favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2024
Next

Elias Canetti về Karl Kraus

20/02/2025 22:49

đã tiếp tục các châm ngôn của Karl Kraus, ở kia

 

Karl Kraus là một trong những nhân vật thu hút Elias Canetti thời trẻ hơn cả. Text dưới đây của Canetti, dùng để bình luận Kraus.

 

Trường học phản kháng

- Elias Canetti 

Một nét cố hữu của sự háu đói nhưng cũng của cả lòng hăng hái tuổi trẻ nằm ở chỗ một hiện tượng, một cuộc phiêu lưu, một hình mẫu đuổi đi một hiện tượng, cuộc phiêu lưu, hình mẫu khác. Người ta được hâm nóng và người ta giãi bày, người ta quy phục và người ta gắn bó với một dục vọng chuyên nhất. Ngay khi bị ithất vọng trước thần tượng kia, người ta đẩy nhào nó từ trên chân đế của nó và chẳng chút đắn đo phá hủy nó đi; không có chuyện tìm cách công bằng, nó từng đồng nghĩa với quá nhiều điều. Và người ta dựng thần tượng mới lên ở giữa đống đổ nát của thần tượng cũ. Quan trọng gì mấy đâu, chuyện nó cảm thấy khó ở tại đó. Người ta thiếu kiên định và đầy bạo chúa đối với các thần tượng của mình, người ta chẳng mấy lý đến chuyện về phần mình chúng cảm thấy gì, chúng ở đó để được dựng và bị lật đổ và tiếp nối nhau ở một số lượng gây ngạc nhiên, đa dạng và mâu thuẫn nhau đến mức kẻ nào định nhìn nhận tất tật chúng cùng một lúc sẽ phát sợ. Thần tượng này hay thần tượng khác sẽ chiếm được hàng thần thánh, nó sẽ được duy trì và được miễn trách, người ta không tấn công nó. Chỉ thời gian mới xâm phạm được nó, chứ không phải sự ác ý của môn đệ. Một vị thần như thế có lẽ sẽ bị trật cấp hay sa lầy nơi một vùng đất lún và thế nhưng: nó sẽ vẫn nguyên vẹn trong tổng thể và không đánh mất đi dáng vẻ của mình.

Hãy tưởng tượng những tàn phá xảy tới tại các ngôi đền khác nhau mà một con người mang bên trong mình, khi anh ta đã sống một khoảng thời gian. Hẳn chẳng nhà khảo cổ học nào tự tạo nổi một ý chuẩn xác về sự sắp đặt của chúng. Chỉ riêng chúng, những hình ảnh các vị thần vẫn cứ nguyên vẹn, có thể nhận biết ấy, đã tạo dựng một Pantheon bí hiểm. Nhưng trên đống đổ nát, hẳn anh ta phát hiện được những đổ nát khác, càng lúc càng lạ thường hơn, càng lúc càng quái đản hơn. Làm thế nào mà anh ta hiểu được tại sao các đổ nát đó lại đến tự thêm mình một cách chính xác vào với những đổ nát kia? Điểm chung duy nhất của chúng là cách thức nhờ đó chúng bị phá hủy, thành thử hẳn anh ta sẽ từ đó chỉ suy ra được rằng cùng kẻ mọi rợ đã thực thi ở đây các tàn phá của hắn.

Chắc hẳn sẽ là khôn ngoan hơn nếu không động vào tất tật những đổ nát cùng các ngôi đền kia. Nhưng hôm nay tôi đã quyết định không khôn ngoan và nhắc tới một trong những thần tượng của tôi, người đã chiếm lấy vị trí của thần thánh và là người, sau một kỳ quyền lực tối cao tuyệt đối kéo dài gần năm năm, đã bị gạt đi rồi rốt cuộc bị truất ngai sau năm năm nữa. Chuyện đã lâu lắm rồi, và do vậy tôi có thể có về nó gần như một cái nhìn toàn cảnh. Ngày hôm nay tôi biết tại sao Karl Kraus đã đến thật đúng lúc đối với tôi, tại sao ông tác động mạnh như vậy lên tôi và tại sao rốt cuộc tôi phải tự vệ chống lại ông.

Vào mùa xuân năm 1924 - tôi mới quay về Wien được vài tuần - các bạn tôi dẫn tôi, lần đầu tiên, tới một buổi tối thuyết trình của Karl Kraus.

Gian phòng lớn của Konzerthaus đông chật. Tôi ngồi tít trong góc và từ khoảng cách ấy không thể nhìn thấy nhiều thứ: một người đàn ông bé nhỏ khá là còm cõi, hơi chúi người về phía trước, với khuôn mặt thuôn mảnh mang sự sống động gây lo lắng và khiến tôi bị rối trí; tôi đang khám phá mặt của một tạo vật xa lạ, một con thú, nhưng hẳn tôi sẽ không thể nói được là con thú nào. Giọng nói sắc lẹm và đầy tức tối, nó dễ dàng chế ngự gian phòng bằng cách đột nhiên và thường xuyên tăng vọt âm lượng.

Ngược lại cái mà tôi có thể quan sát một cách chính xác ở xung quanh tôi, đó là các con người. Ngự trị trong phòng một bầu không khí mà các cuộc họp lớn đã khiến trở nên quen thuộc với tôi: cứ như thể toàn bộ những gì diễn giả cần phải nói đã được biết và dự liệu từ trước. Đối với kẻ vừa tới, đã vắng mặt khỏi Wien trong vòng tám năm, có lẽ là những năm quan trọng nhất - những năm đã trôi qua giữa tuổi mười một và mười chín của hắn - mọi sự, cho đến tận chi tiết nhỏ nhặt hơn cả, thật mới và gây nhiều bối rối. Bởi những gì đang được nói ở kia với một sự nhấn mạnh đầy say mê, thứ càng làm tăng tầm quan trọng của chúng, liên quan đến vô số chi tiết của cuộc sống công cộng, và cũng của cuộc sống riêng tư nữa. Thoạt tiên thật choáng váng khi cảm thấy rằng trong thành phố xảy ra ngần ấy chuyện xứng được nêu bật lên và liên quan tới tất cả mọi người. Chiến tranh và những diễn tiến của nó, thói tật, tội ác, lòng tham, sự đạo đức giả, nhưng cũng cả các lỗi in - tật tật đều được nhấn mạnh, được nêu lên và bị tố cáo, đặt vào một bối cảnh nào đó với cùng năng lượng bừng bừng, và bung ra trước chừng một nghìn người nắm bắt lấy từng từ, bất đồng với chúng, vỗ tay hoan hô chúng, sung sướng cười chúng.

Tôi có phải thú nhận rằng thoạt đầu, điều làm tôi bị rối trí nhiều nhất là sự đột ngột của hiệu ứng to lớn được tạo ra? Làm sao lại có chuyện tất tật đều biết chính xác chuyện là gì, lại có chuyện họ nhận ra và bất đồng với mọi điều từ trước, đầy lo âu chờ đợi lời tuyên án phát ra? Tất tật các buộc tội đều được phát biểu bằng một thứ ngôn ngữ đặc quánh đến kỳ lạ, nó có một cái gì đó thuộc một đoạn trong hồ sơ tư pháp, không bao giờ bị ngắt ngang, không bao giờ hoàn thành, dường đã khởi đầu từ nhiều năm về trước và sẽ được tuôn ra chính xác như vậy trong suốt những năm sắp tới. Mối quan hệ gần gũi với địa hạt luật học cũng có thể tri nhận được ở sự thể mọi sự đều tiền giả định một luật đã được thiết lập và tuyệt đối không thể phản bác, không thể sờ vào. Người ta hiểu rõ những gì là tốt, người ta hiểu rõ những gì là tệ. Cái đó có độ cứng tự nhiên của đá granit mà hẳn sẽ chẳng ai gây nổi một vết xước hay một vết cào nào. Thế nhưng đấy lại là một luật có tính cách hết sức đặc biệt và vậy là tôi đã có thể cảm thấy, ngay vào lần đầu tiên, mình bắt đầu quy thuận trước đó đến mức nào, vốn dĩ tôi đây không biết gì về những người bị biến thành ra các kẻ phạm tội gây hấn. Bởi điều không thể hiểu và không thể quên đối với những ai từng là chứng nhân của cái đó - thậm chí là không thể quên nổi kể cả khi người đó sống ba trăm năm - ấy là luật này thuộc lửa: nó tỏa rạng, nó đốt và hư vô hóa. Những câu kia, được xây dựng như các pháo đài khổng lồ cứ luôn luôn tự điều chỉnh lẫn nhau rất chính xác, đột nhiên tung ra những lóe chớp chẳng hề có gì là trong trắng, chúng không soi sáng gì: đó cũng không phải là các lóe chớp trên sân khấu, mà là các lóe chớp giết chóc; và sự diễn ra của hình phạt trừng trị kia, nó được tựu thành ở nơi công cộng, trước ánh mắt và bên tai tất tật, trải rộng một nỗi khiếp đảm cùng một bạo lực lớn tới nỗi chẳng ai có thể thoát khỏi được.

Bản án nào cũng được thực thi ngay tắp lự. Một khi đã được tuyên, nó là bất khả vãn hồi. Tất tật chúng tôi đều dự vào cuộc hành quyết. Điều nhấn các khán giả vào một dạng trông chờ âm ỉ ít là bản án hơn so với sự thực thi ngay tức thì của nó. Một số nạn nhân, thường xuyên hơn cả phải gánh chịu quá nặng, tự vệ và không chấp nhận mình bị hành quyết. Rất nhiều trong số bọn họ tránh tiến hành một cuộc tranh đấu công khai, nhưng một số trình diện, và sự hành hạ không xót thương được tiến hành vào lúc đó là cảnh tượng mà các thính giả thích thú nhất. Nhiều thập kỷ trôi qua rồi tôi mới hiểu ra rằng Karl Kraus đã thành công trong việc biến các trí thức thành một khối đông đầy căm ghét và gây hấn, có mặt tại mọi buổi tối thuyết giảng và tỏ ra kiên định, cương quyết cho đến lúc nào nạn nhân đã bị hạ gục. Ngay khi nạn nhân đã bị buộc phải im lặng, cuộc đi săn kia liền không còn sức thu hút nào nữa và người ta có thể chuyển sang một cuộc săn khác.

Thế giới của các luật mà người canh gác là Karl Kraus, "ảo thuật gia nhiều tức tối" với "giọng nói pha lê" - những từ này là của Trakl - hội tụ hai tầng cầu không phải bao giờ cũng nối vào nhau một cách chặt chẽ như thế - tầng cầu của luân lý và tầng cầu của văn chương. Có lẽ đã không có gì cần thiết cho bằng hỗn hống đó, trong sự hỗn loạn trí năng tiếp theo sau Thế chiến thứ nhất.

Đâu là các phương tiện mà Kraus từng dùng nhằm tạo ra những hiệu ứng của ông? Hôm nay tôi sẽ chỉ nói tới hai phương tiện chính yếu: sự trực nghĩasự phẫn nộ.

Sự trực nghĩa - để bắt đầu bằng nó - hiện ra trong việc sử dụng có tính cách tối cao các trích dẫn. Sự trích dẫn như ông dùng trở thành một bản luận tội nhằm vào người mà ông trích; thường nó là điểm tột cùng, sự tựu thành của bản luận tội ấy, mà người bình luận cần phải nói ra. Karl Kraus có thiên bẩm kết án người ta bằng cách, có thể nói, làm cho họ tự kết án chính mình. Năng lực bậc thầy này bắt nguồn - tôi không biết người ta đã tri nhận được thật rõ ràng tương quan ấy hay chưa - ở cái mà tôi sẽ gọi là trích dẫn thuộc âm học.

Kraus bị theo đuổi bởi những giọng nói, khả năng này không hiếm như người ta vẫn nghĩ - nhưng có một khác biệt: những giọng hành hạ ông thực sự tồn tại ở Wien. Đó là những mảnh của các câu, những từ, những hô hào mà ông có thể nghe thấy khắp nơi trên các phố, trên các quảng trường, ở các quán cà phê. Phần lớn các nhà văn thời ấy là những người không biết nghe. Họ sẵn sàng giao du với những ai giống mình, đôi khi để lắng nghe những người ấy, thường xuyên hơn cả để tránh họ. Thói tật di truyền của trí thức nằm ở chỗ, đối với anh ta, thế giới được tạo ra từ các trí thức. Kraus cũng là một trí thức, nếu không thì hẳn ông sẽ không thể bỏ các ngày của mình ra mà đọc báo, hơn thế nữa, lại còn là những tờ báo đa dạng nhất nơi có vẻ như người ta đọc được cùng một thứ. Nhưng vì ông có cái tai lúc nào cũng dỏng lên - chẳng bao giờ nó khép lại, nó luôn luôn ở trong hoạt động, nó luôn luôn nghe thấy - ông không thể làm gì khác ngoài đọc các tờ báo kia như thể ông đang nghe thấy chúng. Những từ được in và không sự sống đối với ông là các từ vang âm. Khi sau đó ông trích chúng, thì cứ như thể ông làm những giọng nói cất lên: các trích dẫn có tính cách âm học.

Nhưng vì ông luôn luôn trích không phân biệt, không bỏ qua bất cứ giọng nào, không trấn áp bất cứ giọng nào, sự thể tất tật chúng ở kề bên nhau, được hưởng một dạng bình đẳng về các quyền đầy lạ thường nơi chẳng hề quan trọng gì cả thứ hạng lẫn trọng lượng hay giá trị của chúng, Karl Kraus, độc nhất trong thể loại của mình, là những gì mà Wien có ở phương diện sống động hơn cả để dâng tặng vào thời đó.

Đấy là nghịch lý lạ thường nhất trong số các nghịch lý: con người đó, vốn dĩ khinh bỉ biết bao nhiêu điều - kể từ Quevedo người Tây Ban Nha và kể từ Swift là kẻ ngạo mạn gây nhiều rắc rối hơn cả trong văn chương thế giới, một dạng thần thánh quật roi phạt loài người phạm tội - lại cho tất tật được nói. Ông không có khả năng chối bỏ giọng nói nhỏ nhoi nhất, phù phiếm nhất, trống rỗng nhất. Sự vĩ đại của ông nằm ở chỗ ông là người duy nhất, theo đúng nghĩa đen là người duy nhất, bắt phải trình diện, lắng nghe, tra hỏi, tấn công và đánh roi thế giới trong chừng mực ông biết nó, cái thế giới hoàn toàn thuộc về ông, ở con người các đại diện của nó, và bọn họ đông vô kể. Bằng cách ấy ông là ngược lại của những nhà thơ kia, của đại đa số rộng lớn tất tật các nhà thơ, những người xịt phấn thơm lên các con người nhằm được họ yêu quý và vinh danh. Chắc hẳn sẽ là vô ích nếu nhấn mạnh vào sự cần thiết của những nhân vật như ông, chính vì họ hiếm đến vậy.

Các nhìn nhận của tôi ở đây về cốt yếu được dành cho Kraus thấy ngay được, cho Kraus đúng như ông vốn dĩ những khi ông nói với một số lượng lớn con người cùng một lúc. Người ta sẽ chẳng bao giờ nhắc lại được cho đủ: Kraus bằng xương bằng thịt đó, người giật ta ra khỏi nỗi trì độn của ta, hành hạ ta, đè nát ta, Kraus đó, mà người ta không còn lờ đi được nữa, người chạm vào ta và làm ta rung chuyển thành thử ta cần nhiều năm thì mới có thể tập hợp được các sức lực của mình và tự khẳng định chống lại ông, đó là diễn giả. Chưa từng bao giờ có, tính từ khi tôi chào đời, một diễn giả nào như ông ở bất kỳ không gian ngôn ngữ nào mà tôi biết.

Tất tật các tình cảm - và chúng có thật nhiều - được thông truyền cho các thính giả của ông trong khi ông nói và đột nhiên trở thành những tình cảm của họ. Hẳn sẽ phải viết một cuốn sách để kiểm tra các tình cảm ấy, để miêu tả cơn giận dữ của ông, những nhạo báng của ông, nỗi chua chát của ông, sự khinh bỉ của ông, sự kính ngưỡng của ông những lúc chuyện là tình yêu và phụ nữ, lúc nào ông cũng có một cái gì đó thuộc lòng biết ơn theo kiểu hiệp sĩ đối với giới tính ấy như nó vốn dĩ, lòng cảm thông cùng sự trìu mến của ông đối với những ai chỉ có sự yếu ớt của mình, sự táo bạo giết chóc với đó ông truy đuổi những kẻ hùng mạnh, nhục cảm mà ông cảm thấy vào khoảnh khắc phanh phui được bọn họ, những khi ông lột mặt nạ sự xuẩn ngốc trong các cung cách Áo của bọn họ, sự kiêu ngạo, thứ giúp ông giữ khoảng cách, sự thờ phụng lúc nào cũng tích cực của ông dành cho những thần tượng tuy thế hết sức khác nhau như Shakespeare, Claudius, Goethe, Nestroy, Offenbach.

Tôi chỉ có thể liệt kê những tình cảm đó, dẫu một sự liệt kê như vậy làm tôi nảy ra ham muốn mang tới đủ mọi loại ví dụ cụ thể, thậm chí là bắt chước ông một cách chính xác như thể tôi chỉ vừa rời khỏi một trong các buổi thuyết trình của ông. Tuy nhiên tôi phải nhấn mạnh vào một trong số những tình cảm mà tôi đã nêu lên ở trên. Nó tạo ra cái mà hẳn tôi sẽ định nghĩa là khía cạnh thánh kinh đúng nghĩa của ông: sự phẫn nộ. Nếu phải tự giới hạn vào chỉ một phẩm chất phân biệt ông với tất tật các nhân vật công cộng khác của thời ông, thì hẳn sẽ là nó: Karl Kraus có thiên tài của phẫn nộ.

Bất cứ ai ngày hôm nay mở Những ngày cuối của loài người [vở kịch lớn của Kraus] đều sẽ có thể dễ dàng nghĩ như thế. Điều đó đập ngay vào mắt: lúc nào ông cũng nhìn thấy, ở bên cạnh nhau, những người mà chiến tranh đã hủy hoại và những kẻ mà nó đã thổi phồng tầm quan trọng, người lính mù bên cạnh viên sĩ quan mà anh ta phải chào, khuôn mặt cao quý của người bị treo cổ bên dưới bản mặt phì phị của đao phủ anh ta - đấy không phải là những điều mà phim ảnh đã khiến chúng ta quá quen với các tương phản dễ dãi của nó, tất tật chúng vẫn còn chất đầy sự phẫn nộ mà chúng khơi lên, mà sẽ chẳng gì có bao giờ xoa dịu đi được.

Khi ông nói những điều đó, hàng nghìn người trước mặt ông bị tê liệt; sự phẫn nộ của ông, thứ, lần nào - dẫu ông có thuyết trình những đoạn ấy nhiều lần đến đâu - cũng tái khởi lực nơi viễn kiến ban đầu, xâm chiếm mỗi người chúng tôi. Bằng cách ấy ông thành công trong việc tạo ra ít nhất một trạng thái tinh thần đồng chất và nhất quyết giữa các thính giả của ông, trạng thái của một nỗi căm ghét tuyệt đối dành cho chiến tranh. Đã phải có một cuộc thế chiến nữa và, sau sự tàn phá nguyên những thành phố đầy sức sống, sản phẩm đặc thù của nó, bom nguyên tử, thì trạng thái tinh thần đó mới được phổ biến hóa đến mức trở nên gần như tự nhiên. Từ quan điểm này, Karl Kraus từng là một cái gì đó giống một nhà tiền triệu cho bom nguyên tử, ngôn ngữ của ông đã vạch ra những nỗi khủng khiếp của nó. Ngày nay thái độ của ông đã trở thành một sự vị được công nhận, mà ngay cả những kẻ nắm quyền lực cũng buộc phải càng lúc càng tính tới: quả thật các cuộc chiến tranh phi lý đối với những người thắng cũng như với những kẻ thua và, do vậy, chúng là không thể và việc cấm ngặt chúng chỉ còn là một vấn đề thời gian.

Bỏ sang một bên toàn bộ những cái đó, tôi đã học được gì ở Karl Kraus? Điều gì, phát xuất từ ông, từng thấm vào tôi sâu tới nỗi tôi không còn có khả năng tách ông khỏi con người tôi nữa?

Trước tiên có cảm giác về trách nhiệm tuyệt đối. Nó hiện ra với tôi dưới một hình thức kề cận với ám ảnh và toàn bộ những gì không đạt đến đó dường không xứng để người ta dành cho một cuộc đời. Ngay cả ngày hôm nay, tấm gương ấy vẫn tự áp đặt lên tôi với một lực mạnh tới nỗi tất tật lối nói sau này về cùng đòi hỏi chỉ có thể có vẻ thật thiếu thốn. Chẳng hạn như cái khái niệm đầy chật hẹp "dấn thân" kia, thứ đã bị kết án phải trở thành một sự tầm thường và thứ, vào thời chúng ta, nảy nở khắp nơi như một thứ cỏ dại. Cứ như thể, đối với những điều quan trọng hơn cả, người ta phải ở vào một mối quan hệ có thể so sánh với quan hệ của một nhân viên với những điều quan trọng nhất. Trách nhiệm đích thực nằm ở trên đó cách cả trăm độ, bởi nó là tối cao và tự quy định bản thân mình.

Thứ hai, Karl Kraus đã mở tai cho tôi, và hẳn chẳng ai biết cách làm điều này như ông. Kể từ khi tôi nghe ông nói, đối với tôi không còn là có thể nữa, việc không nghe thấy chính mình. Điều này đã bắt đầu bằng các tiếng ồn của thành phố xung quanh chúng ta, những hò la, những tiếng hét, các lệch đi của ngôn ngữ tri nhận được theo lối tình cờ và nhất là những gì vang lên phô và không đúng lúc. Quả thật, toàn bộ những cái đó vừa thật hài vừa gây hãi hùng và, kể từ bấy, tôi thấy là hoàn toàn tự nhiên, khi nối hai tầng cầu đó vào với nhau. Nhờ ông, tôi khởi sự hình dung rằng người nào cũng có một khía ngôn ngữ, nó phân biệt anh ta với tất tật những người khác. Tôi hiểu rằng quả thật các con người nói chuyện với nhau, nhưng họ không hiểu nhau, những từ của họ là các từ nảy thia lia trên các từ của những người khác; rằng chẳng có gì nhiều ảo tưởng hơn so với thấy ở ngôn ngữ một phương tiện thông giao giữa con người. Người ta nói với người khác, nhưng theo cách thức để kẻ kia không hiểu. Người ta tiếp tục nói và kẻ kia càng ít hiểu hơn. Người ta hét lên, kẻ kia hét đáp trả, sự phun vọt sống cầm chừng trong ngữ pháp lập ra sự thống trị của nó lên ngôn ngữ. Những lời hò la đi tới đi lui giống các viên đạn, phân chia những cú đánh của chúng và rơi xuống đất. Rất hiếm khi kẻ kia ghi nhận được điều gì đó và nếu chuyện này dẫu sao cũng xảy ra, anh ta ghi nhận rất lệch lạc.

Nhưng cũng những từ mà người ta không thể hiểu nổi ấy, những từ có một quyền năng gây cô lập, tạo ra một dạng khía ngôn ngữ, đâu phải là các từ hiếm hay mới, được bịa ra bởi những tạo vật lo âu cho sự độc đáo của mình: ấy là những từ đúng như chúng vẫn được sử dụng thường xuyên nhất, các câu, những gì được nói thông dụng hơn cả, hàng trăm lần và cái đó, chính cái đó là thứ mà tất tật đều dùng nhằm diễn tả ý chí riêng của mình. Những từ đẹp, xấu, cao quý, thường, thiêng, phàm, tất tật đều rơi hết vào bể chứa sôi sùng sục đó và người nào cũng tóm lấy các từ nào phù hợp với sự lười biếng của mình, nhắc đi nhắc lại chúng cho đến khi chúng trở nên khó mà nhận ra nổi, cho đến khi chúng nói một cái gì đó hoàn-toàn khác với những gì chúng đã biểu nghĩa lúc trước.

Sự lệch đi của ngôn từ khơi lên một tohu-bohu của các yếu tố tách biệt. Karl Kraus, vốn dĩ nhạy cảm thái quá với việc dùng ngôn từ một cách kém cỏi, có thiên bẩm nắm được in statu nascendi [vào đúng lúc đang sinh ra] những sản phẩm của cách dùng kém cỏi ấy và không bao giờ đánh mất chúng nữa. Bằng cách đó ông hé lộ cho người nào lắng nghe ông một chiều mới của ngôn từ, vốn dĩ nó là không thể vét cạn, mà trước kia người ta từng chỉ dùng theo cách thức thảng hoặc và ít nhất quán. Tôi sẽ chỉ nêu lên ở đây, thoáng qua, người từng là ngoại lệ lớn cho quy tắc ấy, Nestroy, ở ông Karl Kraus đã học được cũng nhiều điều như chính tôi từng học được ở Kraus.

Bởi giờ đây tôi muốn nói đến một điều tạo lập tương phản mạnh mẽ với sự bộc phát của tai ông: hình thức văn xuôi của ông. Người ta có thể cắt bất kỳ mảnh văn xuôi nào của Karl Kraus làm đôi, làm bốn, tám, mười sáu phần mà vẫn không thực sự kéo được từ nó ra một cái gì. Tất tật các trang tiếp theo nhau và đáng giá hệt nhau. Chúng có thể thành công ít hơn hoặc nhiều hơn - nơi một bộ máy lạ thường không chỉ có bản tính bề ngoài, chúng truy đuổi nhau mà người ta không nhất thiết có thể thấy trước được điểm kết. Mỗi phần mà ông chỉ định là một phần bằng một tiêu đề, hẳn có thể dài hơn gấp đôi hoặc giảm bớt đi một nửa. Hẳn không độc giả bất thiên ái nào có thể nói được tại sao cái này không kết thúc sớm hơn, tại sao cái kia vẫn tiếp tục thật lâu. Tại đó ngự trị một sự võ đoán của tiếp tục, thứ dường không vâng theo bất cứ quy tắc có thể chỉ ra nào. Chừng nào các ý còn đến với ông, ông còn tiếp tục, thường xuyên hơn cả các ý đến với ông rất lâu. Ông không bao giờ tuân theo một nguyên tắc nào đó về cấu trúc.

Bởi cấu trúc thiếu vắng ở tổng thể lại hiện diện ở mỗi câu và đập ngay vào mắt. Tất tật các cám dỗ tập hợp lại mà người ta hết sức rộng lượng gán cho các nhà văn đối với Karl Kraus bị vét kiệt trong câu cô lập. Mối bận tâm của ông là: một câu mà người ta không thể sửa chữa, không lỗ hổng, không sai sót, không có dấu phẩy đặt sai chỗ nào - một câu tiếp nối một câu khác, một mảnh đi theo một đoạn khác, lập thành Vạn lý Trường thành. Sự tập hợp ở mọi nơi đều có chất lượng tốt, hẳn người ta chẳng thể nào vào bất kỳ khoảnh khắc nào nhầm lẫn về tính cách của nó, nhưng không ai biết thực sự thì nó nhốt bên trong cái gì. Đằng sau bức tường kia không có vương quốc, chính nó là vương quốc, tất tật các nhựa sống của vương quốc có lẽ từng tồn tại đã chuyển hết vào nó, trong kết cấu của nó. Không còn có thể nói được những gì ở bên trong, những gì thì ở bên ngoài, vương quốc trải rộng về hai phía, nó giống như bức tường, cả về bên ngoài cũng như về bên trong. Nó là toàn bộ, mục đích tự thân khổng lồ băng ngang thế giới, các ngọn núi, các thung lũng cùng các đồng bằng và nhiều sa mạc. Có lẽ đối với nó, bởi nó sống, dường mọi sự đều bị phá hủy trừ nó. Từ các đội quân đứng đầy vào những chỗ ấy, mà nó trông giữ, chỉ còn lại độc một người canh gác cô độc. Người canh gác cô độc đó cùng lúc là người, trong nỗi cô độc, sẽ tiếp tục dựng nó. Mọi nơi nào anh ta đưa mắt đến, anh ta đều cảm thấy sự cần thiết phải dựng một mảnh tường mới. Các chất liệu đa dạng nhất tự dâng mình cho anh ta để làm điều đó, anh ta có khả năng tạo ra chúng từ những tảng đá xẻ mới. Người ta có thể dạo chơi suốt nhiều năm trên bức tường đó, và nó sẽ không bao giờ kết thúc.

Tôi nghĩ rằng chính cảm giác khó ở sinh ra từ việc nhìn bức tường ấy cùng dáng vẻ tiêu điều của sa mạc nằm hai bên là những thứ đã dần dần khiến tôi bức dọc với Kraus. Bởi những viên đá mà ông dùng là các đánh giá và chúng đã nuốt chửng toàn bộ những gì từng sống tại phong cảnh xung quanh. Người canh gác đã bị mắc vào cái thói đánh giá; để làm ra những hòn đá cùng bức tường của mình, thứ không bao giờ khép lại, càng ngày càng phải có nhiều đánh giá hơn và anh ta kiếm lấy nó cùng lúc gây hại cho vương quốc của chính mình. Cái mà anh ta phải giám sát, anh ta trút bỏ chất của nó đi: để phục vụ cho các dự đồ lớn của mình, tất nhiên, nhưng ở xung quanh sự trống rỗng lớn lên và, rốt cuộc, người ta hoàn toàn có thể rùng mình trước nỗi e sợ theo đó việc xây dựng bức tường không thể phá bỏ kia trên thực tế trở thành mục đích sau chót của cuộc đời.

Nền tảng của vấn đề nằm ở chỗ anh ta đã tự ban cho chính mình tất tật những đánh giá cần phát ra và không cho phép bất cứ ai trong số những người mà anh ta là tấm gương được nói một đánh giá cá nhân nào. Mỗi người trong số những kẻ ủng hộ anh ta có thể rất mau chóng quan sát thấy nơi chính mình các hệ quả của một bó buộc như vậy.

Điều đã xảy tới trước hết , sau khi nghe mười hoặc mười hai buổi tối diễn thuyết của Karl Kraus, sau một hoặc hai năm đọc tờ Die Fackel, ấy là một sự suy giảm ý chí tự mình đánh giá. Người ta bị ngập chìm trong các quyết định mạnh mẽ và không chút xót thương, chúng không cho phép mối nghi ngờ nào dẫu nhỏ tới đâu. Những gì đã được quyết, ở cấp cao kia, được xem như là phù hợp, hẳn người ta sẽ cảm thấy tự phụ nếu tự đi kiểm tra sau đó, do vậy người ta không bao giờ bận trí với một tác giả mà Kraus đã nguyền rủa. Nhưng các diễn giải nhỏ bên lề, đầy khinh miệt, những thứ mọc lên như cỏ giữa các hòn đá nơi những câu-pháo đài của ông cũng đã là đủ để người ta tránh vĩnh viễn những kẻ nào trở thành đối tượng cho chúng. Xảy ra một dạng thu nhỏ: trong khi, xưa kia, trong vòng tám năm tôi vắng mặt khỏi Wien, những năm tôi sống ở Frankfurt và Zurich, tôi ngốn ngấu văn chương nói chung với nỗi háu đói của chó sói, đối với tôi bắt đầu một thời kỳ của giới hạn, của e dè đầy khổ hạnh. Nó có lợi thế là cho phép người ta quay sang những gì Kraus cho là có giá trị với cường độ cao hơn: Shakespeare và lẽ dĩ nhiên là Goethe, Claudius; Nestroy, vốn dĩ chỉ được hồi sinh nhờ ông, mà sự phát hiện là thành công cá nhân lớn nhất của ông; các tác phẩm đầu tiên của Hauptmann, khoảng cho đến Pippa, mà ông có thói quen đọc hồi đầu tiên; Strindberg và Wedekind, các người nhận các vinh dự của Die Fackel trong vòng những năm đầu tiên, giữa những người hiện đại còn có Trakl và Lasker-Schüler. Người ta thấy rằng ông không dẫn chúng ta đến với các nhà văn tệ nhất. Đối với Aristophane mà ông từng dịch, tôi đã không cần tới ông, vả lại hẳn ông sẽ không thành công được trong việc khiến tôi vứt bỏ sở thích ấy, không hơn so với về phía Gilgamesch và Odyssey, ba cái đó từ lâu tạo nên chính chất cho tinh thần tôi. Thường thì ông bỏ sang một bên các tiểu thuyết gia cùng tất tật những người kể chuyện, tôi nghĩ rằng họ ít khiến ông quan tâm và đó là một cơ may cho tôi. Chính bằng cách ấy mà tôi thoát được khỏi ách độc tài của ông vào đúng lúc nó thực thi theo lối ít xót thương hơn cả, mà đọc Dostoievski, Poe, Gogol và Stendhal và hiểu họ như thể Karl Kraus chưa từng bao giờ tồn tại. Tôi thấy bị cám dỗ đánh giá giai đoạn đó trong đời mình là tồn tại ngầm. Chính từ những tác giả ấy, cũng như từ các họa sĩ, Grünewald và Breughel mà lời lẽ của ông không phạm đến, tôi đã nhận được mà không dự cảm từ trước những lực cho phép tôi nổi loạn, về sau này.

Bởi vào quãng đó tôi đã thực sự có kinh nghiệm về việc sống dưới một ách độc tài nghĩa là như thế nào. Tôi là người ủng hộ đầy say mê và hào hứng cho nó, do tự ý tôi và đầy trung tín. Một kẻ thù của Karl Kraus là một tạo vật đồi bại, phi luân lý; và ngay cả khi tôi không tiến hành điều mà các nền độc tài sau đó đã làm một cách thông dụng: sự hủy diệt thứ gọi là giòi bọ đó, thì tôi từng - tôi phải công nhận điều này, dẫu xấu hổ đến mức nào - phải, tôi không thể nói khác được: cả tôi, tôi cũng từng có các "Do Thái" của tôi, những người mà tôi ngoảnh mặt quay đi những khi gặp tại các quán cà phê hoặc ngoài phố, mà tôi không thèm nhìn, mà số phận chẳng hề liên quan gì tới tôi, những người đối với tôi là các kẻ phải bài xích, những kẻ chịu án phát vãng mà tiếp xúc hẳn sẽ vấy bẩn tôi, mà, theo lối nghiêm túc nhất trên đời, tôi không còn tính là thuộc vào số con người nữa: những nạn nhân cùng những kẻ thù của Karl Kraus.

Thế nhưng đó đã không phải là một ách độc tài vô tích sự và vì đã tự mình quy phục trước nó và rốt cuộc tự mình thoát được khỏi nó, tôi không có quyền buộc tội nó. Hơn nữa, chính nhờ kinh nghiệm mà nó cho phép tôi có được, thói quen độc ác hay buộc tội những người khác khiến tôi thấy kinh tởm một cách sâu sắc.

Hết sức quan trọng, việc có một mẫu hình với vũ trụ phong phú, mạnh mẽ và vô song, về đó người ta không thể nhầm lẫn, một vũ trụ mà chính anh ta đã lắng nghe, cảm thấy và hình dung. Chính sự chân thực nơi vũ trụ của ông, mà quả thật hình mẫu cung cấp cho chúng ta, là thứ gây ấn tượng sâu sắc hơn cả lên chúng ta. Chúng ta để cho mình bị xâm nhập, quyến rũ bởi vũ trụ đó và, về phần mình, tôi không thể tưởng tượng được một nhà văn nào từng không bị, từ rất sớm, chế ngự, tê liệt hóa bởi sự chân thực của người khác. Trong nỗi nhục mà bạo lực phải gánh chịu gây cho anh ta, vào thời điểm anh ta cảm thấy chẳng có gì cho mình, rằng anh ta không phải chính anh ta, rằng anh ta không biết là chính mình nghĩa là sao, các lực bị che giấu của anh ta khởi sự hoạt tác. Nhân cách của anh ta chuyển động, nó sinh ra từ sự phản kháng, ở mọi nơi nào nó tự giải thoát, có một cái gì đó đã giải thoát cho nó.

Nhưng vũ trụ của người nào bắt anh ta phải quy phục càng phong phú, anh ta càng làm giàu có thêm cho vũ trụ của mình bằng cách trút bỏ nó khỏi người kia. Vậy nên sẽ là rất tốt khi mong muốn các hình mẫu mạnh. Rất tốt, cái việc để cho mình bị chìm đắm bởi một hình mẫu như vậy trong chừng mực người ta bí mật theo đuổi, trong bóng tối của sự nô lệ, những gì chính người ta là vốn dĩ, về đó người ta thấy xấu hổ - và cũng chính vì thế - bởi người ta hẵng còn chưa tri nhận được nó.

Hết sức tệ hại, những mẫu hình xâm nhập tận trong bóng tối và ngắt đứt sự thở của chúng ta tận ở cái tầng ngầm tối hậu, thảm hại ấy. Nhưng cũng rất nguy hiểm, những hẫu hình rất khác kia, chúng dùng sự băng hoại và, quá mau chóng, trở nên hữu dụng với ta cho những điều phù phiếm, chúng khiến chúng ta tưởng là đã tồn tại một cái gì đó thuộc về riêng ta, chỉ vì ta nghiêng mình và chịu nhục trước chúng. Giống con thú được huấn luyện kỹ, rốt cuộc chúng ta sống bằng các ân huệ của chúng và hài lòng với những món đồ ăn vặt mà chúng chìa cho chúng ta.

Bởi chẳng ai biết được khi bắt đầu cái mà anh ta sẽ tìm được ở chính mình. Làm sao mà anh ta dự cảm được nó đây, bởi vì cái đó còn chưa tồn tại. Dùng tới các dụng cụ đi mượn, anh ta xâm nhập mảnh đất chính nó đi mượn và xa lạ, bởi đó cũng là mảnh đất của những người khác. Lúc, lần đầu tiên, đột nhiên anh ta ở trước cái mà anh ta không nhận ra, chẳng hề đến với anh ta từ bất kỳ đâu, anh ta thấy sợ, anh ta bị chóng mặt, bởi cái đó đúng là thuộc về anh ta.

Đó có thể là một cái gì rất ít ỏi, một hạt lạc, một rễ cây, một viên đá nhỏ xíu, một vết cắn có nọc độc, một mùi mới, một âm thanh không thể giải thích, hoặc ngay lập tức đó là một cái mạch tối và sâu: nếu anh ta có can đảm và sự khôn ngoan để quay trở về với chính mình sau cơn chóng mặt đầu tiên của nỗi hoảng sợ, nhận ra và đặt một cái tên cho cái mà anh ta đã tìm ra, khi đó sẽ bắt đầu cuộc đời đúng nghĩa của anh ta, cuộc đời của anh ta.

Lê Công Tăng dịch

 

tức là, để tiếp tục câu chuyện Đức-Áo

một phả hệ

Joseph Roth, Rilke & Robert Musil

Wien & Berlin

 

để đối chiếu

Johann Wolfgang von Goethe (1749–1832)

E. T. A. Hoffmann (1776–1822)

Friedrich de la Motte Fouqué (1777–1843)

Heinrich von Kleist (1777–1811)

 

Karl Kraus (1874–1936)

 Thomas Mann (1875–1955)

Rainer Maria Rilke (1875–1926)

Robert Walser (1878–1956)

Robert Musil (1880–1942)

Georg Lukács (1885–1971)

Walter Benjamin (1892–1940)

Joseph Roth (1894–1939)

 

Paul Celan (1920–1970)

Ingeborg Bachmann (1926–1973)

Thomas Bernhard (1931–1989)

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công