Chesterton: Tại sao tôi là người Công giáo? (tiếp)
6. Bài Bình Bình Bình
Tay bỉnh bút của một tờ báo chiều mới đây đã cho đăng một bài mà ông ta đón trước, thậm chí xin lỗi trước với độc giả, là “một bài khác thường.” Ông cẩn thận tránh né không bày tỏ bất kỳ quan điểm nào về những tư tưởng ghê gớm, nguy hiểm mà bài viết khác thường ấy nêu ra. Khỏi phải nói, đọc được đúng năm dòng bài viết đó, tôi đã nhận ra ngay đây chính là một mẫu mực hoàn hảo của kiểu bài hết sức bình bình. Thậm chí nó còn là bản sao trau chuốt, chính xác của thể loại bài mẫu mực; một kiểu hàng mẫu, cứ như thể có thứ gì có khả năng bình bình một cách bất bình. Tôi đã đọc bài báo này trước đây – hàng nghìn lần, tôi cảm giác như thế – và lần nào cũng thấy y hệt; nhưng lạ thay, chưa bao giờ nó giống đến từng chữ một như lần này.
Ngày nay, có những thứ lẳng lặng mà khiến thế giới mệt mỏi đến tận xương tuỷ. Chúng thường khoác lên mình những nhãn mác cực kỳ to tát nhưng mờ xỉn, tự xưng là Làn Sóng Mới hay Tân Khám Phá. Chẳng hạn, người ta đã chán ngán cái gọi là Nhà nước Xã hội chủ nghĩa y như thể đã sống trong đó chế độ ấy cả ngàn năm rồi vậy. Nhưng có những thứ khiến sự chán chường trở nên nhức nhối đến khôn tả. Giờ đây, nó đã trồi lên bề mặt và có thể bùng phát bất cứ lúc nào dưới hình thức tự sát, giết người hay dùng răng cắn xé tờ báo. Bài Bình Bình Bình kia cũng thế. Nó không chỉ bình bình quá thể, mà còn dần trở nên bình bình một cách khó chịu, khó nạp, khó dung. Nó được đặt tên một cách vô cùng thích đáng là Tiếng Thét của Một người Phụ Nữ Hướng về Nhà Thờ. Và tôi xin tuyên bố rằng, dù vốn là người chán ngắt, điềm tĩnh và chưa từng bị ai buộc tội có những cử chỉ nữ tính như lên cơn giãy nảy, tôi mà bị bắt đọc lại bài bình này thêm ba lần nữa, có khi tôi hét lên thật. Tiếng hét của tôi sẽ được đặt tên là “Tiếng Thét của Một người Đàn Ông Hướng về Báo Chí.”
Tôi xin nhắc sơ qua về nội dung tiếng thét của người phụ nữ đó bởi độc giả hẳn đã nằm lòng những điều ấy. Thông điệp của Chúa Kitô hoàn toàn đơn giản: rằng tình yêu thương chữa lành mọi thứ; nhưng kể từ khi Ngài bị giết vì đã tuyên như vậy (tôi không hoàn toàn hiểu vì sao lại thế), những đền điện bề thế đã được dựng lên để tôn thờ Ngài và những kẻ đáng ghét mang danh linh mục đã chẳng mang lại gì cho thế giới ngoài “đá hộ mạng, bùa chú, công thức và học thuyết lỗi thời của một hội phái.” Họ còn “tranh cãi không dứt với nhau về vị trí đặt một chiếc khuy hay độ cong khi quỳ gối.” Tất cả những điều này chẳng an ủi được tín đồ Cơ Đốc đáng thương kia, người dường như chỉ muốn được an ủi bằng cách nghe rằng mình có bổn phận với người láng giềng. “Có bao nhiêu người trong giờ phút lâm chung tìm được sự an ủi từ Tín cương 39 điều, Tiền Định Thuyết, Biến Thể Thuyết, giáo lý về sự trừng phạt vĩnh hằng và niềm tin rằng Chúa Kitô sẽ tái lâm vào Ngày Thứ Bảy?” Những mục này tạo thành một danh sách kỳ lạ, mà bí ẩn nhất đối với tôi vẫn là mục cuối. Nhưng tôi chỉ có thể nói rằng, nếu Chúa Kitô là người ban cho thông điệp yêu thương nguyên thuỷ và thực sự có khả năng an ủi, thì việc Ngài có trở lại vào Ngày Thứ Bảy hay không ắt hẳn phải là chuyện hệ trọng. Phần còn lại của cái danh sách kỳ lạ đó, có lẽ tôi cần phải phân định rõ. Tôi chắc chắn chưa từng nhận được an ủi sâu sắc và chân thành nào từ Tín cương 39 điều. Tôi cũng chưa nghe ai thực sự cảm thấy như thế. Về Tiền Định Thuyết, có hai quan điểm chính: của phái Calvin và Công giáo, và việc tôi chọn đi theo phái trước hay phái sau sẽ tạo nên sự khác biệt không nhỏ đối với sự an ủi của tôi. Đó là sự khác biệt giữa việc tin rằng Chúa biết, như một sự thật, rằng tôi chọn đến bên quỷ dữ và tin rằng Chúa đã trao tôi cho quỷ dữ mà tôi không hề có bất kỳ lựa chọn nào khác. Về Biến Thể Thuyết, không dễ để bàn luận thông suốt điều này; nhưng tôi xin gợi ý nhỏ nhẹ rằng, đối với hầu hết những người ngoại đạo bình đạm có chút lương tri, sẽ có một sự khác biệt đáng kể trên thực tế giữa việc Đức Giê-hô-va ngự trị khắp vũ trụ và Chúa Giêsu bước ghé đến một căn phòng[1].
Nhưng những ví dụ trên tôi chỉ điểm qua chóng vánh và miễn cưỡng, bởi chúng chỉ là hiện thân cho một vấn đề bao trùm hơn trong lối đối đáp không hồi kết kiểu ấy. Lối đối đáp ấy coi vấn đề đạo đức của con người hết sức đơn giản, khi ai ai cũng biết sự thật không phải thế, rồi sau đó hạ thấp mọi nỗ lực giải quyết nó bằng cách trích dẫn những thuật ngữ kỹ thuật dông dài và nói về những nghi thức vô nghĩa mà không thèm tra cứu xem chúng có ý nghĩa thế nào. Nói cách khác, y hệt như có kẻ phát biểu về khoa học sức khoẻ rằng: “Tôi chỉ cần có Sức Khoẻ. Còn gì đơn giản hơn món quà tuyệt vời là Sức Khoẻ? Sao phải nghiên cứu những môn khoa học khô khan và ảm đạm như giải phẫu học và sinh lý học? Sao phải tìm hiểu về vị trí của những cơ quan mơ hồ trong cơ thể? Sao phải phân biệt một cách cứng nhắc, tuyệt đối thứ gì được dán nhãn là độc dược, thứ nào được dán nhãn thuốc giải, trong khi việc tận hưởng Sức Khoẻ vốn dĩ đơn giản đến thế? Sao phải mẫn cán bận tâm đo đúng từng giọt cồn thuốc phiện hay nồng độ của một liều thuốc mê, sao không cứ tận hưởng niềm vui của việc khoẻ mạnh? Hãy vứt bỏ cái bộ đồ nghề như giáo sỹ, lóc cóc nào là ống nghe, nào là nhiệt kế của các ngươi đi! Hãy dẹp những nghi thức lố lăng rườm rà nào là bắt mạch, thè lưỡi, vạch răng, vân vân đi! Thần Esculapius giáng thế chỉ để loan tin báo rằng, nhìn chung, Sự Sống thì ưu việt hơn Cái Chết, và bấy nhiêu là đủ an ủi nhiều người hấp hối rồi chứ cần gì bác sỹ kề cạnh.”[2]
Nói cách khác, Bài Bình Bình Bình, thứ giờ đây đã chạy được cả vạn số, vốn luôn là một thứ nhảm nhí ngay từ số đầu tiên. Trong y khoa, có thể đã và đang tồn tại thói thông thái rởm đời. Trong thần học, có thể đã và đang tồn tại những giáo lý cằn cỗi, khô khan hoặc chẳng có khả năng an ủi nhân loại. Nhưng kẻ nào dám tuyên bố rằng bất kỳ ngành khoa học nào cũng có khả năng giải quyết bất kỳ vấn đề phức tạp nào mà không cần thiết phải phát triển ra một ngôn ngữ kỹ thuật cùng một phương pháp bài bản và tỉ mỉ thì chắc chắn kẻ đó phải thuộc hàng đại ngốc và chưa thực sự đương đầu với bất cứ một trở ngại nào cả. Tách hoàn toàn khỏi lý thuyết về Giáo hội, ngay cả khi Chúa Kitô vẫn ngự nơi trần gian đến thiên thu để cố gắng khuyên loài người hãy yêu thương nhau, thì chắc chắn Ngài cũng sẽ nhận ra cần phải có những tiêu chuẩn, những phương pháp, một cách thức nào đó để phân biệt tình yêu đích thực với tình yêu giả dối, một đường lối để nhận diện đâu là khuynh hướng sẽ huỷ hoại tình yêu và đâu là khuynh hướng sẽ chữa lành, phục hồi nó. Tất cả những điều này hiển nhiên đến mức tưởng chừng không cần phải nhắc lại. Thế mà tôi vẫn phải nhắc lại, bởi vì chính cái điều trái ngược hoàn toàn với nó đang cứ nhan nhản, lặp đi lặp lại không ngừng. Sự nông cạn đến ngớ ngẩn ấy bủa vây lấy ta, tựa như một hoang địa tứ bề mông mênh.
Một đặc điểm của Bài Bình Bình Bình là thi thoảng nó lại bóng gió đến một thứ Tôn Giáo Mới, nhưng lúc nào cũng bằng một thái độ khá rụt rè, lẩn quất. Nó hay gợi ý rằng sẽ có một niềm tin tốt đẹp hơn, rộng lượng hơn, dù hiếm khi dám chạm vào niềm tin, mà hay đi vòng qua sự rộng lượng. Nó chẳng bao giờ có được bất cứ thứ gì giống như dấu ấn của một người canh tân chân chính. Bởi lẽ, một nhà canh tân chân chính, trên một phương diện nào đó, phải là một nhà lập pháp. Ta có thể diễn giải theo hướng thù địch, bằng cách nói rằng nhà cách mạng luôn trở thành tay bạo chúa. Ta cũng có thể diễn giải theo hướng thân thiện hơn, bằng cách nói rằng nhà cải cách phải quay lại với ý niệm về hình thức. Nhưng bất kỳ ai thực sự sáng lập được một tôn giáo mới, dù là một tôn giáo sai lầm đi chăng nữa, cũng phải có phẩm chất biết chịu trách nhiệm nhất định. Hắn phải tự đặt mình vào thế đứng mũi chịu sào và gồng gánh trách nhiệm để tuyên xưng điều gì là cấm kỵ, điều gì là phải phép, rồi sẽ phải có một kế hoạch hoặc hệ thống nhất định để bảo vệ nó trước sự huỷ diệt. Và tất cả những thứ ít nhiều giống như một tôn giáo mới, nói cho công bằng, đều cho thấy phẩm chất này và chịu chung bất lợi này. Về lý thuyết, Khoa học Kitô lấy hoà bình làm gốc và gần như phủ nhận đấu tranh. Nhưng dù vậy, đã có không ít lần các hội đồng tranh cãi với nhau về tín điều này, và mối quan hệ giữa những người kế vị bà Eddy[3] tuyệt nhiên không thể gọi là hoà bình. Ở đây, tôi không nhắc đến nó để chế nhạo, mà để tri ân; tôi dám chắc những diễn biến đó đã chứng minh rằng những thành viên hữu quan đang cố gắng thành lập một tôn giáo đúng nghĩa. Đó là lời khen dành cho các tín đồ Khoa học Kitô, khi họ cũng có riêng họ những đánh giá và tín điều, những vạ hình và những tuyệt thông, những giáo lệnh và những cuộc săn lùng tà thuyết. Nhưng các thân hữu Khoa học Cơ Đốc khó lòng thừa lời khen này mà đi bỉ bôi ngược lại các Kitô hữu[4]. Chủ nghĩa Cộng sản, ngay cả trong hình thái cuối cùng của chủ nghĩa duy vật Marx, cũng có một số phẩm chất của một niềm tin mới mẻ và chân thành. Nó có ít nhất một phẩm chất tương ứng: nó chắc chắn sẽ đào thải những kẻ dám cả gan phủ nhận tín điều. Cả người Cộng sản lẫn tín đồ Khoa học Kitô đều chịu chung một bất lợi nghiêm trọng: họ đã biến đức tin thành thực tiễn. Một chính phủ Bolshevik là có thật và có quyền cai trị, dù đó là một sự cai trị tồi. Những người lấy Khoa học Kitô chữa bệnh và việc chữa bệnh bằng Khoa học Cơ Đốc cũng có lẽ là thật, dù ta không hoàn toàn thừa nhận rằng thứ bệnh được chữa đó có liên quan đến sức khoẻ. Một Giáo hội đang hoạt động tích cực là có thật, và bởi như thế mà nó thể hiện toàn bộ những giáo điều và lập dị vốn vẫn luôn bị thiên hạ gán lên cho Giáo hội Kitô. Nhưng triết lý được diễn đạt trong Bài Bình Bình Bình, bằng cách không bao giờ dám bước vào thế giới hiện thực, đã né được tất cả những bất lợi này ngon ơ. Vị thần của nó rất sợ được giáng sinh, kinh kệ của nó rất sợ được thảo soạn, nó chỉ có cách tồn tại với tư cách là thứ Tôn Giáo Mới bằng việc đợi mai mới tới, còn hôm nay cứ nấp cho kỹ đã. Nó lấy sự kiêu hãnh của cõi phi thực để phồng mang trợn má, bởi nó không thể áp đặt thứ mà ngay cả bản thân nó còn không có khả năng sản ra. Nó toả sáng với sự tự mãn đậm đà đạo đức giả, bởi lẽ không có tội lỗi nào nhân danh tín điều của nó mà thực hiện và cũng chẳng có tín điều nào làm động cơ cho những tội ác của nó. Loại phê bình này giống như một bác sỹ phẫu thuật không bao giờ thất bại vì chưa từng vào phòng mổ, một người lính không bao giờ chùn bước vì chưa từng vào trận mạc. Bất cứ ai cũng có thể liên thiên về một tôn giáo không tồn tại, thứ sẽ được xá miễn khỏi mọi trắc trở của hiện hữu. Bất cứ ai cũng có thể mơ mộng về một thứ Kitô giáo tuyệt đối nhân bản và làm hài lòng tất cả, khi Chúa Kitô của nó không bao giờ được sinh ra và không bao giờ bị đóng đinh. Việc đó dễ đến mức đã có hàng tá người kéo nhau lên đủ các mặt báo và các cuộc bút chiến công khai chỉ để làm duy nhất điều ấy, trong suốt hai mươi năm, ba mươi năm qua. Cách tiếp cận đó, dẫu được áp dụng như một lý tưởng tâm linh, một lý thuyết khoa học hay một cương lĩnh chính trị, cũng đều vô dụng và phù phiếm như nhau; và tôi chỉ nhắc tới nó bởi nó đã đập vào mắt tôi cả trăm lần, và tôi cảm thấy một tia hy vọng le lói rằng đây có lẽ sẽ là lần đầu cũng như lần cuối cùng tôi nhắc tới nó.
7. Tại sao tôi là người Công giáo?
Một bài xã luận gần đây trên nhật báo đã bàn về Sách Tân Kinh Nguyện[5] dù chẳng có gì mới mẻ để nói. Bởi phần lớn, nó đã lặp lại đến lần thứ chín trăm chín mươi chín nghìn lần rằng thứ dân chúng Anh Quốc thực sự muốn là một tôn giáo không giáo điều (là cái gì?), và rằng cuộc tranh cãi về Giáo hội đều vô ích và kiệt quệ ở cả hai chiến tuyến. Sau đó, đột nhiên nhớ ra việc đánh đồng cả hai phe có thể hàm ý nhượng bộ hoặc cân nhắc nào đó cho phe chúng ta, người viết vội vàng tự sửa lời mình. Ông ta tiếp tục gợi ý rằng dù mang giáo điều là sai, nhưng giáo điều theo lối Kháng Cách là tất phải. Ông úp mở rằng dân Anh (lại nhân vật hết sức hữu dụng này!) hoàn toàn bị thuyết phục, tuy ra sức khó chịu với những bất đồng trong tôn giáo, rằng việc cứ tiếp tục khác biệt với Công giáo chính là chìa khoá cho sự sống còn của tôn giáo. Nhân vật hữu dụng ấy đã bị thuyết phục (ta nghe nói) rằng “Nước Anh có tính Kháng Cách như nước biển có tính mặn.” Thành kính ngước nhìn tính Kháng Cách thâm sâu của ngài Michael Arlen hay ngài Noel Coward, hay điệu nhạc jazz thời thượng ở Mayfair, chúng ta ắt phải buột miệng: Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại?[6] Nhưng vì chúng ta có thể suy ra một cách chắc chắn từ câu trên rằng ngài Beaverbrook và ngài James Douglas cùng ngài Hannen Swaffer, cùng tất cả thuộc hạ của họ, quả thực là những người Kháng Cách cứng rắn và không khoan nhượng (và vì chúng ta biết rằng người Kháng Cách nổi tiếng vì nghiên cứu Kinh Thánh rất sát sao và nhuần nhị, không bị cản trở bởi Giáo hoàng hay linh mục), chúng ta thậm chí có thể mạn phép mà diễn giải câu nói đó dưới dạng một trích dẫn ít quen thuộc hơn.[7] Có khả năng nào, khi so sánh Kháng Cách với muối của biển, họ đã bị ám ảnh bởi nhúm ký ức mơ hồ về một đoạn Kinh Thánh khác, nơi cùng một một Uy Quyền ấy đã bàn tới một dòng suối đơn nhất và linh thiêng, nước hằng sống, thứ nước ban được sự sống và thực sự làm dịu cơn khát của con người, trong khi tất cả những vũng dơ và bùn lầy khác lại khác hẳn, bởi những kẻ uống nó rồi sẽ lại khát tiếp. Đó này cũng hay xảy ra với những ai thích uống nước muối.
Ngần ấy để dẫn vào lời khẳng định về niềm tin mãnh liệt nhất của tôi chắc cũng đã đủ khiêu khích, nhưng tôi kính xin được phân trần rằng sự khiêu khích ấy xuất phát từ phía Kháng Cách. Khi đạo Kháng Cách ung dung tuyên bố thống lĩnh mọi linh hồn với giọng điệu của Nữ thần Britannia thống trị bốn bể, ta hoàn toàn có quyền đáp trả rằng tinh chất của thứ muối dày nhất, đặc nhất trong sự ảm đạm của Biển Chết. Nhưng ta càng có quyền đáp trả hơn nữa khi Kháng Cách đang mon mem đoạt lấy thứ mà không một tôn giáo nào ở hiện tại có thể đoạt lấy. Nó ung dung đoạt lấy sự trung tín của hàng triệu người theo thuyết bất khả tri, vô thần nhân, tín đồ ngoại giáo khoái lạc, những nhà thần bí độc lập, những nhà nghiên cứu tâm linh, hữu thần tín hữu, những thành viên thần trí luận, những môn đồ của các giáo phái Đông phương và những kẻ tuý luý sống cuộc đời phạm tục rồi tan biến như thú vật. Việc làm ra vẻ như tất cả những hạng người này đều là tín đồ Kháng Cách chỉ làm giảm đáng kể uy tín và tầm quan trọng của đạo Kháng Cách. Nó biến Kháng Cách thành một sự phủ định đơn thuần, không còn bản sắc và ý nghĩa riêng; muối nào như thế?
Lấy điều này làm xuất phát điểm và đánh giá cho vấn đề lựa chọn tôn giáo hiện nay, chúng ta đã bắt gặp ngay từ đầu một lưỡng nan liên quan đến tôn giáo truyền thống của ông cha mình. Như đã nói, Kháng Cách là một hiện tượng hoặc mang tính phủ định, hoặc mang tính khẳng định. Nếu Kháng Cách là một thực thể tích cực, không nghi ngờ gì nữa, nó đã chết. Trong chừng mực từng là một hệ thống tín ngưỡng tâm linh phân biệt, giờ đây nó không còn được ai tín nữa. Giáo lý Kháng Cách đích thực hiện nay hiếm có ai tuân giữ – ngay cả những người Kháng Cách. Họ đã đánh mất đức tin vào nó sâu sắc đến mức phần lớn thậm chí đã quên nó vốn dĩ là gì. Nếu ta đi hỏi một người hiện đại bất kỳ nào xem để cứu rỗi linh hồn mình, chỉ thông qua thần học không thôi là đủ, hay liệu việc làm điều thiện (thí dụ, giúp đỡ kẻ khốn khổ) có giúp ta tới gần Chúa hơn không, đa phần họ sẽ trả lời không chút do dự rằng việc làm thiện nguyện có lẽ làm Chúa hài lòng hơn làm thần học. Chắc chắn họ sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng suốt ba trăm năm, niềm tin vào việc chỉ cần đức tin từng là dấu ấn riêng của người Kháng Cách, còn niềm tin vào làm điều thiện từng là dấu ấn riêng khá đáng xấu hổ của một kẻ nghi theo Công giáo Rô-ma. Dân Anh (chào mừng xuất hiện lại, bạn cũ ta) ngày này sẽ không còn chút hoài nghi gì về ai thắng ai thua trong cuộc giao đấu giữa Công giáo và Calvin. Đó là cuộc giao đấu quan trọng và có tính trí tuệ nhất giữa Công giáo và Kháng Cách. Nếu anh ta tin vào Chúa, hoặc thậm chí là không tin đi chăng nữa, anh ta chắc chắn thích một vị Chúa đã tạo ra con người để họ sống trong vui vầy và mong muốn cứu rỗi tất cả, hơn là một vị Chúa cố ý tạo ra một số người để phạm tội ngoài ý muốn của họ và chịu kiếp đoạ đày vĩnh hằng. Thế nhưng, cuộc tranh cãi ấy bản chất xung quanh điều đơn giản ấy thôi: với chủ ý đầu thuộc về người Công giáo, còn chủ ý sau thuộc về người Kháng Cách. Người hiện đại không chỉ không chia sẻ, mà thậm chí còn chẳng hiểu nổi sự ghét bỏ bất bình thường của người Thanh giáo đối với nghệ thuật và cái đẹp trong đời sống tôn giáo. Ấy vậy mà đó chính là nền tảng thực thụ của phong trào Kháng Cách; và mãi cho đến tận trung kỳ Victoria, những bà lớn của Kháng Cách vẫn không khỏi kinh động khi nhìn thấy một chiếc đầm suông trắng, chứ nói gì đến các lễ phục có màu sắc.[8] Về những lập luận cốt lõi mà Cải cách đã sử dụng để lên án Giáo hội Rô-ma, thì ngày nay, cả thế giới đã minh oan bằng hết.
Thật thế, chúng ta hoàn toàn có thể tìm thấy những bất công thực sự và đủ sức khơi dậy sự phản kháng trong lòng Giáo hội Rô-ma trước thời Cải cách. Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ có thể tìm thấy bất kỳ một bất công nào trong số đó được các phong trào Cải cách cải thiện. Thí dụ, có một sự lạm dụng cực kỳ tồi tệ trong việc các tu viện đôi khi cho phép một quý tộc giàu có đứng vai người bảo trợ, thậm chí có chỗ còn đưa ông ta lên làm viện trưởng (Abbot), hoặc trục lợi từ nguồn thu vốn dĩ thuộc về một cộng đoàn nghèo và bác ái. Nhưng tất cả những gì Cải cách đã làm chỉ là cho phép chính tôn ông ấy thâu tóm tất cả nguồn thu, chiếm trọn cả tu viện rồi biến nó thành cung điện hoặc chuồng lợn và xoá sổ sạch sẽ bất cứ dấu vết nào của cộng đoàn nghèo khó ấy. Di sản tệ nạn kinh khủng nhất của một giới Công giáo thế tục đã được Kháng Cách kế thừa và làm cho kinh khủng hơn. Nhưng những điểm tốt đẹp nhất, kỳ lạ thay, vẫn sống sót mà kinh qua thời tha hoá, không, chúng thậm chí còn sống sót qua cả thời Cải cách. Chúng vẫn còn tồn tại đến tận hôm nay ở tất cả đất nước Công giáo, không chỉ trong sự rực rỡ, thi vị và sức lan toả quần chúng của đời sống đức tin, mà còn trong những bài học sâu sắc nhất trong tâm lý thực tiễn. Và những điều đó, sau bốn thế kỷ thăng trầm, lại càng chứng minh được tính đúng đắn, đến mức ngày nay, ai nấy cũng đè đầu chúng ra mà sao chép, kể cả những kẻ từng lên án chúng, chỉ có điều, sự sao chép ấy nhiều lúc méo mó, biến tướng. Phân tâm học tâm lý (psycho-analysis) chính là Xưng Tội nhưng không thiết lập được hàng rào an toàn của Xưng Tội đúng nghĩa, chủ nghĩa cộng sản là phong trào Francisco nhưng không còn sự tinh chỉnh điều độ của Giáo hội, còn các giáo phái Mỹ, sau ba trăm năm hô hào phản đối nào là “sự kịch tích rườm rà kiểu Công giáo”, nào là “chỉ vuốt ve những giác quan”, giờ lại tô vẽ những buổi lễ của mình bằng phim ảnh cực kỳ hoàng tráng và trang hoàng một chùm đèn đỏ chiếu thẳng lên đầu mục sư. Nếu chúng tôi có một tia sáng nào để chiếu cho có hiệu ứng xanh đỏ, chắc chắn chúng tôi sẽ không chiếu nó lên đầu mục sư.
Tiếp đến, Kháng Cách có thể là một phủ định. Nói cách khác, nó chỉ là một danh sách mới bao gồm những cáo buộc hoàn toàn mới chống lại Giáo hội Công giáo Rô-ma; và sự liên tục duy nhất nằm ở việc nó vẫn chống lại Rô-ma. Phần lớn bản chất của phái Kháng Cách nằm đúng chỗ đó, và có lẽ đó cũng chính là điều mà tờ Daily Express thực sự muốn nói khi cho rằng đất nước và người dân chúng ta đã thấm đẫm tinh thần Kháng Cách như muối tan vào nước. Nói cách khác, truyền thuyết rằng Rô-ma là một mớ sai lầm vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, dù rằng mọi nét đặc trưng của con quái vật ấy giờ đây đã bị biến dạng hoàn toàn qua những lần biếm hoạ. Những định kiến ấy, trong bối cảnh nước Anh ngày nay, không phải là không bị phóng đại, nhưng nó vẫn chứa đựng một phần sự thật. Chỉ có điều, nếu những tín hữu Kháng Cách chân thành và trung thực thực sự hiểu rõ về động cơ và nguồn gốc của những điều ấy, họ sẽ khó lòng thấy lòng mình thoả mãn. Bởi suy cho cùng, truyền thống kiểu gì mà mỗi ngày, hay mỗi thập kỷ, lại kể một câu chuyện khác nhau, và chỉ yên lòng khi tất cả câu chuyện mẫu thuẫn ấy đều nhất tề chống lại một người duy nhất hay một thể chế duy nhất? Sự nghiệp thiêng liêng kế thừa từ tổ tiên kiểu gì mà lại chỉ tuyền là một sự căm ghét dai dẳng trỏ riêng về độc một điều gì đó, và chỉ hết mực nhất quán trong riêng sự căm ghét ấy mà thôi – còn trong tất cả những thứ khác, thậm chí ngay cả lý do vì sao mình căm ghét, thì lại lúc này lúc kia và không lúc nào thành thật? Chẳng lẽ chúng ta thực sự sẽ dành thời gian và công sức chỉ để sáng tác ra một loạt câu chuyện mới nhằm công kích phần lớn những người cũng là Kitô hữu giống mình? Đó có phải là cốt lõi của Kháng Cách không? Và điều đó liệu có xứng đem ra so sánh với sự ái quốc, với biển cả không?
Dù sao đi chăng nữa, đó là hoàn cảnh mà tôi đối mặt khi bắt đầu suy nghĩ về những điều này: tôi là con trai của một dòng dõi theo một mực theo Kháng Cách và, dĩ nhiên, thuộc về một gia đình Kháng Cách. Tuy nhiên, trên thực tế. sau khi đi theo Tự do, nhà tôi đã không thuộc Kháng Cách nữa. Tôi được nuôi dạy theo phong cách của những người theo Phổ độ luận và Thần thể nhất vị luận, dưới sự dẫn dắt của một con người đáng kính, Stopford Brooke. Cái đó thì hẳn là không còn là Kháng Cách nữa, nếu có thì chỉ là theo nghĩa cực kỳ tiêu cực. Thậm chí, nó còn trái ngược hoàn toàn với Kháng Cách là đằng khác, ngay cả ở cái nghĩa cực kỳ tiêu cực kia. Chẳng hạn, một người tin vào Phổ độ luận thì không tin vào hoả ngục, và anh ta nhấn mạnh rằng thiên đàng cũng chỉ là một trạng thái tâm lý hạnh phúc – một tâm trạng. Tuy nhiên, anh ta cũng đủ sáng suốt để nhận thấy rằng hầu hết con người không sống hay chết trong một trạng thái tâm lý hạnh phúc đến mức bản thân nó đoan chắc việc họ sẽ được đặt vào thiên đàng. Nếu thiên đàng là một tâm trạng, thì nó sẽ đồng thời khẳng định mình không phải là một tâm trạng phổ quát và rất nhiều người đã ngang qua cuộc đời với một tâm trạng quỷ dữ. Nếu tất cả những người ấy đều được lên thiên đàng chỉ nhờ vào việc cảm thấy hạnh phúc, thì rõ ràng, trước hết, tự ở những người sống rồi chết trong tâm trạng quỷ dữ kia phải có một sự chuyển biến nào đó đã. Vì thế, những người theo Phổ độ luận tin vào sự tiến bộ sau khi chết, với hai tiến trình đồng thời diễn ra là trừng phạt và khai sáng. Nói cách khác, họ tin vào Luyện ngục dù không tin vào Hoả ngục. Đúng hay sai thì sự thật vẫn rành rành ra đấy, rằng họ rất mạch lạc và hoàn toàn trái ngược với người Kháng Cách – nhóm vốn tin vào Hoả ngục nhưng không tin vào Luyện ngục. Kháng Cách, suốt chiều dài lịch sử của mình, đã luôn tiến hành cuộc chiến không ngừng chống lại duy nhất ý niệm này về Luyện ngục, hay còn gọi là Sự tiến bộ bên kia nấm mồ. Tôi đã dần nhận ra rằng quan điểm hoàn chỉnh của Công giáo vốn chứa đựng những chân lý sâu sắc hơn nhiều về cả ba quan niệm ấy; những chân lý dựa vào ý chí, sự sáng tạo và tình yêu tự do vinh quang nhất của Thiên Chúa. Nhưng ngay từ đầu, dẫu tôi chưa nghĩ gì đến Công giáo, tôi vẫn không hiểu vì sao mình phải quan tâm đến phái Kháng Cách, thứ vốn dĩ luôn đi ngược lại hoàn toàn với những điều mà một người Tự do ngày nay nhiều khả năng sẽ nói.
Nói một cách đơn giản, tôi đã nhận ra mình không hà cớ gì phải bám lấy đức tin Kháng Cách nữa. Cái nguyên cớ duy nhất còn lại là liệu rằng tôi có nên tiếp tục bám lấy mối hiềm khích của Kháng Cách hay không mà thôi. Và tôi đã thực sự kinh ngạc khi nhận ra rất nhiều người bạn Tự do của tôi vẫn duy trì mối hiềm ấy trong hồ hởi, mặc dù họ không còn giữ đức tin Kháng Cách nữa. Tôi không có tư cách gì để phán xét họ, nhưng thú thật, đối với cá nhân tôi, nó khác gì một sự thất tín đáng hổ thẹn. Cứ nghĩ mà xem, sau khi bạn đã nhận ra xưa nay mình ra sức vu oan giá hoạ cho ai đó nhưng vẫn quyết tâm không thèm xin lỗi mà bịa tiếp một câu chuyện mới nghe có vẻ thuyết phục hơn để dung dưỡng cho cái thói vu vạ ấy – đối với tôi, ngay từ đầu, đó là một cách hành xử khá thối nát. Tôi quyết định chí ít cũng phải xem xét kỹ lưỡng thể chế từng bị vu khống đó dựa trên chính giá trị của nó, và câu hỏi đầu tiên, hiển nhiên nhất hiện ra là: Tại sao những người Tự do chủ nghĩa lại ghét dai ghét dẳng thể chế ấy như vậy? Ý nghĩa thực sự đằng sau mối hiềm ấy là gì, một mối hiềm vừa liên tục vừa bất nhất? Những câu hỏi đó, tôi mất rất lâu mới trả lời được, và giờ kể lại sẽ tốn quá nhiều thời gian. Nhưng rốt cuộc, nó đã dẫn tôi đến một câu trả lời duy nhất hợp lý và được xác thực cho đến ngày nay bởi thực tế cuộc sống: rằng thể chế ấy bị ghét cũng bằng lý do giống hệt bất kỳ thứ gì bị ghét, chỉ đơn giản vì nó không giống bất kỳ thứ gì khác trên thế gian này – nói như lối quen thuộc là thế.
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ còn đủ không gian để chỉ ra một điều này nữa trong hàng ngàn điều khác, tất cả đều đã được xác thực khi trỏ về cùng một sự thật và đồng bộ với nhau. Tôi tin chắc rằng chỉ cần bốc đại một chủ đề, từ thịt lợn cho tới pháo hoa, tôi cũng có thể chứng minh rằng chủ đề ấy thể hiện được chân lý trung tâm của một thứ triết lý thực thụ, đúng đắn; bởi thế nên, câu cửa miệng “Đàng nào cũng về Rô-ma” quả thực rất xác đáng. Trong muôn vàn vấn đề, tôi chỉ lấy ra một thực tế: rằng chủ thể ấy suốt bao nhiêu thế hệ vẫn bị lấy ra làm bia đỡ của mọi sự thù ghét vô căn với những lý do liên tục biến hoá. Còn về hầu hết các lạc giáo đã chết, có thể nói rằng chúng không chỉ chết, mà còn bị kết án; nghĩa là, chúng đã hoặc sẽ bị lương tri kết án, ngay cả bên ngoài Giáo hội, một khi tâm trạng và cơn sốt nhất thời của những lạc giáo ấy nguội lạnh. Không ai ngày nay muốn khôi phục lại “Thuyết Quyền Thánh của Vua” mà những người Anh giáo đầu tiên đã đưa ra để chống lại Giáo hoàng. Không ai ngày nay muốn khôi phục là Chủ nghĩa Calvin mà những người Thanh giáo đầu tiên đã dùng để chống lại nhà vua. Không ai ngày nay tiếc thay cho những người theo phái Bài Tượng vì họ đã thất bại bẽ bàng trong việc đập phá tất cả các bức tượng ở Ý. Không ai ngày nay tiếc thay cho những người theo phong trào Jansen vì họ đã không thể tiêu huỷ hết toàn bộ các vở kịch ở Pháp. Không ai hiểu rõ phái Albigensian lại tiếc rằng họ đã không thể nào cải hoá thế giới sang bi quan và suy đồi. Không ai thực sự hiểu lô-gích của phái Lollard (nhóm này thực ra cũng dễ mến) lại thật lòng mong muốn họ thành công trong việc tước bỏ mọi quyền chính trị khỏi bất cứ ai không ở trong trạng thái ân sủng[9]. Ý tưởng Thống trị dựa trên ân điển là một lý tưởng mộ đạo, nhưng nếu áp dụng vào thực tế – chẳng hạn như gạt bỏ quyền lực của một viên cảnh sát Ái Nhĩ Lan đang điều tiết giao thông ở Piccadilly chỉ vì chúng ta chưa biết anh ấy gần đây có xưng tội với linh mục người Ái Nhĩ Lan của mình hay không – thì rõ ràng là thiếu thực tiễn. Trong chín trên mười trường hợp, Giáo hội chỉ đơn giản đại diện cho sự minh triết và cân bằng xã hội trước các lạc giáo, đôi khi trông chẳng khác gì những kẻ tâm thần. Thế nhưng, ở mỗi phân kỳ lịch sử, áp lực từ những sai lầm phổ biến lại vô cùng mạnh mẽ, những sai lầm bị khuếch đại qua cả một thế hệ, như sức mạnh của Trường phái Manchester trong những năm 1850[10] hay Chủ nghĩa Xã hội Fabian[11] – thứ từng là mốt hồi tôi còn trẻ. Khi nghiên cứu những trường hợp thực tế trong lịch sử, ta thường thấy được tinh thần của thời đại thường sai lệch, con người Công giáo, ít nhất là một dự phần tương đối, đã đi đúng. Đó là một tâm trí đã sống sót qua hàng trăm tâm trạng.
Như tôi đã nói, đây chỉ là một khía cạnh, nhưng là khía cạnh đầu tiên gây sức ảnh hưởng đến tôi và dẫn tới những khía cạnh khác. Khi một chiếc búa đã đúng y chóc vào mũ đinh tới hàng trăm lần, đến một lúc nào đó ta phải thực sự suy nghĩ rằng điều đó không hoàn toàn là ngẫu nhiên. Tuy nhiên, những bằng chứng lịch sử này sẽ chẳng là gì nếu không có những bằng chứng mang tính nhân bản và cá nhân, thứ đòi hỏi một lối diễn giải hoàn toàn khác. Chỉ cần nói thế này là đủ: những ai thấu hiểu thực hành Công giáo đều thấy nó không những đúng đắn, mà còn luôn luôn đúng đắn vào đúng thời điểm mọi thứ khác đều sai lầm, biến Xưng Tội thành ngai vàng của sự chân thành trong khi thế giới bên ngoài cười nhạo nó như một thứ âm mưu, đề cao đức khiêm nhường trong lúc mọi người đều tán dương sự kiêu căng, bị kết tội bác ái uỷ mị khi thế giới đang cổ vũ cho một chủ nghĩa vị lợi tham tàn bạo ngược, rồi lại bị kết tội là giáo điều khắc nghiệt khi thế giới đang buông thả trong thứ tình cảm sến súa tầm thường – chính thời đại ngày nay đây. Đồng quy thì nhất lý. Anh có thể nghĩ tới nghĩ lui đủ mọi suy nghĩ chân thành và hợp lý để tìm cách thoát khỏi Điện Hampton, nhưng một khi anh ta đã đứng ở trung tâm mê cung, anh ta không nghĩ, anh ta biết chắc.
Bùi Gia Bin dịch
[1] (ND) Xin phép giảng giải đoạn văn này vì độ dày lập luận và phản biện của nó. Trong đoạn văn này, Chesterton phản bác lại cách tiếp cận mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa đơn giản giả dối trong tôn giáo. Bằng cách trích dẫn câu hỏi tu từ của nữ nhà báo – ngụ ý rằng các giáo lý thần học phức tạp một cách vô ích – Chesterton đảo ngược tình thế để vạch trần sự nông cạn của chính luận điểm đó. Đầu tiên, ông chỉ ra sự ngớ ngẩn khi bà ta đưa ra một danh sách kỳ quặc gồm khái niệm đặc trưng từ nhiều hệ phái (Tín cương 39 điều của Anh giáo, Tiền Định Thuyết của Chủ nghĩa Calvin, Biến Thể Thuyết của Công giáo, Ngày thứ Bảy thờ phượng của Cơ Đốc Phục Lâm). Bà ta đã gộp chung các giáo lý khác biệt về bản chất và chức năng vào một mớ hỗn độn, từ đó phơi bày sự thiếu hiểu biết cơ bản của họ về chính đối tượng mình chê bai. Tiếp theo, Chesterton phản kích bằng cách nghiêm túc xem xét từng giáo lý, chỉ ra rằng chúng không tồn tại để mang lại "cảm giác an ủi" rẻ tiền, mà để định nghĩa chân lý theo từng góc độ giáo phái. Ông chỉ ra rằng “Tiền Định” của Calvin khác hẳn với quan niệm Công giáo: một bên mô tả Đấng Tạo Hóa độc đoán, bên kia nhấn mạnh Thiên Chúa tiên tri tôn trọng tự do ý chí. Sự phân biệt này không phải chi tiết vụn vặt mà là ranh giới giữa hai cái nhìn về Thiên Chúa. Đây là minh chứng cho luận điểm cốt lõi của ông: bất kỳ hệ thống tư tưởng sâu sắc nào (tôn giáo, khoa học, luật pháp) cũng đều cần một cấu trúc kỹ thuật chặt chẽ để phân biệt giữa các khái niệm tưởng chừng giống nhau. Sự đơn giản mà người phụ nữ ca tụng thực chất là một thứ chủ nghĩa hoài nghi trống rỗng, từ chối mọi nỗ lực suy tư nghiêm túc. Cuối cùng, phép so sánh giữa "Đức Giê-hô-va ngự trị khắp vũ trụ" và "Chúa Giêsu bước vào phòng" là đòn kết thúc mang tính trực quan mạnh mẽ. Nó buộc người đọc phải thừa nhận rằng các chi tiết thần học (dù phức tạp) tạo nên sự khác biệt căn bản trong trải nghiệm và niềm tin thực tế, chứ không chỉ là những trò chơi ngôn từ vô nghĩa. Chính cách tiếp cận đơn giản hoá và trọng kết quả một cách thô thiển mới là thứ làm mất đi bản chất sâu xa, thiết thực và an ủi nhất của đức tin. Điều này sẽ được chứng minh qua các ví von trong các đoạn ở phía sau.
[2] (ND) Thông qua phép loại suy với Y học, ông muốn chứng minh rằng cả tôn giáo hay y học (hay các lĩnh vực khoa học khác) đều phải đối mặt với những vấn đề phức tạp trong lĩnh vực mình. Để giải quyết những vấn đề đó, ắt phải cần đến những kiến thức chuyên sâu, thuật ngữ chính xác và phương pháp tỉ mỉ. Việc bài xích thần học, với các giáo lý, nghi thức của nó cũng ngu ngốc y như việc bài xích y học với những nghiên cứu lâm sàng, điều chế thuốc men, giải phẫu,… của nó. Chesterton sử dụng hình ảnh Esculapius (vị thần của y học và chữa bệnh) một cách rất có chủ ý và mỉa mai để hoàn thiện phép loại suy của mình, ngụ ý rằng một người bị bệnh sắp chết sẽ chẳng thể được an ủi chút nào bởi một thông điệp triết lý mơ hồ như "sống tốt hơn chết". Họ cần một bác sĩ có kỹ năng, với ống nghe, thuốc men và kiến thức cụ thể. Tương tự, một linh hồn đang đau khổ, vật lộn với tội lỗi, sợ hãi cái chết và ý nghĩa cuộc đời, sẽ chẳng tìm được sự an ủi thực sự từ một thông điệp chung chung như "hãy yêu thương nhau", v.v.. Họ cần một tôn giáo có cấu trúc, với các bí tích, giáo lý và sự hướng dẫn cụ thể – thứ chỉ các linh mục đáng ghét và nghi thức vô nghĩa kia cung cấp.
[3] (ND) Mary Baker Eddy (1821-1910) là người sáng lập ra giáo phái Khoa học Kitô, đề đạt niềm tin rằng bệnh tật và cái chết chỉ là ảo giác và có thể được cứu chữa chỉ bằng cách cầu nguyện và sự thông suốt về Chúa.
[4] (ND) Bằng cách chỉ ra rằng Khoa học Kitô – thứ Tôn Giáo Mới mà những trang viết tầm thường kia ám chỉ – cũng có những giáo điều, trừng phạt và nỗi sợ tà thuyết y hệt Kitô giáo – thứ mà họ ra sức phủi đi, Chesterton đã vạch trần sự đạo đức giả của tay viết, bóc trần việc họ đi thần tượng chính thứ sao nhái từ cái họ chê bôi.
[5] (ND) Năm 1549, cuốn Sách Kinh Nguyện Chung (Book of Common Prayer) được tổng giám mục Thomas Cranner biên soạn, trở nên sách Phụng Vụ của Anh Giáo. Sách không chỉ quy định những nghi thức thờ phượng mà còn là một biểu tượng của bản sắc Anh giáo như là trung điểm của Công giáo Rô-ma và Kháng Cách Cải cách. Năm 1927, cuốn Sách Tân Kinh Nguyện (The New Prayer Book) ra đời nằm sửa đổi những đề xuất của sách gốc để cập nhật ngôn ngữ dễ hiểu hơn, và quan trọng hơn, để giải quyết mâu thuẫn nội bộ trong Giáo hội Anh. Bấy giờ, Giáo hội Anh tồn tại hai chiến tuyến: Thượng phái (Anh giáo đại đồng) thiên về nghi thức, truyền thống và có nhiều điểm gần gũi với Công giáo và Hạ phái (Tin Mừng) nhấn mạnh sự giản dị, cá nhân trong đức tin và có nhiều điểm gần gũi với Kháng Cách. Bản sửa đổi 1927 cố gắng làm hài lòng cả hai phe bằng cách cho phép nhiều hình thức nghi lễ khác. Nó là một nỗ lực thỏa hiệp.
[6] (ND) Matthew 5:13
[7] (ND) Xin diễn giải tại sao Chesterton lại đưa ra các cái tên dồn dập trong đoạn trên. Michael Arlen (tiểu thuyết gia trào phúng), Noel Coward (kịch tác gia nổi tiếng với những vở kịch về giới thượng lưu nhẹ dạ), nhạc jazz ở Mayfair (khu phố giàu có, trung tâm của cuộc sống ăn chơi) – đây là những biểu tượng của văn hóa phù phiếm, thế tục và hoàn toàn trần tục. Beaverbrook (ông trùm báo chí, chủ tờ Daily Express), Hannen Swaffer (nhà báo), James Douglas (biên tập viên) – đây là những người có quyền lực trong giới truyền thông, những kẻ đang định hình dư luận. Chesterton mỉa mai gọi họ là "những người Kháng Cách cứng rắn" và gọi độc giả của họ là "thuộc hạ".
[8] (ND) Xưa kia, người Thanh giáo phản đối mạnh mẽ mọi yếu tố nghệ thuật, màu sắc, cái đẹp (ám chỉ sự trang trí, lễ phục, hình ảnh, nhạc lễ trong nhà thờ) vì cho rằng chúng làm loãng sự trong sáng của đức tin, thậm chí là sa đọa. Đến thời hiện đại, đa phần người ta không chỉ không đồng tình mà còn “không hiểu nổi” lập trường cực đoan ấy. Tác giả nhấn mạnh quan điểm khắt khe, cứng nhắc đó từng là “một nền tảng thực thụ” của Kháng Cách.
[9] (ND) Chesterton đưa ra hàng loạt các tư tưởng không bền vững và các giáo phái đã suy tàn nhanh chóng: Thuyết Quyền Thánh của Vua do những người Anh giáo đầu tiên dưới triều Tudor và Stuart lập ra để biện minh cho việc tách vương quyền khỏi thần quyền, Chủ nghĩa Calvin cực đoan được những người Thanh giáo sử dụng để chống lại cả nhà vua và giáo hội Anh, phái Bãi Tượng (những người chủ trương phá huỷ tượng thánh), phái Jansen (tin vào sự sa ngã hoàn toàn của con người và có xu hướng khắc khổ, nghiêm khắc và bài trừ mọi hình thức giải trí mà họ cho là phù phiếm), phái Albigensian (chủ trương nhị nguyên luận, tin rằng thế giới vật chất là xấu xa, do một vị thần xấu xa tạo ra, còn thế giới tinh thần là tốt đẹp, do Chúa trời tạo ra. Họ khinh thường thân xác, chống lại việc sinh sản, và tin rằng cái chết là sự giải thoát khỏi nhục thể), hay Lollards (phong trào cải cách tiền Kháng Cách ở Anh hoạt động trên giáo lý cực đoan là Thuyết Thống trị dựa trên ân điển). Đưa hàng loạt các ví dụ trên, tác giả muốn nói rằng trong hầu hết trường hợp, Giáo hội chỉ đơn giản đứng về phía lý trí và sự cân bằng xã hội chống lại những lạc giáo, vốn đôi khi rất giống những kẻ điên rồ. Giáo hội Công giáo, qua các thời kỳ, đã đóng vai trò như một tâm trí tồn tại sau một trăm tâm trạng – một thể chế ổn định và khôn ngoan vượt lên trên mọi trào lưu cực đoan và sai lầm của từng thời đại.
[10] (ND) Trường phái Manchester (giữa thế kỷ 19) ủng hộ chủ nghĩa tư bản laissez-faire tự do không kiểm soát, chống lại mọi sự can thiệp của chính phủ hay các quy định bảo vệ người lao động. Vào thời đó, đây là một học thuyết kinh tế rất thời thượng và mạnh mẽ.
[11] (ND) Chủ nghĩa Xã hội Fabian (vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20) là một phong trào ủng hộ việc xã hội hóa dần dần và bằng cách ôn hòa.