nhớ rõ, ấy là cái ông kia, ông bố không đúng trong một cái áo trench giống hệt áo của ông bố đúng, cúi xuống tôi, vẻ hoang mang, nói với tôi nít, như nhằm nhấn mạnh, nhớ sự biến đổi thuộc thổ ngữ cái khái niệm "trẻ con" đó, sự hạ cấp của tôi xuống hạng "trẻ lạc", nói cách khác là một thằng ngẫn. Đấy, mẹ tôi đã đẩy tôi vào một chuyện tệ hại gớm ghiếc. Tôi đã tỏ ra quá thiếu thận trọng do quá mức chú ý, rốt cuộc thì đi bíu lấy cái đuôi vải lòng thòng của kẻ lạ mặt kia. Trong nỗi e sợ phạm phải một nhầm lẫn, thậm chí tôi đã không nhận ra rằng cái ông đi ngang đó còn không có tóc. Yul Brynner, cần phải nhớ lại điều này, là một người tốt. Khóc lóc, tra hỏi, các sốt sắng kiểu Venice tiếp nối nhau, rồi miếng xà phòng nhỏ có sự xuất hiện đầy khải hoàn, chui ra từ túi quần tôi và hé lộ tên khách sạn của tôi, mà tôi đã không quên mặc cho nhiều năm đã trôi qua: khách sạn Boston. Tôi nghĩ là nó vẫn còn; cũng như mọi điều, ở Venice, tiếp tục tồn tại bất định, một phần bị nhấn chìm bởi cái phá ngưng trệ của thời gian. Người ta đưa tôi tới đó trên một xe cảnh sát hú còi, đúng vậy đấy. Giờ đây khi các khách sạn bày ra những cái bình rỏ xà phòng dạng nước trong phòng tắm, tôi tự hỏi làm thế nào mà bọn trẻ con đi lạc xoay xở được, khi mà chúng bị tước mất nguồn xà phòng bánh kia. Có lẽ chúng cứ lang thang vĩnh viễn, lũ Minotaur tí hon tại mê cung Venice, không có khả năng nói ra tên khách sạn của mình. Nhằm động viên tôi, trong lúc đợi người ta đưa tôi về, bà chủ một cửa hiệu mỹ nghệ Murano tặng cho tôi một con ngựa thủy tinh trong suốt nhỏ xíu, mà tôi đã khư khư giữ lấy trong vòng suốt nhiều năm. Đấy không phải là dạng kỷ niệm gợi lên các ý nghĩ vui tươi. Nói đúng hơn nó trình hiện một lời nhắc: lời nhắc về một nhầm lẫn không được lặp lại. Sự thể là tôi đã học nó rất tệ. Gì kia! Bố tôi, Người Không Thể Xâm Nhập, đã quyết định đưa tôi đến Biennale ở Venice - hơn nhiều so với một công viên giải trí - và tôi đã cư xử như thế nào? Bị mất phương hướng do những lời tiên tri của mẹ tôi, tôi đã bíu lấy cái áo ba đờ xuy không đúng và đã bắt một số lượng người lớn, tính cả lực lượng trật tự, phải chăm lo cho tôi. Một kịch bản có lẽ nhiều ích lợi cho vô số trẻ con (cũng như cho vô số người lớn), nhưng không phải là cho tôi, người đã chuẩn bị kỹ lưỡng một chiến lược hoàn toàn khác. Dẫu cho tôi đoán rằng tính cách của chúng tôi đối lập nhau chằn chặn, tôi đã muốn mình là cái bóng của bố tôi, hoặc ít nhất bóng của cái vỏ bọc của ông. Tôi khao khát một sự tầm thường nhiều sức trấn an và tin được, có khả năng sản sinh sự hài hòa khả dĩ duy nhất với cái con người khó lòng giải mã đến thế kia. Ông cứ đi đâu mặc sức, tôi sẽ cứ ở đó, một đứa con-người hầu, ít tri nhận được, nhưng có khả năng vì ông mà biến thành một con người không thể thiếu theo lối xảo trá. Và, nghĩ cho kỹ, tôi đã cứ như thế mãi cho tới tận đêm cuối cùng của ông. Chính bằng cách ấy mà con ngựa thủy tinh nhỏ Murano, món xu vơ nia từ cuộc phiêu lưu đó, biến thành một dạng giải trí, một cái đầu lâu nhỏ tí của Hamlet. Đừng để cho mình bị để ý, con thú Totem nhỏ nhắc tôi; vả lại, chẳng phải thủy tinh trong suốt, đúng vậy, là một phúng dụ ít nhất là hết sức hiển nhiên? Nếu muốn người đàn ông kia yêu mi (điều duy nhất mà mi quan tâm), thì mi đừng bao giờ tự đặt mình vào trung tâm sự chú ý của ông ấy, con ngựa nhỏ thì thầm. Tôi hoàn toàn không biết điều gì làm cho trung tâm kia trở nên nguy hiểm đến vậy, nhưng tôi chẳng hề gặp chút khó khăn nào để hiểu rằng chẳng ai có thể chiếm nó.
*
* *
Tôi tưởng tượng rằng sau khi gặp lại nhau ở khách sạn Boston, nhờ miếng xà phòng cứu rỗi, chúng tôi đã có toàn bộ thời gian để thăm thú Biennale, nhưng tôi không còn giữ được kỷ niệm nào về nó. Tương tự, ký ức tôi đã không giữ được dấu vết nào từ một kỳ Biennale khác, dịp cho chuyến đi Venice thứ hai của tôi cùng bố tôi, ở một giai đoạn gần đây hơn nhiều. Tôi đã là một người lớn và ngay tức thì nhận lời đề nghị, hoàn toàn bất ngờ, đi cùng ông đến Biennale năm ấy. Về phần mình, ông không còn là ông bố ở tuổi trưởng thành mặc cái áo trench màu hạt dẻ sáng định mệnh nữa, mà đã là một ông già, bị suy yếu do một tai nạn nghiêm trọng thiếu điều đã gửi ông sang thế giới bên kia. Ông băng qua phố, bị nhốt kín trong arrière-boutique của mình, và một cái xe máy, viên đại sứ sấm sét của thực tại, đã đâm ngã ông. Khi ở trong loại trạng thái đó, ông không tôn trọng đèn báo. Ông không tôn trọng gì. "Chắc phải nhốt ông ấy vào một quả bóng cao su trong suốt", mẹ tôi lên cơn huyễn. Tôi thích hình dung ông như thế, bên trong cái vỏ bọc nhân tạo kia - nếu mà có thể thì trổ các lỗ thông hơi - nó quay ở quanh ông. Tôi không đủ sức hoàn thành một chức năng thật hữu ích, tuy vậy việc tôi tham gia chuyến thăm Biennale khoác lên mình một biểu nghĩa hiển ngôn của sự lĩnh trách nhiệm, bởi vì kể từ khi gặp tai nạn bố tôi bước đi rất chậm chạp, đau đớn ở phần hông, và Venice là chốn trên đời ít thuận tiện cho loại vấn đề đó nhất. Điều này thì ai cũng biết, Venice là một mê cung được tạo nên từ các giật cấp, những cây cầu nhỏ, lối bắc ngang. Con ngựa thủy tinh nhỏ xíu của tôi đã rơi vào vùng rìa kia, nơi có hàng nghìn đồ vật mà hẳn chẳng ai ném đi theo lối có ý thức, nhưng chúng chỉ chăm chăm biến mất vào một khoảnh khắc nào đó để nhường chỗ cho các đồ vật khác, đợi kết cục của thời gian. Mặc cho mọi sự, kỷ niệm tôi có về nó tiếp tục được tôi dùng làm mẫu hình tâm trí, có thể nói thế, trong mối quan hệ của tôi với bố tôi. Về phần mẹ tôi, cũng đã già đi, tôi không dám đảm bảo chắc chắn về điều này, nhưng tôi thấy dường như còn hơn là có khả năng, việc bà gọi điện thoại cho tôi để nói: "Con biết ông ấy thế nào rồi đấy." Bà nhắc đi nhắc lại điều này cho tới cùng, ngay cả khi lúc đó việc không người nào trên đời từng đoán được ông là như thế nào hẳn đã rất hiển nhiên. Sau tuổi ba mươi, tôi đã trau chuốt kỹ thuật của mình: tôi không bao giờ khiến bố tôi để ý tới tôi. Tôi chỉ nói cho ông những tin tức nhiều sức trấn an. Tuy ít gặp nhau nhưng chúng tôi hay nói chuyện qua điện thoại và tôi sẵn lòng làm cho ông mọi việc gì mà ông cần. Ngay cả khi dường như đối với ông chẳng gì thực sự cần thiết. Điều kỳ quặc đối với một ông bố và một đứa con trai thời hiện đại nằm ở chỗ tôi đã dấn sâu vào cuộc sống người trưởng thành, sau khi đủ tuổi thành niên, mà chúng tôi chưa từng biết đến cái kinh nghiệm gây ngây ngất của một sự bất đồng nhỏ, do thiếu mất một cãi cọ. Một hôm, cái hồi tôi hẵng còn học trung học, mẹ tôi tìm được túi cỏ quen thuộc mà các bà mẹ vẫn tìm thấy dưới đệm lũ con của họ. Bà đã gọi bố tôi đến, hạ lệnh cho ông chờ tôi trong phòng ngủ của tôi lúc tôi về nhà để huấn cho tôi một bài. Tôi chắc chắn rằng mẹ tôi, vốn dĩ là bác sĩ và coi cỏ là thứ khá vô hại, đã chọn cái lối giáo dục ấy cho ông thì nhiều hơn là cho tôi: nói ngắn gọn, bà muốn ông đi một vòng trong cái thế giới đó, nhận lấy cái vai quái gở của người thân sinh lo lắng và mô phạm. Thế nhưng ấy là một thất bại: không thể nào bắt được bố tôi làm những gì mà ông đã không chọn làm. Khi tôi về, rất muộn, không lâu trước rạng đông, tôi phát hiện ra ông nằm ngủ trên giường của tôi trong tư thế bào thai, bên dưới tấm chăn mà ông kéo lên trùm kín đầu. Ông đã không thể kiên nhẫn thức đợi, cầm sẵn danh sách đúng lý ghi những vấn đề mà thuốc phiện gây ra. Trông thấy ông nằm đó ngáy, tôi ngây ra tới nỗi như thể va phải một người Sao Hỏa có làn da màu lục phủ đầy vảy và có đống ăng ten gập lại trên gối. Ông tỉnh dậy hết sức kỹ lưỡng, ban đầu không nhớ ra các lý do cho hiện diện của ông trên giường tôi. Chừng ông đề cập câu chuyện cỏ ("Nhưng cái đó khiến con cảm thấy gì? - Tuyệt vời, bố"), ngay lập tức tôi đo được sự bạo dâm của mẹ tôi, và vụ việc dừng lại ở đó. Lẽ dĩ nhiên, tôi trách bà: tại sao bà lại phải quấy quả ông vì cái chuyện ngớ ngẩn ấy? "Ừ thì, đấy là bố của con." Và, một lần thì chưa thành lệ - sung sướng thay! - chính tôi là người trang trọng ném trả vào bà cái câu: "Mẹ biết ông ấy thế nào rồi đấy."
Vậy là, sự tiện lợi của tàu giường nằm, trong vòng một phần tư thế kỷ phân tách hai chuyến đi Biennale, đã giảm sút nhiều, và vào thời ấy người ta đã có thể hết sức thuận tiện đến được Venice trong ngày; tuy nhiên, vì một lý do huyền bí, bố tôi vẫn thích ngủ trên các chuyến tàu. Chúng tôi đặt một ca bin cho hai người và, không lâu sau khi tàu khởi hành, chúng tôi đi ăn tối tại toa ăn. Chắc hẳn người ta đã đoán ra, bố tôi không thuộc loại người dễ tính nơi bàn ăn, như người ta hay nói. Kể từ khi thế giới là thế giới, con người vừa cùng nhau ăn vừa trò chuyện. Đó là điều các anh hùng của Homer làm và đó là điều mà bất cứ con quỷ khốn khổ nào làm. Cả người Nhật nữa, với những từ đơn âm tiết của mình, cũng trao đổi các lời lẽ: ngày vừa rồi ra sao, hoàng đế có khỏe không, v.v... Trong các bộ phim và trong cuộc sống, việc giữ im lặng ở bàn ăn, nghe tiếng ồn của dao dĩa, bát đĩa, là dấu hiệu cho thấy có điều gì đó không ổn. Nhưng, ít nhất, khá dễ để đánh giá một người im lặng. Khoa học phức tạp của bố tôi áp đặt những liều lượng co giãn rất khác nhau. Nói cách khác, ông có thể rất mau chóng đổi từ một sự vui tươi và lắm lời quá đà sang một trạng thái lạc lõng hoàn toàn trong chính ông, kháng cự lại mọi toan tính trò chuyện. Điều đáng kinh ngạc hơn cả của câu chuyện nằm ở sự chóng vánh của chuyển tiếp, của cú bước lùi. Cụ thể là, ông biến mất. Hẳn tôi sẽ không nói được hôm ấy ông đã lên tàu trong trạng thái đó hay sự thay đổi đã diễn ra trong lúc ông ăn farfalle trộn xốt cà chua tại toa ăn. Ở những gì liên quan đến tôi, tôi là người dễ tính và dễ đoán hơn rất nhiều. Ít nhiều tôi làm đủ những gì mà các quy ước áp đặt và, nếu thấy buồn chán, thì tôi phó mặc vào sự nhanh của thời gian trôi. Từ ưa thích của tinh thần nhiều tính cách Darwin nơi tôi là: thích ứng. Bố tôi không có khả năng giả vờ, hoặc ông chẳng thèm giả vờ - sắc thái quá mức tinh tế. Những khi nào ông tự nhốt mình vào trong những quãng im lặng được nhấn nhá bởi các tiếng thở dài, mấu chốt là phải tránh nghĩ rằng ông đang trách gì ta, rằng ta đã để vuột ra một từ không đúng chỗ, và cứ thế. Ông đã chỉ vừa đậu xuống một chốn xa xôi từ đó ông không thể nào đáp lại theo cách thức hữu lý câu hỏi đơn giản nhất, nhưng rốt cuộc thì ông luôn luôn, như tôi đã nêu nhận xét, quay trở về mặt đất. Tôi đã, về phần mình, thừa hưởng tính cách của mẹ tôi: trong mắt tôi, chỉ những người khác tồn tại, các tình cảm mà họ cảm thấy về tôi, các tình cảm mà tôi cảm thấy về họ, tôi không bao giờ một mình, kể cả những lúc ngủ, tất tật họ chui vào trong đầu tôi, và cả trong các giấc mơ của mình tôi vẫn tiếp tục e sợ họ không còn yêu tôi nữa. Nói ngắn gọn, mẹ tôi và tôi đã sinh ra mà không có arrière-boutique: đàn người thuần túy. Khác biệt, ấy là mẹ tôi không chịu được bố tôi những lúc ông đi vắng mất. Bà sống qua hoàn cảnh đó như một tội hình. Còn tôi, ngược lại, tôi rất thích phép mầu di động kia, cái đích kia, mà đường đạn bắn của thế giới kiểu gì cũng trượt. Chính ông mới là người có lý, tôi nghĩ, dẫu không bao giờ hiểu nổi các nền móng cho suy nghĩ của tôi.
Chín mươi chín phần trăm cơ may là ông sẽ tỉnh dậy trong trạng thái tinh thần tốt đẹp hơn vào sáng hôm sau, khi chúng tôi đến Venice, hoàn toàn quên mất là ông đã bắt tôi phải chịu bữa tối trên tàu hỏa kia, nó làm tôi nhớ tới Weekend at Bernie's [bộ phim của Ted Kotcheff; trong tiếng Ý nó mang tên "Week-end với một người chết"]. Trong lúc đó, tôi sẵn lòng nhẫn nhục trước việc ông nhìn tôi như thể đang cố hiểu xem cái kẻ lạ mặt đang ăn tối cùng ông kia là ai và, sau bữa, chúng tôi về lại ca bin. Chính tại đó thảm kịch đã bắt đầu, bởi nếu tôi cứ thế mà trật tự đi ngủ, thì đã chẳng có chuyện gì. Nhưng cũng xảy đến với các cá nhân nhiều sức thích ứng hơn cả, nhiều tính cách Darwin hơn cả, chuyện tự trao cho mình một quãng nghỉ. Và rồi tôi muốn hút thuốc và, thời ấy, người ta vẫn được quyền hút thuốc ở mọi nơi, hay gần như thế, trên những chuyến tàu; do đó, ngay khi tôi thấy bố tôi nằm ra ở chỗ của ông, có khả năng đã thiếp đi, tôi bèn lén chuồn mất, quay lại toa ăn, cầm theo một quyển sách và một bao thuốc lá. Tôi gọi một cốc rượu: tôi muốn trở về chỗ nằm đủ say để thoát được khỏi sự mất ngủ điển hình của các toa giường nằm. Tôi kết thân với hai người phục vụ và nấn ná càng lâu càng tốt. Chính vào lúc im lìm chui lại vào trong khoang tôi đã phạm phải sai lầm định mệnh. Bên trên nắm đấm cửa có một ổ khóa nhỏ mà tôi đã để mở khi đi khỏi. Thế nhưng, lúc về, tôi quên bấm vào nó. Tại các đoàn tàu giường nằm ngày xưa - bây giờ như thế nào thì tôi không biết - một sự quên như vậy có thể kéo theo một hoàn cảnh rất nguy hiểm. Nghĩ đến nó tôi vẫn thấy bị hành hạ, trong khi miêu tả xen ấy, bởi, như tôi đã nói, tôi đã đi không chỉ nhằm nếm hưởng cùng bố tôi những khuynh hướng mới nhất của nghệ thuật đương đại, mà cả để bảo vệ ông nữa. Thay vì vậy, tôi đã đẩy ông vào điều tệ hại. Ngay cả lũ ngựa thủy tinh trong suốt nhỏ bé rốt cuộc cũng khiến cho mình bị để ý theo cách thức đầy thảm họa.
Ở cuối các chuyến đi ban đêm ấy, hiển nhiên người ta thức dậy và chuẩn bị cho sự đến trước một chút. Không có gì phải nghi ngờ, tới đoạn Padua, cả toa của chúng tôi đã náo động lên, những cánh cửa để mở, những bữa sáng của hạng nhất đã được phục vụ. Chắc chắn nhân viên nhà tàu đập cửa khoang chúng tôi, nhưng không nhận được lời đáp trả nào. Mãi đến Santa Lucia, sau khi tàu đã mau chóng trút đi hành khách của nó, thì người ta mới bắt chợt chúng tôi hẵng còn ngủ, và việc đánh thức chúng tôi hết sức phức tạp. Tôi nhớ là mình đã cảm thấy một hỗn hợp của buồn nôn và lạc hướng hoàn toàn khá giống với tiếp sau một cuộc nhậu thật dữ - mà nửa chai rượu đã ực chẳng thể nào biện minh. Trái ngược với những dự tính của tôi, bố tôi không vui tươi, mà hoàn toàn đờ đẫn. Ông sếp tàu ngay tức khắc hiểu chuyện gì đã xảy ra và gọi liền một nhân viên cảnh sát đường sắt. Trong khi hồi phục một mức độ ý thức tạm đủ, chúng tôi hiểu tại sao vị đại diện cho các lực lượng trật tự lại có mặt ở đó. Chúng tôi tuyệt đối không còn gì, ngoài quần áo mà chúng tôi mặc trên người. Đã biến mất, mấy cái va li của chúng tôi; đã biến mất, mấy cái ví tiền của chúng tôi, và cả đôi giày của bố tôi nữa. Tôi may mắn hơn một chút bởi, do luôn luôn thấy gớm thứ khăn trải giường bằng giấy và mùi cái giường nằm, tôi đã nằm mà vẫn mặc nguyên quần áo và đi giày. Viên cảnh sát xem xét dưới sàn bằng con mắt chuyên gia trong vòng vài giây và nhặt lên một cái lọ nhôm ở đầu có vòi xịt, trông giống một spray bọt cạo râu nhỏ hoặc thuốc chống muỗi. Người ta đưa chúng tôi đến đồn cảnh sát đường sắt để ghi lời khai. Viên cẩm, một người dễ mến và uể oải, cho chúng tôi biết rằng các băng Di gan rất mưu mẹo lên được những chuyến tàu đêm trong các quãng dừng dài; những lúc nào tìm được cửa một ca bin không khóa, bọn họ sẽ vào trong và gây mê các hành khách đang ngủ bằng chloroform nhằm có thể được yên ổn mà thó đồ của họ, một cách thật cặn kẽ và đầy khoa học. Những câu chuyện mà người ta đọc được ở truyện tranh Diabolik, nhưng chúng, trên thực tế, xảy ra hằng ngày, ông bình luận. Ông cẩm càng giải thích cho chúng tôi hiểu về chuyện đã xảy ra, cảm giác tội lỗi của tôi dường càng được vật chất hóa trong văn phòng của ông với cùng mức hiển nhiên và không thể giải trừ như ánh sáng một buổi sáng hè. Chính tôi đã quên bấm nút khóa cửa sau cuộc lẻn đi đến toa ăn rất vớ vẩn. Tôi đã để cho kẻ thù xâm nhập, và đây là tình cảnh chúng tôi ở vào, thậm chí còn chẳng có tiền mua một tách cà phê, bố tôi thì đi bít tất màu hạt dẻ trong đôi xăng đen làm vườn, lục được trong một cái tủ tại đồn cảnh sát. Diabolik cái con khỉ! Diabolik khinh bỉ bọn ngốc. Trong một chốc lát thoáng qua, đầy hèn nhát tôi hy vọng mình là người duy nhất biết được thực tại của các sự vị, nhưng đâu phải thế. Bố tôi đã hiểu mọi chuyện, và sự minh mẫn chuyên nghiệp của viên cẩm, một dạng bản năng về sự thật, sớm đóng dấu niêm lên nỗi xấu hổ của tôi. Chẳng có gì nhiều để nói về một sự ngớ ngẩn: ta đã làm nó và ta những muốn vắng khỏi nó. Cái người trưởng thành mà tôi đã trở nên không khác gì đứa trẻ, nó, vào dịp một Biennale trước đó, đã bám chặt vào dây lưng của cái áo trench không đúng. Vậy thì có điều gì không ổn ở tôi? Tôi đã đợi hai mươi lăm năm cái khoảnh khắc cùng bố tôi quay lại Biennale, và hai chúng tôi đã rơi vào móng vuốt của một băng bất lương Di gan huyền ảo, mà tôi tưởng tượng mặc những thứ quần áo giống hệt quần áo bạn bè của Carmen, tập hợp lại dưới bóng các bức tường thành Sevilla. Thậm chí tôi còn có cảm giác một sự đồng lõa của những ánh mắt đã được thiết lập giữa bố tôi và viên cẩm. Có lẽ viên cẩm cũng có một thằng con trai đần độn. Trong lúc đó đã diễn ra một hoàn cảnh thuận lợi, nó, duy vậy, do tính cách ngẫu nhĩ của mình, chẳng hề khôi phục danh dự được cho tôi. Nhét tay vào túi trước cái quần dài, tôi nhận ra là mình đã để thẻ tín dụng vào đó, như vậy nó đã được razzia [vụ cướp] bỏ qua. Ít nhất thì tôi cũng có thể thu nhỏ thảm họa bằng cách mua vài thứ. Giày cho bố tôi, trước hết.
Chính bằng cách đó mà, sau khi mua đôi giày tennis tiện lợi cho bố tôi, chúng tôi ở, hơi ngây ra vì liều lượng chloroform đã hít vào, trên vaporetto, nó, ì ạch chạy hết bến này tới bến khác dọc theo Canal Grande và Riva degli Schiavoni, sẽ đưa chúng tôi đến khu vườn của Biennale, không chậm trễ mấy so với giờ đã định. Chúng tôi đã chiếm lấy hai chỗ ngoài trời, ở mũi tàu, và để cho không khí lờ lợ của Venice giúp chúng tôi phấn chấn lên. Như người ta sẽ dễ dàng tưởng tượng ra, bố tôi băng ngang một pha câm lặng tuyệt đối. Tôi tự hỏi không biết cái đó có thể quy cho chloroform ở mức nào. Chắc chắn, ông cảm thấy bực bội về phía tôi, điều này là không thể tránh. Tôi xứng với điều này, kệ thôi. Nhưng vì bố tôi là một con người thực sự bí hiểm, việc suy tư về ông tạo ra một hoạt động vô ích và không thể cạn kiệt. Những vảy nhỏ mạ vàng sáng ánh lên đằng sau và trên mũi đôi giày Nike mua quá vội. Tôi hy vọng ông không để ý thấy điều vụn vặn đó.
Cả về kỳ Biennale ấy tôi cũng không có bất cứ kỷ niệm nào, nếu chẳng phải là, vì quá mệt không tiếp tục được, chúng tôi đã đột nhiên ngồi uỵch xuống bên một cái bàn quán bar nhìn ra bãi đất ở giữa các chòi. Ừ thì, hẳn sẽ không còn các Biennale nữa, điều này là chắc chắn. Nhưng bố tôi đâu đã già tới vậy, một đoạn khá dài của cuộc đời vẫn còn trải rộng trước mặt ông; cuộc đời tôi thì đang mở ra cho tôi, to lớn và gần như còn nguyên vẹn. Đột nhiên tôi tâm sự với ông nỗi phiền muộn của mình vì đã làm hỏng hai chuyến đi Venice mà chúng tôi thực hiện cùng nhau. Rốt cuộc thì ông mỉm cười, có lẽ vì dẫu sao thì do ngẫu nhiên mà tôi đã đánh thức nơi ông một kỷ niệm sung sướng: lũ bồ câu, niềm nhẹ nhõm mà ông đã cảm thấy lúc gặp lại tôi ở khách sạn sau nỗi sợ của ông, con ngựa nhỏ bằng thủy tinh. Và ông đi ra khỏi sự câm lặng của mình để nói với tôi một điều mà tôi đã không bao giờ quên. Chỉ những gì xảy ra hai lần mới sở hữu một biểu nghĩa ma thuật và bí hiểm - ông bắt đầu. Một sự kiện chỉ xảy đến một lần duy nhất là một ngẫu nhiên; nếu hơn hai lần, thì đó là thói quen, một sự vị được chứng nhận, tùy thuộc vào các luật đã được thiết lập. Mọi điều gì từng quay trở lại chân trời các sự kiện của cuộc đời ông, nhắc lại một cách chính xác một sự vị trước đó đều sở hữu trong mắt ông, ông nói thêm, một mức độ thực tại mà ông có thể đánh giá là đầy, ít nhất là trong những giới hạn mà người phàm được phép có trong kinh nghiệm về các vật của họ. Bởi chúng ta vừa không thật vừa không giả, và sự nhắc lại là một luồng ánh sáng, một manh mối, sự rung lên trong khoảnh khắc và không thể nắm bắt của một tuyệt đối vuột thoát khỏi logic. Tất tật những người kia, ông vừa nói vừa đưa tay chỉ những cái chòi mà chúng tôi đã không có đủ sức để thăm, tất tật những kẻ được gọi là nghệ sĩ kia chỉ tuân theo một mục đích: tạo ra bản đúp của một thứ mà có lẽ họ đã quên mất, mà thậm chí họ còn không biết sự tồn tại, mà họ không biết mình từng sống qua một lần đầu tiên. Đấy là lý do khiến nghệ thuật tồn tại, vì chúng ta không thể nào sống cả trong cái độc nhất lẫn trong cái vô số, chúng ta là các thần dân của một vương quốc khác, về phía đó chỉ những điều gì xảy ra hai lần mới cho phép thoáng thấy con đường.
Càng già thêm, tôi càng nhận ra bố tôi đúng, tôi có cảm giác càng lúc mình càng bớt thật và càng lúc càng bớt giả. Có một cái gì đó ở đó, chính giữa. Tôi đã học được cách tin vào những gì xảy ra hai lần, vào những gì cứ treo lơ lửng ở giữa hai lựa chọn. Những khi nào thấy sung sướng, chẳng hạn vào buổi sáng lúc tỉnh dậy, tôi tưởng tượng rằng những ngón tay mảnh và vô hình, có lẽ cũng tinh tế như các ngón tay của thiên thần, trong đêm đã gỡ những nút buộc nơi các mâu thuẫn cùng các lựa chọn của tôi. Có lẽ là có, trong những giấc mơ mà tôi mơ, mà tôi quên mất, các cặp sự kiện bay trong tâm hồn giống lũ chim bồ câu yêu nhau, giống các nốt được đánh lại. Hẳn lẽ ra tôi đã có thể bảo bố tôi nói rõ hơn, hoặc đòi ông có những giải thích về nhiều chủ đề khác, nhưng tôi thích ở đó bên cạnh ông, chứ không phải đào vào sự thông thái của ông. Đó là một người phức tạp, bí hiểm, nhiều tính cách Thổ tinh. Tôi cảm thấy thoải mái ở bên cạnh ông, tôi thích qua thời gian với ông, tuy vậy tôi không thể nói là mình từng biết rõ ông. Tôi còn nhớ rằng, hôm ấy, những cái cây trong khu vườn Castello, các cây tiêu huyền và sồi lớn, đồng thanh xào xạc khi gió bay lên từ phá, họa ra những đường thêu bóng trên lớp sỏi các lối đi. Tôi nhớ là tới một lúc sự ngây độn của chloroform biến thành cơn say, một hình thức tuyệt đối của sự nhẹ, như thể, trong cơ thể chúng tôi, những cái xương của chúng tôi đã đánh mất đi độ chắc, trở nên cũng rỗng và thuôn như xương của bọn chim, và làm cho chúng tôi có khả năng, chỉ cần chúng tôi muốn thế, bay lên phía bên trên Venice. Rồi, theo cách này hay cách khác, thời điểm lên lại tàu, quay về nhà, đến. Đêm hôm đó, hẳn tôi không phạm phải nhầm lẫn với cái ổ khóa và, tất nhiên, hẳn tôi không bị lạc đằng sau các bước chân của một ông bố khác: quan trọng gì mấy đâu, những gì tôi đã làm hai lần, kể từ nay mọi cẩn trọng đều vô ích.
Cao Việt Dũng dịch
một Ý
Casanova (1725 – 1798)
Leopardii (1798 – 1837)
Carlo Emilio Gadda (1893 – 1973)
Pavese (1908 – 1950)
Elsa Morante (1912 – 1985)
Natalia Ginzburg (1916 – 1991)
Angelo Maria Ripellino (1923 – 1978)
Italo Calvino (1923 – 1985)
Pietro Citati (1930 – 2022)
Claudio Magris (1939 – )
Giorgio Agamben (1942 – )
Emanuele Trevi (1964 – )