favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2024
Next

Cahiers: Một tháng

08/03/2025 12:02

Như vậy là tiếp tục Cioran (kỳ gần nhất ở kia) và cũng tiếp tục chủ đề correspondence.

Không chỉ viết thư, Cioran còn viết nhật ký: một chân dung trong thời gian, rất khác Cioran tiểu luận gia. Duy trì suốt mười lăm năm (một mười lăm khác, sớm hơn chừng hai mươi năm), những quyển sổ của Cioran được tập hợp trong Cahiers 997 trang, xuất bản cuối năm 1997, hai năm sau khi Cioran mất. Nhật ký kết thúc hơn hai mươi năm trước đó, năm 1972 (về đoạn cuối của Cioran, xem ở kia). Năm 1973, Về nỗi bất tiện bị sinh ra xuất bản. Năm 1986 là Tập ngưỡng mộ - quyển gần cuối cùng.  

Dưới đây là một tháng cahiers - tháng đầu tiên của năm 1969. Lúc này Cioran 58 tuổi, đã ở Paris hơn ba mươi năm. Một lần nữa, giống hệt thời điểm Tàn hủy yếu lược (1949), Cioran lại không có một tạp chí nào để đăng bất cứ điều gì, hoàn toàn bị cắt đứt khỏi văn giới. Đây cũng là thời điểm Cioran bắt đầu không thể chịu nổi một số thầy cũ, đặc biệt là Nietzsche. Lịch sử và phi lai (1960) được dịch sang tiếng Đức và tiếng Ý: cơ hội tuyệt vời để kiểm tra giới phê bình học giả, nhưng cũng để nhìn lại (rétractation): “Tôi thay đổi rồi, tôi không còn như vậy nữa.”

Trong Cahiers, Cioran ghi lại không ít cú tự sát của những người bạn. Một người bạn của Cioran tự sát tại Paris vào năm 1970 (nhảy từ trên cầu xuống sông Seine): Paul Celan.

Sau khi Cioran mất, Simone Boué, người phụ nữ sống cùng Cioran nhiều năm đã sắp xếp giấy tờ và quyết định cho in hơn ba mươi quyển sổ. Sau khi viết lời tựa, Simone cũng đột ngột qua đời, không kịp xem bản in thử Cahiers. Dưới đây là lời tựa ấy.  

 

Lâu nay, trên bàn Cioran có một cuốn sổ lúc nào cũng đóng.

Khi ông qua đời, trong lúc tập hợp các bản thảo để gửi cho Thư viện Doucet, tôi đã tìm thấy ba mươi tư cuốn sổ giống hệt nhau. Chỉ có bìa của chúng là khác nhau, với số thứ tự và ngày tháng ghi trên đó. Những cuốn sổ này bắt đầu từ ngày 26 tháng Sáu năm 1957 và kết thúc vào năm 1972.

Suốt mười lăm năm, Cioran luôn giữ một trong những cuốn sổ ấy trên bàn làm việc, trong tầm tay, trông như thể lúc nào cũng là cùng một cuốn. Tôi chưa từng mở chúng ra. Trong đó có những đoạn thường ngắn gọn (“Tôi có mảnh găm trong máu”), phần lớn không đề ngày tháng. Chỉ những sự kiện được xem là quan trọng mới ghi ngày - những chuyến dạo về miền quê và những đêm mất ngủ - chẳng hạn: “Chủ nhật, ngày 3 tháng Tư. Đi bộ suốt cả ngày quanh vùng Dourdan...” “10 tháng Tư. Đi dọc kênh Ourcq.” “24 tháng Mười một. Một đêm kinh hoàng.” “4 tháng Năm. Một đêm khủng khiếp.” Dù lặp lại và đơn điệu, tôi vẫn giữ lại tất cả những đoạn này, vì những điệp khúc ấy có ghi ngày tháng.

Những cuốn sổ của Cioran không phải là một nhật ký ghi tỉ mỉ mọi sự kiện trong ngày - dạng nhật ký ông không hề hứng thú. Chúng mang dáng những phác thảo và bản nháp. Nhiều suy tư, nhiều đoạn rời rạc trong đó xuất hiện nguyên vẹn trong các tác phẩm của ông. Một số ghi chép được đánh dấu thập đỏ bên lề hoặc đóng khung, dường như để dành cho một dịp nào đó.

Tháng Sáu năm 1971, ông viết: “Tôi đã quyết định tập hợp những suy nghĩ rời trong ba mươi hai cuốn sổ này. Phải hai hoặc ba tháng nữa, tôi mới biết liệu chúng có thể tạo thành lõi của một cuốn sách hay không (tựa có thể là Interjections hoặc L’erreur de naître).”

Những cuốn sổ này không chỉ là bản nháp mà còn là sổ tay luyện tập. Cùng một suy tư có thể xuất hiện ba, bốn lần dưới những hình thức khác nhau, được mài giũa, tinh lọc, luôn luôn với cùng ám ảnh về sự ngắn gọn và súc tích.

Tháng Mười hai năm 1969, Cioran ghi: “Tôi sẽ bám chắc những cuốn sổ này, vì chúng là liên hệ duy nhất của tôi với viết. Đã nhiều tháng nay tôi không viết gì cả.” Và ông thêm vào: “Nhưng bài tập hằng ngày này có ích, nó giúp tôi đến gần hơn với các từ, trút vào đó những ám ảnh cùng phấn hứng […] Vì chẳng có gì khô khốc và vô nghĩa hơn là cứ mãi đuổi theo một ‘ý’.”

Từ đó xuất hiện những giai thoại, những ký ức về các cuộc gặp, những chân dung - hay đúng hơn là những phác thảo sắc bén, đôi khi tàn nhẫn - về bạn hoặc thù, được ám chỉ bằng chữ cái đầu hoặc chỉ cần dấu X. Một số cái tên ban đầu được viết đầy đủ nhưng sau đó bị gạch bỏ hoàn toàn, như thể Cioran, bằng cách giữ kín danh tính, muốn bảo vệ những người mà ông công kích hoặc chế giễu. Có phải ông có nghĩ rằng một ngày nào đó những trang này sẽ được đọc?

Trên bìa các cuốn sổ I, II, IV, VIII, X, có dòng: “Cần hủy.” Trên cuốn đầu tiên, cũng như cuốn VIII và X,  Cioran còn viết thêm và gạch chân: “Tất cả những cuốn sổ này phải bị hủy”. Thế nhưng, ông vẫn giữ chúng lại, sắp xếp cẩn thận… Những cuốn sổ này đã giúp ông giải quyết niềm hận thù với thế giới, và quan trọng nhất là với chính mình. Ngày qua ngày, ông ghi lại những thất bại, khổ đau, lo âu, kinh hoàng, phẫn nộ, nhục nhã. Đằng sau những trang nhật ký tuyệt vọng ấy, hình bóng một Cioran châm biếm, dí dỏm, linh hoạt và biến hóa dần mờ đi. Nhưng chẳng phải ông đã nhiều lần khẳng định rằng mình chỉ cầm bút khi cảm thấy muốn “tự kết liễu” hay sao?

Những sự kiện mà ông thuật lại, những cảnh mà ông tả (chẳng hạn tin báo về cái chết của mẹ ông), có những cảnh tôi cũng từng chứng kiến, và ký ức của tôi về chúng đôi khi rất khác lời kể của Cioran. Bởi vì ông đã kinh nghiệm và cảm nhận tất cả một mình. Bởi vì, bất cứ lúc nào, ở bất kỳ đâu, ông cũng luôn ĐƠN ĐỘC.

ĐƠN ĐỘC khi sống và ĐƠN ĐỘC khi chết.

Vào thời điểm người ta đưa lên giàn hỏa thiêu chàng trai trẻ từng là kẻ khiêu khích điên rồ của một quá khứ xa xăm, khi các phân tích về tác phẩm của ông xuất hiện, khi những nghiên cứu được gọi là khách quan ra đời và cả bầy đạo đức giả gầm rú - vòng tròn đã khép. Đơn độc khi sống, và trong cái chết, càng đơn độc hơn.

Tháng Sáu năm 1995, Fernando Savater viết trên El País một lời tiễn biệt xúc động, kết thúc bằng câu: “Nơi anh sắp đến, anh phải bước một mình” (Tienes que bajar solo). Tôi cũng nhớ đến nhan đề mà Nhà xuất bản Humanitas đã dùng vào năm 1990 khi tập hợp một số bài viết thời trẻ bằng tiếng Romania của ông - một nhan đề đẹp, đối với tôi, tóm gọn con người Cioran: Singurătate și Destin – ĐƠN ĐỘC VÀ ĐỊNH MỆNH.

Simone Boué

 

 

Ngày 1 tháng Giêng năm 1969

            Tôi đi dạo giữa Étréchy và La Ferté-Alais. Tuyết và sương, lớp sương dịu đến mức những hàng cây trông như những làn khói bất động. Hiếm thấy cảnh nào thi vị đến thế. Mọi thứ đều phi thực - đường vắng ngắt, vì băng còn đóng dày.

Ghé vào một quán trên Villeneuve-sur-Auvers, nghe Those Were the Days, một khúc nhạc cũ của Mỹ (hay Anh?). Điệu luyến tiếc của nó gây xúc động không thể lý giải.

Tối qua, ở nhà Corbin, tôi nghe Concerto số 3 cho piano của Rachmaninov. Ngoài vài khoảnh khắc thực sự đẹp, phần lớn là sự lấp đầy vô nghĩa. Ngày càng không thể chịu đựng nổi sự dông dài trong âm nhạc - và tất nhiên, cả văn chương. Chỉ trừ những người thực sự vĩ đại, còn thì ai cũng cố làm phình ứ một văn bản hay bản nhạc. Không thể chấp nhận bất cứ điều gì là đương nhiên. Khắp nơi toàn những giá trị đáng ngờ. Thế giới này là vương quốc của những thứ rỗng tuếch.

Không đọc nổi Nietzsche nữa, cũng chẳng còn quan tâm. Ông ta có vẻ quá ngây thơ. Đã lâu rồi tôi không còn ngưỡng mộ ông ta. Một thần tượng lại sụp đổ. Nietzsche cũng chìm đắm trong dông dài, trong những hoành tráng mơ hồ.

Khoảng ba năm trước, Pierre Oster, một nhà thơ trẻ, đã đến nhờ tôi viết lời tựa cho tập thứ sáu trong Toàn tập của Paulhan. Tôi từ chối. Lúc đó, tôi coi Paulhan là kẻ thù và không còn gặp lại ông ta. Tôi nói với mọi người rằng chúng tôi đã tuyệt giao, rằng Paulhan quá hiếu thắng.
            Thế rồi, hôm nọ, tôi gặp lại Pierre Oster, và gần như quy trách nhiệm cho anh ta về sự rạn nứt này. Tôi hỏi anh ta đã trình bày lời từ chối của tôi với Paulhan như thế nào. Anh ta nói rằng đã không hề nhắc đến chuyện đó, rằng Paulhan đã chỉ đưa ra một danh sách tên, trong đó có tôi, và rằng Paulhan chưa bao giờ biết đến lời từ chối của tôi.
            Vậy là suốt ba năm qua, tôi đã sống với nỗi đinh ninh về sự trả thù của Paulhan - nhưng hóa ra sự trả thù ấy chỉ là một ảo ảnh chính tôi dựng lên, trong đầu mình.

 

Ngày 2 tháng Giêng năm 1969

“Cuộc đời tôi là sự do dự từ trước khi sinh ra.” (Kafka)
            … Đó là cảm giác tôi luôn mang.
            Tôi nhớ rất kém về con người và nơi chốn. Làm sao tôi có thể trung thành với chúng? Lòng trung thành đòi hỏi một trí nhớ tốt. Trí nhớ là điều kiện và nền tảng của đời sống đạo đức.
            Người ta cũng có thể nói rằng trí nhớ là căn nguyên của mọi tình cảm tồi tệ, bắt đầu từ lòng thù hận. Ai có thể quên và tha thứ? Những kẻ có trí nhớ khiếm khuyết, không bảo lưu hết các tổn thương.
            Trung thànhoán hận có cùng nền tảng. Ai có khả năng với cái này thì cũng có khả năng với cái kia. Những tinh thần lang thang, bông lông (những người nhảy nhót qua cuộc đời) thì không có khả năng đó. Họ chẳng chết vì ai, cũng chẳng giết ai.

Khi còn viết bằng tiếng Romania, tôi nghĩ mình nên viết một ngôn ngữ khác, có thể là tiếng Đức hoặc tiếng Pháp. Tôi đã chọn tiếng Pháp. Giờ, sau nhiều năm dùng nó, tôi lại muốn bỏ nó để chuyển sang tiếng Anh…

Lúc nãy tôi nói với Piotr Rawicz: “Ngay khi được trả lương, người ta trở thành người Pháp.”
            Nhưng đáng tiếc đó không phải là trường hợp của anh ta, cũng không phải của tôi.
            Tôi cũng nói với anh ta rằng có nhà là nguy hiểm. Kể từ khi có một căn hộ, tôi đã ngừng viết. Trong điều kiện bình thường, ít nhất người ta cũng phải mắc động kinh thì mới làm được điều gì đó giá trị.
            Bất an đồng nghĩa với năng lượng.

Người ta bảo tôi nên đi dạy ở một trong những khoa vừa thành lập. Tôi cũng không phản đối. Nhưng dạy gì đây? Dạy suy nhược thần kinh chăng? Đó có lẽ là lĩnh vực duy nhất mà tôi có thể tự nhận là chuyên gia và có chút thẩm quyền.

 

Ngày 4 tháng Giêng

Tôi có một bản tính hoàn toàn không lòng tin, đồng thời lại hoàn toàn tôn giáo: tôi không có bất kỳ xác tín nào và có thể nói, như Người Khác, rằng vương quốc của tôi không thuộc về thế giới này.
            Tôi nghĩ đến vài người quen: những người vui vẻ, đầy năng lượng - ít nhất là khi ở ngoài xã hội. Nhưng khi ta gọi điện cho họ, bắt chợt họ trong khoảnh khắc không đề phòng, giọng họ bỗng xỉn đục, như tiếng thì thào khản đặc của một bóng ma. Thế thì đâu mới là con người thực? Ở ngoài hay một mình?

Người gây hại cho tôi nhiều nhất là Valéry. Tôi đã từng ngây thơ tin, như ông ta, rằng ngôn ngữ là tất cả. Nhưng đó là một mê tín của người Pháp. Không, ngôn ngữ không phải là tất cả, thậm chí gần như chẳng là gì. Một Dostoyevsky hay một Tolstoy còn chẳng bận tâm đến nó. Nếu có điều gì cần nói, người ta nói, thế thôi. Mải miết theo đuổi sự nói hay là một sự vô ích kinh khủng. Saint-Simon chưa từng suy tư về ngôn ngữ. Nhưng mặc cho điều đó - hay đúng hơn, chính nhờ vậy - ông ta có lẽ là nhà văn Pháp mạnh nhất. Suy tư về “viết” chẳng khác nào một sự thiến hoạn. Văn chương của kẻ bị thiến. Nỗi ám ảnh về diễn đạt khiến người ta thành ra bất lực.

Mọi ảnh hưởng mà ta tiếp nhận, nếu kéo dài quá lâu, cuối cùng sẽ thành độc tố và gây khô kiệt sức sản sinh. Lòng căm ghét của kẻ học trò đối với bậc thầy là một dấu hiệu của sức khỏe. Người ta chỉ trở thành chính mình khi cắt đứt khỏi ảnh hưởng - với điều kiện sự khước từ ấy bắt nguồn từ một nhu cầu sâu thẳm, một tiếng gọi nội tâm, chứ không phải từ mỏi mệt hay ngạo mạn (như phần lớn những cuộc giải phóng văn chương và triết học).
            “Kẻ đã dạy ta quá nhiều, ta sẽ không bao giờ tha thứ,” người học trò lẩm bẩm khi nhìn ông thầy bước đi. Chịu ảnh hưởng tức là thừa nhận rằng có kẻ khác đang làm thay cho ta.

Kafka: Do Thái và bệnh tật - vậy là ông ta vừa Do Thái gấp đôi, vừa bệnh tật gấp đôi.

Nếu tôi là người Pháp, tôi nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ quan tâm đến viết. Nhưng đó là bi kịch của kẻ ngoại tộc, kẻ không ngừng ý thức rằng mình đang dùng một ngôn ngữ không phải của mình. Sống trong một đất nước mà người ta coi trọng lối hành văn càng làm mọi thứ tồi tệ hơn.
            “Phong cách” thuần túy là dối trá.
            Độc giả nào cũng là một kẻ ký sinh không tự biết.
            Bất cứ ai cũng có thể làm (cái từ!) sách. Thực tế là gần như ai cũng cố và đều ít nhiều thành công.
            Nhưng một cuốn sách không nên chỉ trình bày hay giải quyết một vấn đề. Một cuốn sách phải là một thách thức, một tối hậu thư, một lời tuyên chiến. Gửi đến ai? Đó là bí mật mà chỉ tác giả mới biết - nếu mà biết. Hầu hết các cuốn sách đều vô dụng, bởi thiếu chính cái bí mật ấy.
            Thế nào là một tác phẩm? Đó là sự vật lộn của một cá nhân với vũ trụ. Nhưng nếu hắn chẳng vật lộn gì cả thì sao? Vậy thì chẳng có tác phẩm nào, chỉ có sản phẩm. Mà ai cũng có thể sản xuất ra một thứ gì đó.

Cần phải viết lời giới thiệu cho Mauvais démiurge. Nhưng vừa đọc lại - đọc lướt - chương đầu, chương đặt tên cho cả cuốn sách. Một chuỗi tuyên bố dồn dập, nằm đâu đó giữa bức thư của thánh Phaolô (!) và bài báo. Một thứ thần học rẻ tiền, nhưng dẫu sao nó cũng xuất phát từ tận cùng tôi.

Máu sôi lên khi ta bị hạ nhục, khi ta thấy xấu hổ. Những triệu chứng hệt như cơn khát báo thù.

Đi ngang một nghĩa trang, tôi nghĩ: Ở đây không còn tham vọng, không còn thất vọng, không còn đau đớn, không còn thù hận, không còn gì…
            Có người sẽ đáp: “Không còn hạnh phúc, không còn niềm vui, v.v.” Nhưng so với những vết nhức nhối, rõ ràng và hữu hình mà bất hạnh để lại, những dấu tích của thiên đường kia có đáng kể gì?
            Mọi sinh thể đều mang dục vọng - và đó là lời nguyền của chúng. Chính vì có dục vọng, ta mới cảm nhận được nỗi nhục và xấu hổ. Tôi chỉ thấy thanh thản khi các dục vọng của mình ngủ quên.
            Nhưng ngay khi chúng thức dậy, bất an lại trở về. Cái gọi là bản năng sinh tồn thực chất cũng chỉ là một dạng dục vọng - ở cấp độ thấp nhất, phổ quát nhất. Cả con chuột chũi đào đường hầm dưới đất cũng mang dục vọng. Dục vọng ở khắp nơi - trừ trên khuôn mặt xác chết.

Một khi chạm đến tận cùng, tất cả sẽ nổ tung. Rồi sau đó, chẳng còn gì chuyển động.

 

Ngày 7 tháng Giêng

Trên phố Rue de l’Ancienne-Comédie, người ta đang dỡ những thùng rượu. Một gã lang thang đi ngang qua và vác một thùng lên vai. Một cảnh sát chặn lại. Chín giờ sáng đã say mèm! Khi viên cảnh sát, trước mặt những người chứng kiến, gọi hắn là “tên này”, hắn nổi xung:
              “Tên này, tôi sao?”
              “À, tôi muốn nói… ông này,” viên cảnh sát chỉnh lại.
            Gã say xỉn trông thảm đến mức tôi không thể không cảm thấy một cơn rùng mình thương hại.
            Khi cảm thấy mình chạm đáy, khi thấy mình quá khốn khổ, tôi thường tự an ủi: “Bình tĩnh, vực lại tinh thần, mày đã có thể - thậm chí suýt nữa đã - trở thành đồ nát rượu.”

Một sử gia nhận xét rất đúng rằng các Kitô hữu đầu tiên không khó chịu khi bị nhầm với người Do Thái, bởi vì tôn giáo của người Do Thái được luật pháp của Đế chế La Mã công nhận. Nhưng sử gia cũng chỉ ra rằng đồng thời, các Kitô hữu cũng phải chịu chung sự ghét bỏ mà mọi thứ liên quan đến Do Thái giáo đều vướng vào.

Mất ngủ. Giữa đêm, tôi thấy mình tự sản sinh những cơn đau.

Chính trong các cuộc đàn áp của Nero mà sự chia rẽ giữa Kitô hữu và người Do Thái trở nên rõ ràng. Nero chỉ đàn áp Kitô hữu.

Nghe tiếng mưa - tự nó đã đầy đủ. Tôi không thấy lý do để nghĩ đến bất cứ điều gì.

Hầu như mọi kinh nghiệm đều là hoàn chỉnh, nghĩa là không có lý do gì để thử một kinh nghiệm khác. Điều này đúng trên lý thuyết.

Ai cũng từng có một kinh nghiệm phi thường - dù là hạnh phúc hay bi kịch - mà ký ức quá sâu đậm sẽ trở thành chướng ngại lớn nhất ngăn cản cuộc biến đổi bên trong của họ.

 

Ngày 8 tháng Giêng

Đọc mấy bài thơ của Akhmatova - một bản dịch tệ. Nhưng có hề gì. Chỉ luồng hơi và lực là đáng kể. Nghĩ đến những bài thơ trong giai đoạn Stalin, những bài tuyệt vọng nhất. So với chúng, những trò tìm tòi hình thức của thơ ca Pháp đương đại thật tầm thường, thậm chí lố bịch.

 

Ngày 9 tháng Giêng

Một kỹ sư trẻ từ Romania gửi thư chúc mừng năm mới - bằng thư bảo đảm! Anh ta mong tôi được giải Nobel… Đồng bào tôi, nhìn chung, là những kẻ thật đáng thương. Linh cảm sơ khai mà tôi từng có về đất nước mình - về sự vắng mặt của một định mệnh - càng lúc càng có vẻ đúng. Giữa chừng, tôi đã tự ru ngủ mình bằng ảo tưởng nhờ vài cuộc gặp may mắn.

Một cá nhân, cũng như một dân tộc, chỉ có giá trị khi đã bị đánh bại. (Tôi nghĩ đến người Do Thái.)
            Ngay khi ai đó đạt được thành công, họ không còn chút hấp dẫn nào. Điều duy nhất đáng quan tâm ở người Đức, trong hai cuộc đại chiến vừa qua, chính là sự chắc chắn gần như tuyệt đối rằng họ đang lao vào thảm họa.
            Điều này không liên quan gì đến sự mê hoặc của thất bại vì chính nó, mà là một chuyện cốt yếu hơn nhiều: trong thất bại, bản tính và sự thật của một con người mới lộ ra. Khi ấy, hắn thực sự là chính mình - không còn ảo tưởng hay kiêu ngạo của thành công. Thế nên một anh hùng chỉ thực sự là anh hùng trong khoảnh khắc sụp đổ - đó là hình phạt vinh quang của hắn.
            Nói cách khác, sự thật nằm trong đau khổ, hay đúng hơn, đau khổ chính là sự thật.
            Tôi đọc đâu đó rằng ở Ấn Độ, một Rousseau hay một Schopenhauer sẽ không được xem trọng, vì họ sống trong mâu thuẫn với tư tưởng của chính mình. Nietzsche cũng không được xem trọng, vì những “lý tưởng” của ông ta hoàn toàn trái ngược với con người ông ta. Quả thật, Nietzsche chưa bao giờ tìm được chỗ đứng ở Ấn Độ. Nhưng ở phương Tây, chiến thắng của ông ta lại đến chính từ mâu thuẫn giữa cuộc đời và tư tưởng. Vì sao? Bởi vì chính mâu thuẫn ấy mở ra vô số ngóc ngách tâm lý để khai thác, để tiếp tục diễn giải không ngừng. Ta có thể gọi cái đó là tiểu sử của một tư tưởng, hay dục vọng trí tuệ đối với giai thoại.

Niềm hạnh phúc của cái chết không để lại hậu thế.

Plotin, theo lời Porphyre, từng kết thân với một nguyên lão La Mã, người đã giải phóng toàn bộ nô lệ, thanh lý nhà cửa cùng tài sản, và từ đó sống nhờ lòng hiếu khách của bạn bè, vì ông ta không còn sở hữu gì… Thượng nghị sĩ ấy là một bậc hiền triết? Một vị thánh? Hay chỉ là một kẻ sa đọa? Dưới góc nhìn của Đế chế, hẳn ông ta là một kẻ sa đọa, nhưng cái nhìn của Plotin chắc chắn hoàn toàn khác - và đó là cái nhìn duy nhất đáng quan tâm. Vạn tuế sự sa đọa, nếu nó có thể tạo ra những con người bậc này.

Thống chế Antonescu - có thể là một người điên - nhưng dù sao cũng đã thể hiện sự khôn ngoan và lòng nhân đạo: ông ta đã cứu sống ít nhất sáu trăm nghìn người Do Thái Romania. Vậy mà không một lời tri ân, không một tượng đài, không một con đường nào ở Israel mang tên ông ta.

Đọc một bài thơ xé lòng của Nelly Sachs, Chor der Geretteten (Hợp xướng của những người được cứu).

G. B. thư rằng anh trai tôi đã bày ra trước mặt anh ta và kể lại (hay thổ lộ?) tất cả những gì tôi đã nghĩ, đã viết, cũng như mọi thứ đã được xuất bản về tôi cho đến khi tôi rời Romania. Tôi cảm thấy như thể mình đã chết

Hư vô là chiều siêu hình của im lặng.
            (hoặc: hư vô là cực điểm của im lặng.)
            Heidegger nói về Hữu thể với cùng giọng mà trước đây người ta từng nói về Chúa. Thực ra suốt một thế kỷ qua, về cơ bản người ta chỉ thay Chúa bằng những khái niệm khác.
            Mọi chữ viết hoa đều là thay thế cho Chúa.

Trong một bản dịch thư của Pessoa, người ta dùng từ khủng hoảng tâm lý, nhưng đáng lẽ phải là khủng hoảng đạo đức, vì đây không phải cơn nản lòng đơn thuần mà là một sự suy xét thái độ của mình với đồng loại. Ở Pessoa, đó gần như là kiểu khủng hoảng của Tolstoy - khủng hoảng đạo đức.

Thử đọc Thư của Broch. Không thú vị mấy, lại còn dịch kém. Dịch giả không thực hiện bất kỳ sự chuyển dịch nào, không tìm kiếm bất kỳ tương đương nào - thuần túy là tiếng Đức bê nguyên sang tiếng Pháp.

Tôi là người của những điệp khúc cũ kỹ, tôi yêu thứ u sầu thô lậu, thậm chí tàn tạ. Nó khiến thần kinh tôi đau buốt, nhưng cũng đưa tôi vào một trạng thái siêu hình mãnh liệt.
             Mọi câu hỏi siêu hình lớn lao đều bắt đầu từ một cơn trầm cảm.

Khao khát được thoát khỏi chính mình, không dừng lại, được đi xa hơn tất cả những ranh giới mà con người từng vượt qua, được xé mình cả khỏi vương quốc của suy nghĩ.

Một nỗi tuyệt vọng “không nguyên cớ”, không phải nhận thức về bất hạnh, không phải cảm giác sa sút - nỗi tuyệt vọng thuần - và một lần nữa, sự chắc chắn, không hề buồn bã, rằng tự sát là lối thoát duy nhất, là niềm an ủi duy nhất, là cánh cửa, cánh cửa lớn nhất. Sang phía bên kia bằng cách băng qua cái chết.
            Nỗi tuyệt vọng không làm tôi suy sụp, nó nâng tôi lên. Tuyệt vọng không phải là sự héo úa mà là ngọn lửa, ngọn lửa xuyên thấu huyết quản.

Càng nghĩ về những nơi gắn với quá khứ của mình, tôi càng ít muốn trở lại đó. Tôi muốn thoát khỏi quá khứ, nhưng nó bám riết lấy tôi, kéo tôi lại phía sau - và càng nhoài chạy về phía trước, tôi càng thấy mình gần với điểm bắt đầu.
            Cuối cùng, mọi cuộc đời đều quay về khởi điểm - cái điểm lẽ ra không bao giờ nên rời xa.

 

Ngày 11 tháng Giêng

Trên Match, một bức ảnh Trái Đất - do các phi hành gia chụp lại. Cái quả cầu nơi chúng ta giãy giụa, đau khổ, xâu xé lẫn nhau, nó bé làm sao! Và trên đó, người ta sống, người ta chết! Kể từ bây giờ, trước bất cứ lo âu hay muộn phiền nào, ta nên nghĩ đến nó - đến sự bé mọn của nó. Dẫu sao thì đó cũng là điều tôi vẫn luôn làm, ít nhiều, với một thành công hết sức tương đối.

Một nhà phê bình Mỹ, khi viết về Cám dỗ tồn tại, gọi tôi là “Bédouin của suy nghĩ.”

Liệu Pascal có phải là tiên phong?

Tôi nhận thấy rằng chỉ lũ ngẫn mới tin vào tiên phong và bọn khôn ranh mới nói về nó. Chưa bao giờ tôi thấy một trí tuệ nghiêm túc nào để tâm đến nó, dù chỉ tí ti.

 

Ngày 11 tháng Giêng

Cocktail do Germaine Bré tổ chức tại nhà bà Marks - trò chuyện với bà ta về Cái Chết, chủ đề bà ta đang ngẫm nghĩ dạo này. Tôi đã muốn nói với bà ta rằng, chính vì cái chết, tôi chưa bao giờ có thể làm bất cứ điều gì với xác tín trọn vẹn. Tôi luôn sống bên ngoài, chưa bao giờ đồng nhất mình với bất kỳ quan điểm nào tôi từng rao giảng. Cái chết tạo ra những khoảng cách vĩ đại nhất. Chính vì nó, ta không bao giờ thực sự trong cuộc. Trong mọi sự gặp, ta luôn mang dáng vẻ kẻ ứng biến, kẻ sống sót, kẻ vừa bắt đầu và… Chuyện này khiến tôi phá hỏng tất cả, nhưng đồng thời cũng giúp tôi chịu đựng tất cả. Chỉ cần nghĩ đến nó thôi là có thể chấp nhận mọi nỗi đau khả dĩ.

Người ta nói mãi về thành công, thành công.
            Nhưng mỗi khoảnh khắc qua đi đều là một thất bại. Tôi tin rằng bản tính của thời gian chính là thất bại, và nhờ thế thời gian mới trở nên mãnh liệt và cuốn hút. Ta không biết thất bại ấy sẽ mang hình hài nào, không biết gương mặt của nó. Và sự mù mờ này tạo nên nỗi hấp dẫn của sống.

Tôi chưa bao giờ quá quan tâm đến ý tưởng hay niềm tin của một ai đó. Tôi chỉ quan tâm họ gì. gì mới quan trọng, không phải tin gì hay nghĩ gì.
            Người Công giáo, người Tin lành, người Do Thái - không, điều quan trọng là một con người thực sự gì. Những thứ còn lại là phù phiếm. Nhưng đáng tiếc, thế giới này chỉ quan tâm đến những còn lại ấy.

 

Ngày 12 tháng Giêng

Năm giờ đi bộ trong rừng Rambouillet. Đêm xuống, những hàng cây - trơ trụi và đen sẫm - tựa như những lời cầu nguyện bị đóng băng.

Trong đêm, khu rừng là một lời van xin câm lặng.

 

Ngày 13 tháng Giêng

Klett gửi các bài báo viết về ấn bản tiếng Đức của Lịch sử và phi lai .
            Vẫn thế: toàn là trí thức đại học. Tiêu chí sư phạm. Giáo sư đến xương tủy. Một dân tộc của rao giảng. Bởi thế mà xuẩn và ngẫn, thứ trưởng giả học làm sang nực cười. Chỉ vì trong giới thiệu, nhà xuất bản đã có ý so sánh tôi với Nietzsche - một sự khiếm nhã - thế là tất tật các bài điểm sách cứ xoáy vào việc đập tan so sánh ấy, trong khi chỉ cần lờ nó đi  thôi. Đó là thói dễ dãi của những bộ óc nặng nề, vụng về trong tư duy.
            Và bọn họ cứ phải dán cho tôi một cái nhãn mới chịu nổi. Nihilismus, nihilismus. Nếu phải chọn thì người Pháp vẫn hơn.
            Hai nhận định mâu thuẫn khiến tôi chú ý: một nói rằng tôi đi trước thời đại, một bảo tôi chỉ là kẻ theo đuôi thế kỷ XIX.

Vậy tôi là gì? Một “tư tưởng gia” của nỗi nhục. (Hay đúng hơn, tôi muốn trở thành như vậy, chứ chưa là vậy. Nhưng có lẽ tôi chính là như vậy.)
            Trong các bài điểm sách về tôi, người ta thường tận dụng chính những mũi dao tôi đã tự chĩa vào mình. Không gì hèn hạ và ngu xuẩn hơn việc khai thác sự tự trào của kẻ khác để đè bẹp hắn.

 

Ngày 14 tháng Giêng

Tod und Verklärung (Cái chết và sự chuyển hóa).
            Cái chết đúng là có một khía cạnh của sự siêu vượt, nhưng khía cạnh hạ nhục lại hiển nhiên hơn, phổ biến hơn.
            Chết: giải thoát hay nhục nhã?

Từ Cocteau - kẻ mà tôi luôn khinh miệt - tôi tìm thấy trong lá thư mà một tạp chí vừa công bố nhận xét này: “Đừng bao giờ nghĩ đến vinh quang, đó là một trò đùa hay ho. (Người ta chẳng thể nào tưởng tượng được một bông hoa lại mơ được cắm vào một cái bình…)”

Đọc một bài viết về Armand Robin, trong đó người ta bảo ông ta nói được ba mươi thứ tiếng. Nhưng những thứ tiếng ấy, ông ta chỉ đọc được chứ không nói được một tiếng nào. Ông ta từng thú nhận với tôi rằng mình không thể biểu đạt bằng bất kỳ ngôn ngữ nào ngoài tiếng Pháp. Ông ta thực chất không rành hết những ngôn ngữ ấy nhưng lại có một năng lực tuyệt vời trong việc đoán hiểu.

Cái câu “Tất cả và không gì hết”, nếu dùng được cho bất cứ thứ gì thì chính là tình dục - hay cụ thể hơn, cực khoái.

Một chi tiết vô cùng quan trọng: mẹ của Churchill, một phụ nữ New York, có dòng máu người da đỏ.

Về viết (!), tôi có thể tự hào về một thành tựu kép: tôi đã thoát khỏi thứ biệt ngữ triết học (gốc Đức) và những kiểu cách văn chương (Valéry, v.v.)…

Tôi không có ơn gọi tâm linh. Tôi sinh ra chỉ để chịu đựng ở thế giới này, không hơn.
            Có hai kiểu nổi dậy trong lịch sử: nổi dậy của kẻ bị bóc lột và nổi dậy của kẻ ký sinh. Cần phải phân biệt chúng.

Một lần, tôi hỏi Armand Robin tại sao ông không dịch Trang Tử. Ông ấy nói rằng có thể sẽ, một ngày nào đó - ông ấy xem Trang Tử là nhà thơ vĩ đại nhất từng có trên đời. “Ông sẽ so sánh Trang Tử với điều gì?” tôi hỏi. “Với những cảnh trơ trọi của miền bắc Scotland. Thế giới này không có gì đẹp hơn,” ông ấy đáp.
            Tôi nói rằng tôi từng thấy những cảnh ấy. Ông có vẻ xúc động.

 

Ngày 16 tháng Giêng

Lòng kiêu hãnh Do Thái và lòng kiêu hãnh Đức - cùng tồn tại!
            (Chính kết hợp phi thường này khiến tôi vô cùng ngưỡng mộ những người Do Thái Đức.)

Hôm trước tôi đã nhắc đến triết học lịch sử của Hesiod. Và đúng vậy, tôi thấy nó “chính xác”, “hiện thực” hơn triết học lịch sử của Hegel. Nó giúp ta hiểu dễ dàng hơn những gì không yên ổn trong tiến hóa của nhân loại, so với sơ đồ Hegel - một thứ áp đặt lên lịch sử con người, đơn giản đến khó tin, dù được bao phủ bởi một màn sương cố ý gây tối nghĩa.

Một giấc mơ dài, đẹp siêu thực. Một dãy núi hiện ra - đẹp hơn có bao giờ tôi từng thấy, một thiên đường. Tôi đã lấy những kỳ quan ấy từ đâu? Và làm sao chúng có thể thoát ra từ bộ óc tôi, nơi chỉ chất chứa những điều u ám?

Bệnh tật khiến con người trở nên hận thù. Vì sao? Vì nó là một thất bại không ngừng.

Tôi không phải là nhà tư tưởng, cũng không phải là con người hành động (!), không, không, không, không - bất cứ thứ gì người ta muốn gán cho tôi - tôi chỉ là kẻ hát bi ca về sự kết thúc của thế giới.

Mọi thứ phân rã đều gần với thơ.
            Hai từ cầu nguyệnkhóc vẫn còn có nghĩa đối với tôi. Nhưng đối với khái niệm, tôi chưa bao giờ đối xử với nó như một công dân có trách nhiệm. Ở nhiều phương diện, tôi thuộc về một giai đoạn “đã bị vượt qua” của con người.

Armel Guerne gửi bản dịch truyện ngắn của Stevenson. Tối qua, khoảng nửa đêm, khi thay đồ để đi dạo, tôi có cảm giác như thể mình là Dr. Jekyll đang cải trang để thực hiện một tội ác…

Tôi không chỉ có ý thức siêu hình mà còn hơn thế: ý thức bệnh hoạn về Vergänglichkeit [tính phù du của vạn vật]. Tôi mắc bệnh bởi sự tàn úa của thế giới, tôi không thể thoát khỏi nó, tôi nghiện nó. Mọi thứ đều tạm bợ, cốt yếu và tuyệt đối. Tôi tin vào điều đó đến mức rút ra hai kết luận hoàn toàn trái ngược: một sự an ủi vô biên, và một nỗi tuyệt vọng không thể gọi tên.

Tôi vừa nghe lại (lần thứ bao nhiêu?) Requiem của Mozart, và trong một khoảnh khắc phấn hứng, tôi tự nhủ: có lẽ chính đó mới là con người toàn vẹn nhất - phù phiếm nhất nhưng cũng sâu sắc nhất - đã chạm đến sự tinh xảo của ren thêu cùng sự thăm thẳm của đêm, và vẫn giữ được sự thuần khiết, dù trong niềm vui hay trong bi thảm tột cùng.

Một chân dung chỉ thực sự thú vị khi người ta ghi lại cả những nét lố bịch của nhân vật ấy. Đó là lý do tại sao rất khó để viết về một người bạn hay một tác giả đương thời mà ta tôn trọng. Chính những nét lố bịch làm cho một nhân vật trở nên người.

 

Ngày 20 tháng Giêng

Tất cả phấn hứng của tôi đều gắn với những chính nghĩa mà kết cục không thể nào khác ngoài thảm bại.
            Tôi có bản năng hướng về những chính nghĩa thất bại.

Trong một cuốn sách tên Cuộc đời tôi giữa các đạo sĩ Bà-la-môn, tác giả - một phụ nữ - kể lại một lần ghé thăm một sannyasin uyên bác, thường lên núi vào mùa mưa. Bà đến gặp ông ta cùng thầy của mình. Ba người ngồi trong hiên nhà nơi sannyasin trú. Họ ngồi đó ba tiếng đồng hồ - không ai nói một lời, rồi chia tay cũng trong im lặng.
            Một bài học lớn!

Sáng nay tôi đọc được câu chuyện này, và nó cứ bám riết lấy tôi, ám ảnh tôi, làm tôi bối rối cùng cực - và tôi biết vì sao. Bởi vì tất cả những gì chúng ta làm, tất cả những gì tôi làm, đều ngược với đó. Tôi tin vào sức mạnh của sự im lặng, tôi chỉ cảm thấy mình thực sự tồn tại khi tôi câm lặng. Thế nhưng tôi nói, tôi nói, và tất cả chúng ta đều nói. Kết nối đích thực giữa hai con người, hay giữa con người nói chung, chỉ được thiết lập qua hiện diện lặng lẽ, qua sự không-giao tiếp bề ngoài, cũng như bất kỳ hiệp thông đích thực nào: một trao đổi thần bí, không lời, giống như một cầu nguyện nội tâm.
            Sáng rõ quá gây mờ mịt.

Tối qua, từ 9 giờ tối đến 2 giờ sáng, tôi đã nói không ngừng ở nhà một người bạn - thực ra là một người bạn rất dễ chịu. Nhưng chỉ mới đây thôi, tôi còn bàng hoàng vì câu chuyện về sannyasin im lặng ấy!

 

Ngày 22 tháng Giêng

Không gì vô lý hơn chuyện đi đến một nơi nào đó để tìm sự minh triết. Nếu tôi không tìm thấy nó trong căn phòng nhỏ dưới mái nhà mình, thì tôi cũng sẽ chẳng tìm thấy nó trên những đỉnh Himalaya.

Tôi không chỉ sống một cuộc đời bên lề mà thực sự bên lề. Tôi tồn tại ở ngoại vi loài người, không biết nên gắn kết với ai hay với điều gì.

“Tri thức cao hơn khổ hạnh; quán chiếu cao hơn tri thức, nhưng trên cả quán chiếu là từ bỏ thành quả của hành động; và từ bỏ dẫn thẳng đến bình yên của cứu rỗi.” (Bhagavad-Gītā)
            Người ta không thể sống được nếu không gán ý nghĩa cho những thứ vốn chẳng có ý nghĩa gì.
            Trong đời mình, tôi đã đọc - hoặc cố đọc - Gītā mười, hai mươi lần. Lần nào tôi cũng ít nhiều nản lòng. Chỉ bây giờ tôi mới có cảm giác mình đã hiểu nó, nghĩa là đã đạt đến mức cùng nhịp với những vấn đề nó đặt ra. Nhưng để sống theo đó, để chuyển hóa nó thành kinh nghiệm thì có lẽ phải một kiếp khác… chắc chắn không phải kiếp này.

Bhagavad-Gītā. Sức sống của nó nằm ở những mâu thuẫn, những sự không thể hòa giải mà nó chứa đựng. Nó có thể nói điều gì đó với mọi dạng người, kẻ hành động lẫn kẻ uể oải, các vị thánh lẫn kẻ hững hờ, miễn là người ta công nhận sự tối thượng của Brahman và chấp nhận những điều còn lại như những sự cần khai triển tùy hoàn cảnh.
            Gitā có thể giãn theo mọi hướng, ai cũng có thể kéo nó về mình. Điều tương tự cũng đúng với Đạo Đức Kinh, với Phúc Âm, với bất kỳ văn bản khải huyền nào không niên đại, bởi chúng không dành cho bất kỳ ai.

Cảm giác khó chịu khi ghé qua nhà xuất bản, khi ta là một tác giả mà sách không bán được. Sự hiện diện của ta chẳng có ý nghĩa gì ở đó. Người ta chợt nghĩ đến một nhà thổ, một gái điếm không khách nơm nớp sợ ánh mắt của chủ chứa.

Vừa đọc bài tựa dài của Mircea Popescu cho bản dịch tiếng Ý của Lịch sử và phi lai. Trong đó đầy những trích dẫn từ sách của tôi - một chuỗi những nghịch lý, màn phóng túng của những lời lẽ vừa ma quái vừa khinh bạc, một trò trí tuệ địa ngục, những ý Lucifer - cảm năng của Tận thế. “Tôi thay đổi rồi, tôi không còn như vậy nữa.” Đó là điều tôi tự nhủ khi đọc những dòng ấy. Tôi điềm tĩnh hơn, nhưng cũng trưởng thành hơn, ít nhào lộn hơn. Tôi đã đánh mất tinh thần khiêu khích từng là “tài năng” (?) của mình, nhưng bù lại, tôi đạt được phẩm giá, sự buồn chán và sự thật.

Tôi gặp lại Hirsch, giám đốc thương mại của Gallimard, mà đã lâu tôi không gặp. “Ông dạo này sao?” hắn hỏi. “Tôi đã rút lui khỏi thế giới,” tôi đáp. Và hắn: “Nhưng thế giới có rút lui khỏi ông không?”

Hôm nay, tôi suy nghĩ về Bhagavad-Gītā, và đêm nay, tôi lang thang tìm một quán rượu có máy chơi nhạc tự động, để nghe một điệu nhạc thịnh hành mà thú thật tôi khá thích: “Those Were the Days” của Mary Hopkin.

 Macbeth hay Quỷ ám—đó mới là cuốn sách tôi ước mình đã viết…

 

Ngày 25 tháng Giêng

Năm 1969 này, tôi lại rơi vào tình cảnh giống như 1949, khi xuất bản Yếu lược. Tôi không có một tạp chí nào để đăng bất cứ điều gì, cảm thấy mình hoàn toàn bị cắt đứt khỏi thế giới “văn chương”. Nhưng đó là cái họa sinh phúc. Nếu muốn tồn tại, người ta phải tạo ra khoảng trống xung quanh mình. Phải nuôi dưỡng khoảng trống ấy, mở rộng nó, thay thế nó bằng mọi thứ tồn tại.

Mỗi con người nên sống và chết ở nơi mình sinh ra. Khi còn nhỏ, tôi gắn bó sâu sắc với ngôi làng của mình, tôi chỉ yêu mỗi nó. Tôi sẽ không bao giờ quên được nỗi sợ, sự hoảng hốt, nỗi đau mà tôi cảm thấy khi phải rời quê để lên thành phố học trung học. Tôi vẫn còn thấy mình trong ký ức ấy, vào ngày đầu tiên khi cha mẹ đã đi, tôi đứng bên cửa sổ khu nội trú Đức. Một nỗi quặn thắt, một sự đứt lìa! Tôi chỉ tìm thấy cảm giác tương tự ở Emily Brontë, người chẳng bao giờ nguôi ngoai vì phải rời xa Haworth, và đã quay về sau giai đoạn ở Brussels.
            Người ta càng gắn bó với một nơi khi nó nằm tách biệt khỏi thế giới. Ngôi làng của tôi nằm trong thung lũng, bị Carpates bao bọc từ mọi phía. Với tôi, nó là tận cùng thế giới, hay đúng hơn, nó là trung tâm thế giới.
            Thế nhưng nếu tôi ở lại đó, những vấn đề cốt lõi tôi phải đối diện cũng sẽ chẳng khác gì những vấn đề tôi đã đối diện ở đây. Không còn nơi chốn đặc biệt nào, một khi ta loại trừ yếu tố lịch sử. Sống trong xó xỉnh hẻo lánh hay đô thị phồn hoa cũng chẳng khác gì khi chuyện là về những câu hỏi thực sự, những câu hỏi không có câu trả lời.

Mọi chứng thần kinh đều là một dạng suy tư liên tục.

Tôi vừa đọc Gelassenheit của Heidegger. Ngay khi ông ta sử dụng ngôn ngữ thông thường, có thể thấy ngay rằng ông ta chẳng có gì để nói. Tôi luôn nghĩ rằng biệt ngữ triết học là một cú lừa lớn. Nếu nói giảm thì có thể bảo rằng: “Biệt ngữ là sự lừa bịp của những người trung thực.”
            Nhưng nói thế cũng còn quá rộng lượng. Thực tế là, ngay khi người ta rời bỏ ngôn ngữ sống để bước vào một ngôn ngữ được chế tác, thì ở đó có một ý chí đánh lừa - dù có ý thức hay không.
            Bản tính tôi hung bạo và không khoan nhượng, đáng lẽ tôi sinh ra để hành động. Nhưng suốt hơn hai mươi năm qua, tôi đã cố để trở thành kẻ không-hành-động - và, nói cho đúng, tôi đã thành công.

Một con người chỉ thú vị khi anh ta kể về nỗi đau, thất bại, giằng xé của mình. Trong Tự truyện của Karl Jaspers tôi vừa đọc, chỉ có những trang về kinh nghiệm đau đớn của ông ta dưới thời Quốc xã là thực sự sống.

Nguy cơ lớn nhất với tôi là bị cuốn vào sức mê hoặc của những khái niệm quá rộng, quá cao quý, như Giải Thoát, v.v.
            Tôi chỉ có thể trung thành với mình nếu tôi bảo toàn được cái phần hoài nghi cốt lõi - mà ở đây cần hiểu là một hoài nghi cực đoan, nghĩa là nghiêm ngặt, nghĩa là bành trướng. Quả vậy, hoài nghi của tôi lan rộng, xâm chiếm, bao trùm toàn bộ suy nghĩ của tôi.

Tôi muốn đi đến chỗ đặt những kẻ kiêu ngạo và những tâm hồn u sầu vào cùng một giỏ. Chính sự phân biệt giữa hai loại người này là nguyên nhân của mọi hiểu lầm.
            (Nhưng sự phân biệt ấy cũng là nền tảng đạo đức của thế giới này. Nếu muốn xóa bỏ nó, ta cũng phải xóa bỏ chính thế giới này.)

Tự do tối cao chỉ đạt được trong nỗi ngây ngất của hư vô. Bất cứ điều gì khác đều là xiềng xích, là nô lệ, là lệ thuộc.

Người ta chỉ có thể làm điều gì đó thực khi họ vô danh. Tôi chỉ cảm thấy là mình khi không tồn tại với bất kỳ ai.
            Cũng vậy, tôi chỉ nghĩ đến Chúa khi đã làm trỗng thế giới quanh mình, đến mức không còn gì tồn tại, ngoại trừ Chúa.

 

Ngày 28 tháng Giêng

Cantata Ich habe genug – Nỗi hân hoan trong câu: “Ich freue mich auf meinen Tod” (Tôi vui mừng đón chờ cái chết).

Phương thuốc cho mệt mỏi? Không nghĩ, chỉ nhìn. Tái khám phá cái nhìn và sự vật - trước cái biết.

Có lẽ ta chỉ nên dừng lại ở trạng thái ấu trùng, từ chối tiến hóa, ở lại trong tự do và dang dở, khai sinh mình bằng thất bại và kiệt quệ vô tận trong cơn ngây ngất bào thai.

Phát cáu khi đọc Question III của Heidegger, đoạn đối thoại: “Để làm bình luận cho Sérénité.”
            Bản tiếng Pháp vô nghĩa. Bản tiếng Đức, một trò chơi chữ vô vị (Wortspielerei).

Vừa đọc lại vài trang trong lời tựa cho Ivan Ilitch. Đã công kích Tolstoy - nhưng chỉ trên bề mặt. Thực ra, mọi điều tôi viết đều nhắm vào chính mình.

Nói cho đúng, tôi không hứng thú với mình, mà chỉ với những cơn khó ở của mình. Và cả những cơn khó ở ấy, tôi cũng không quan tâm trực tiếp mà chỉ những gì chúng che giấu hoặc bộc lộ - tức là, bản thể hoặc sự phủ định bản thể.

Chỉ bi kịch cá nhân mới là phổ quát. Nếu tôi thực sự đau khổ, tôi đau khổ nhiều hơn một cá nhân, tôi vượt khỏi phạm vi bản ngã của mình, tôi chạm đến bản thể những người khác. Chính vì thế, cách duy nhất để ở lại trong sự thật là chỉ quan tâm đến những gì liên quan đến mình - và chỉ những gì liên quan đến mình.

 

Ngày 29 tháng Giêng

Từ khi thế giới là thế giới, không một hành động hay sự kiện nào tôi muốn mình là kẻ thực hiện. Đừng để điều gì mang tên tôi.
            Nhưng hẳn phải có một từ mà tôi ước gì mình đã thốt ra. Nhưng lúc này, tôi chưa thấy được là từ nào.

Giở qua những cuốn sách đồ sộ của Ernst Bloch ở Viện Goethe. Đã định mượn rồi lại thôi. Quá chi tiết, quá sư phạm đối với tôi. Mọi thứ thuộc về Đức đều trở nên xa lạ với tôi.

Trong cuốn Yếu tố tinh thần trong nghệ thuật của Kandinsky, Maeterlinck liên tục được nhắc đến - “vĩ nhân” của thời đại ấy (đó là khoảng trước Thế chiến thứ nhất). Ngày nay, còn ai đọc Maeterlinck? Tôi nghĩ đến một số nhân vật mà người ta đang bàn tán khắp nơi - để rồi mười, hai mươi năm nữa…?

Một nhà thần học, Guardini, đã nhận xét rất đúng: “Nỗi sầu muộn quá đau đớn, nó xâm nhập quá sâu vào gốc rễ của tồn tại con người để có thể bị bỏ mặc cho giới tâm thần học.”

“Một ý nghĩ khác thường cũng khiến từ ngữ bình thường trở nên khác thường.” (Th. Haecker)
            Haecker tấn công tất cả mọi người nhân danh sự hài hước. Nhưng Cơ Đốc giáo, thứ mà ông ta dùng để đối lập với tất cả, có chút hài hước nào không? Ta không thể tưởng tượng được một tôn giáo nào thiếu hài hước hơn.
            Haecker nói về hài hước của người Đức! Điều đó chỉ chứng tỏ chính ông ta không có chút hài hước nào.
            Ở người Anh, hài hước cũng chỉ là một tật, nhưng một tật đáng khen và bổ ích!
            Chỉ có hai dân tộc sở hữu sự hài hước thực sự sâu sắc và mê hoặc: người Do Thái và người Di-gan. Hai dân tộc bị bật rễ, lang bạt. Điều này soi sáng phần nào bản tính của hài hước.

Để làm bài tập dịch với một phụ nữ Ăng-lê ngày mai, tôi vừa đánh máy một đoạn văn ngắn về Ai Cập của Gabriel Bounoure - một con người tinh tế, một trí tuệ nhạy cảm. Đã phải ép mình lắm mới qua được câu đầu tiên, lối văn quá đậm đặc thơ quá khó nuốt. Làm sao lại có thời tôi thích được kiểu văn này! Thơ cần được trả về tự do, bằng cách trục xuất nó khỏi văn xuôi. Tôi có thể thấy rõ Proust đang bị đe dọa từ phía nào.

Nếu có thể chịu đựng mặt trời, tôi sẽ đến những vùng đất nóng, vì tôi yêu cảm giác vô ích dữ dội khi lang thang giữa những đêm hè ấy. Ibiza!

Một bản dịch tệ hại là khi nó rõ ràng, dễ hiểu hơn bản gốc. Điều đó chứng tỏ nó đã không giữ được những vùng mơ hồ, rằng người dịch đã cắt nghĩa dứt khoát: một tội ác.

Tôi nghĩ đến Morante, người bạn ở Santander, người đã dành cả gia tài để xây dựng một thư viện phi thường, đã ném vào đó hàng triệu, định sẽ đọc nó sau này, trong căn nhà miền quê gần Palencia. Anh ta chết vì một cơn đau tim ở tuổi bốn mươi tám. Một con người quyến rũ, nồng hậu và điên rồ. Tôi tiếc thương anh ta không đủ như đáng lẽ phải tiếc thương.

 

Ngày 30 tháng Giêng

Người Pháp là sinh thể ít chất thơ nhất mà ta có thể hình dung.
            Chưa bao giờ tôi gặp một người nông dân Pháp nào nói với tôi rằng phong cảnh nơi họ sống là đẹp. Vậy mà người Pháp lại có năng khiếu hội họa bẩm sinh! Làm sao giải thích được mâu thuẫn này?
            Hoài niệm không phải là đặc tính của người Pháp. Nhưng hoài niệm mới là nguồn cội bí mật của mọi thi ca.

Bất cứ biện pháp nào làm giảm số lượng con người đều nên được tuyên bố là thiêng.
            Tôi không ngừng say mê với vấn đề này: sự biến mất của loài người. Không gì kích thích tôi hơn là tưởng tượng cảnh ấy, thấy trái đất sạch bóng con người, chỉ còn côn trùng và một vài loài thú.

Trước quy hoạch, những cánh đồng là những khu vườn, với hàng rào, lùm cây, những đường nét riêng biệt, hình thù bất quy tắc và sống. Giờ, người ta tưởng như đang ở Mỹ: một sa mạc được gieo trồng.
            Sau sự biến mất của ngựa, ta đang chứng kiến sự biến mất của cây.

Khoảng thời gian khốn khổ nhất trong đời tôi: từ mười chín đến hai lăm tuổi. Tôi không thể hiểu làm sao mình vượt qua được. Mất ngủ triền miên. Căng thẳng thần kinh làm tôi kiệt quệ, đến mức phải nằm suốt cả ngày - tôi đã thực sự dành phần lớn thời gian nằm dài, như trong dưỡng đường.
            Chính trong khoảng ấy, tôi đã hiểu, tôi đã biết nỗi hãi hùng. Những sự thật tôi khám phá ra khi ấy - dù có cố quên thế nào - tôi cũng không bao giờ quên được.

Trong Essai de sémantique, Michel Bréal viết: “Cái tên nhanh chóng mất đi nghĩa từ nguyên của nó, vì cái đó có thể trở thành một gánh nặng, một cản trở… Một từ càng tách khỏi nguồn gốc của nó, nó càng phục vụ cho việc nghĩ.”
            Toàn bộ triết học của Heidegger đi theo hướng hoàn toàn ngược lại. Triết học của ông ta dựa trên tính chính đáng, thậm chí sự nhất thiết của nghiên cứu gốc từ để tìm sự thật. Với Heidegger, suy nghĩ dường như là cuộc hành trình trở về nghĩa nguyên sơ của các từ.
            Luận điểm của Bréal phù hợp với cho người duy lý, mà trước đây người ta gọi là “trí tuệ luận”. Luận điểm của Heidegger thì tương hợp với những đòi hỏi của triết học hiện sinh.

Tôi nhận ra rằng văn phong của tôi quá gò ép. Nó vừa quá căng thẳng, vừa quá trau chuốt. Bản thảo đầu tiên luôn là bản tốt nhất, nhưng nó thường không rõ ràng, chưa kể đầy những sự lặp lại, những tật văn phong. Hơn nữa, một người nước ngoài cần phải cảnh giác với bản thảo đầu tiên của mình - bởi vì những gì anh ta không biết có thể lộ ra ngay trong đó. Một người viết bằng một ngôn ngữ vay mượn, một ngôn ngữ xa lạ với bản tính anh ta, một ngôn ngữ áp đặt từ bên ngoài, không thể thực sự tự nhiên. Quan trọng là làm sao người đọc quên đi rằng anh ta đã học ngôn ngữ này muộn màng. Đó là mức tự nhiên nhất anh ta có thể mong đạt được.

 

Ngày 30 tháng Giêng 1969

Một người mù chữ có thể kinh nghiệm những trạng thái tinh thần sâu sắc hơn so với người có học, bởi lẽ người đó không có khả năng nghĩ sang điều gì khác. Họ sẽ chìm hoàn toàn vào những gì họ cảm nhận, đi đến tận cùng nó, vì không có khả năng lừa dối, cũng không có xu hướng nghịch đùa trí tuệ.
            Người phụ nữ mang dấu thánh (stigmatisée), P. N. lại kể tôi nghe chuyện này: Cách đây ba, bốn mươi năm, bà ta ngã từ thang xuống, gãy cột sống. Chúa Giê-su hiện ra với bà và nói rằng bà sẽ được cứu nếu chịu đau khổ vì Người và sống lại mọi nỗi đau của Người. Bà ta chấp nhận. Kể từ đó, mỗi tối thứ Năm, bà ta trải qua những đau đớn kinh hoàng, chảy máu và gào thét như bị quỷ ám. Ban đầu, người ta nghĩ bà bị quỷ nhập, nhưng sau đó rút lại. Bà ta yêu cầu linh mục địa phương lập ra các nơi ẩn tu, nơi mọi người có thể tụ họp để cầu nguyện và tĩnh tâm. Vị linh mục đã lập ra khoảng ba mươi chốn như vậy, bởi vì, được bà ta soi dẫn, ông ta đã quyên góp được khoảng hai tỷ franc.
            P. N. hỏi tôi nghĩ gì về… Chúa. Tôi đáp rằng tôi hoàn toàn không thể hình dung Chúa như một cá thể, và rằng kể cả nếu hình dung được, tôi cũng sẽ không thể tin rằng một trí tuệ toàn năng - thực ra là vô hạn - lại có thể bận tâm đến cuộc sống thường nhật của ba tỷ người (sẽ sớm tăng gấp đôi). Ý niệm về Chúa chỉ có một công dụng: Sáng tạo ra một ai đó để ta có thể trò chuyện khi không còn ai chuyện cùng, khi ta đơn độc, đơn độc, đơn độc. Tất cả Chúa khác chỉ là nhân hình hóa và trò hề.

Tôi vừa lướt qua tiểu sử của Kafka (thời trẻ). Những hình ảnh về Prague và những phong tục được mô tả trong đó khiến tôi nhớ đến Hermannstadt. Tôi đã sống ở đầu kia của Đế chế Áo-Hung.

Nếu muốn hiểu một đất nước, ta phải đọc những nhà văn tầm thường của nó, vì chỉ có họ mới phản ánh trung thực những thói xấu, những tật quen, những đức hạnh và những thói hư của dân tộc ấy. Những nhà văn giỏi, ngược lại, thường phản kháng lại quê hương của họ, họ xấu hổ vì thuộc về nó. Chính vì thế, họ không bao giờ thể hiện trọn vẹn bản tính thực sự của đất nước - tức là sự tầm thường của đời sống thường nhật.

Sự khai sinh của nỗi sợ.
            Ngày 3 tháng Chín năm 1943, tại khách sạn Racine, tôi có cuộc viếng thăm từ một người Romania, một gã cao lớn, u ám, vẻ tang tóc - và ngu xuẩn - mà tôi đã biết từ lâu nhưng chưa bao giờ tiếp tại nhà mình. Còi báo động không kích. Tôi thấy biểu cảm của hắn càng lúc càng thê lương quá mức. Hắn nói: “Hôm nay là kỷ niệm ngày tuyên chiến. Đồng minh đã đến ném bom Thượng viện, nơi đặt Bộ Tổng Tham mưu Không quân Đức. Tại sao tôi đến gặp anh hôm nay? Bởi vì chúng ta sắp bị đánh bom, và tôi sắp chết.” Rồi hắn bật khóc. Khung cảnh ấy lố bịch đến mức tôi suýt bật cười. Nhưng tôi kiềm chế được. Tôi cố gắng lý lẽ với hắn, bảo rằng đồng minh không thể nào lại đi ném bom trung tâm Paris, rằng họ không thể tự đẩy công luận chống lại họ, rằng các cơ quan của Đức trong Thượng viện cũng chẳng quan trọng gì, v.v. Nhưng hắn không bị thuyết phục, chỉ biết rên rỉ, than thở, dù cố gắng nén tiếng khóc đến âm lượng nhỏ nhất. Tôi không thể tin vào mắt mình. Một gã đàn ông vạm vỡ, to lớn, nghiêm nghị - giờ chỉ còn là một miếng giẻ rách. Cảnh báo kéo dài nửa giờ, và trong suốt thời gian đó, tôi trải qua một trạng thái lạ lùng, dao động giữa tiếng cười và kinh ngạc. Nhưng chuyến viếng thăm này đã để lại dấu ấn trong tôi. Trước đó, tôi chưa bao giờ thấy sợ khi nghe còi báo động. Nhưng từ hôm ấy, tôi bắt đầu sợ hãi. Gã khốn ấy đã lây nỗi hoảng loạn của hắn sang tôi. Bởi không có gì lây nhanh hơn nỗi sợ…

Đến phòng khám trên phố Assas để làm sạch tai. Người phụ nữ ở quầy thu ngân hỏi: “Ông đang đi làm hay là thất nghiệp?”
            Ngay lúc đó, tôi thấy mình ngập ngụa trong xã hội. Nếu bà ta hỏi: “Ông có còn là sát nhân không?” - câu hỏi ấy có lẽ còn khiến tôi ít bối rối hơn.

Không gì phi lý hơn phi lai. Nó chứa một kiểu suy nghĩ khiến tôi buồn nôn. Không gì trái với bản tính và cảm giác tôi hơn thế. Tuy nhiên, tôi vẫn phải thừa nhận rằng phi lai là một hằng số trong tinh thần con người, rằng con người không thể nào hành động, giảng dạy hay cổ vũ mà không chìm trong những mộng phi lai. Chẳng gì khơi động xã hội hơn những Maximes của La Rochefoucauld.

Tôi ghét những kẻ cay cú, nhưng tôi cũng mang ơn họ: chính vì phản ứng trước họ, vì không chịu nổi những điệp khúc đay nghiến của họ, tôi đã có thể làm dịu đi phần nào những ý nghĩ cay đắng của chính mình về con người. Nếu chỉ thấy toàn những kẻ như họ, tôi có lẽ đã trở thành một kẻ lạc quan ngây ngô. Không gì bất khả chịu đựng hơn là thấy ở người khác phiên bản biếm họa của chính những ám ảnh, những dằn vặt, những thói quen tinh thần của ta.

Tôi vừa chợp mắt nửa tiếng, tỉnh dậy với cảm giác mệt mỏi kinh khủng - và một cảm giác còn mạnh hơn về thực tại khủng khiếp của thời gian. Thời gian - ở đó tôi không có gì để tìm, không thể xâm nhập, thậm chí còn chẳng thể đi lạc.
            Mỗi sáng, khi thức dậy, tôi lại đối diện với thời gian - đôi khi với tư thế kẻ bại trận, cũng có khi là hờ hững, và có lúc như kẻ chinh phục - lao lên, lao lên - mà không biết mình đang lao tới điều gì.
            Khi một thứ gì đó trong ta trục trặc, ý thức thời gian lập tức bị ảnh hưởng. Tại sao?

“… Trong suốt hoạt động văn chương của mình, tôi ngày càng cần đến sự trợ giúp của Chúa, vì đó là tâm giao duy nhất của tôi…” (Kierkegaard, Point de vue…)
            Tâm giao duy nhất của tôi: đó là hình thức đức tin duy nhất tôi có thể chấp nhận - và vai trò duy nhất có thể được giao cho Chúa.

D., kẻ mà tôi chẳng ưa gì, vừa kể một câu chuyện ngu đến mức làm tôi choàng tỉnh khỏi giấc ngủ. Những kẻ ta không ưa ít khi tỏa sáng trong giấc mơ của ta.

Tôi viết thư cho người bạn Mỹ, người đã cắt đứt quan hệ với Giáo hội Rome và kinh hãi thế giới hiện đại: “Bi kịch của sống và chết vẫn vậy, dù người ta sống trong hang động thời tiền sử hay ở mũi Kennedy. Con người cần phải thoát khỏi sự mê tín vào khoa học, hoặc ít nhất, phải nhìn khoa học như một tai họa không thể tránh - và, nếu công bằng, là một tai họa thú vị.”

Tôi không sống trong sự từ bỏ, mà trong ý về từ bỏ. Giống như mọi hiền giả giả hiệu.

Tôi tương đối nghi ngờ sự chân thành của chính mình khi bảo rằng không có gì xứng đáng để tồn tại.

Hai nhan đề tôi vô cùng thích: Rétractations (Nhìn lại) của Thánh Augustin, Exclamations (Than van) của Thánh Teresa.

Nửa giờ trước, tôi thấy một tấm áp phích gắn trên cổng tu viện Saint-Sulpice, quảng cáo cho Nghệ thuật fugue (L’Art de la fugue). Ai đó đã nguệch ngoạc lên dòng chữ: “Chúa đã chết.” Và họ viết thế ngay dưới tên của Bach - mà âm nhạc có thể khiến Chúa sống lại, nếu Chúa thực sự đã chết - ít nhất là trong thời gian nghe một cantata hay một fugue nào đó.
            Sự ngu xuẩn thời đại này không có giới hạn. Tôi chắc chắn một tên trẻ tuổi đã viết dòng chữ ấy. Một khẩu hiệu cũ rích, ngu ngốc, không còn có bất cứ nghĩa nào. Nó chẳng khác gì một khẩu hiệu tranh cử - vô duyên đến nực cười.

Chủ nghĩa vô thần hung hăng luôn khiến tôi khó chịu không khác gì cuồng tín tôn giáo. Thực ra, nó chỉ là một thứ tôn giáo đảo ngược. Các Giáo hội và các chống-Giáo hội đều đáng ngờ như nhau và đều sinh ra cùng một loại tệ hại. Người ta không nên đứng về phía nào - không chống cũng không theo bất cứ vị thần nào. Trong những vấn đề này, mọi lập trường đều là mô ve gu. Đó là điều tối thiểu có thể nói.

Anh Hoa dịch

 

 

Un écrivain n’a pas d’influence sur nous parce que nous l’avons pratiqué, mais parce que nous avons pensé à lui. Je n’ai pas lu spécialement ni Pascal, ni Leopardi, ni Baudelaire. Mais je n’ai cessé de songer à eux, et leurs misères m’ont accompagné aussi fidèlement que les miennes.
(13 mars, 1972)

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công