Xã hội tiêu thụ: kịch về nhàn rỗi
Tiếp tục trong bóng Veblen, kỳ gần nhất ở kia.
Xã hội tiêu thụ: huyền thoại và cấu trúc của Jean Baudrillard, nhà cấu trúc luận người Pháp, xuất bản năm 1970 phát triển các khái niệm Veblen đặt ra trong Lý thuyết tầng lớp nhàn rỗi viết trong lòng nước Mỹ của Thời đại Mạ vàng bảy mươi năm trước đó. Nhàn rỗi - không phải là không làm gì mà là làm sự không-làm, theo nghĩa không sản xuất hay thu lợi trực tiếp - lại có vai trò trọng yếu trong một sự sản xuất khác: sản xuất các dấu hiệu về địa vị. Thời gian nhàn rỗi, mặc cho mọi dáng vẻ “trốn thoát” và “tự do” lại là thời gian mà áp lực biện minh cho vị trí xã hội của mình đè nặng hơn bao giờ hết. Ở đây, vấn đề không đơn giản là sự hãnh tiến hay bắt chước mà là một cấu trúc chung chi phối những khía cạnh nhỏ nhất của đời sống: càng cố thoát ra, người ta càng lậm sâu vào.
Trong xã hội mà quảng cáo chiếm vai trò thống lĩnh của Baudrillard, phụ nữ vẫn - giống trong xã hội của Veblen - chủ yếu đóng vai trò tiêu thụ ủy nhiệm: phụ nữ được kêu gọi hưởng thụ chỉ để trở nên đáng hưởng thụ hơn trong mắt những kẻ chọn cô ta như chọn một đối tượng đại diện mình.
Dưới đây là chương 9 của cuốn sách.
Kịch về nhàn rỗi và sự bất khả lãng phí thời gian
- Jean Baudrillard
Trong sự phong phú thực hay tưởng tượng của “xã hội tiêu thụ”, Thời gian chiếm một vị trí đặc biệt. Nhu cầu đối với loại hàng hóa đặc thù ấy gần như bằng tổng nhu cầu của tất cả các loại hàng hóa khác gộp lại. Tất nhiên, cũng chẳng có bình đẳng cơ hội - hay dân chủ - trong “thời gian rảnh” nhiều hơn các loại hàng hóa và dịch vụ khác. Hơn nữa, chúng ta biết rằng, mặc dù cách tính thời gian rảnh có ý nghĩa nhất định trong việc so sánh các thời kỳ hay các nền văn hóa, việc hạch toán thời gian nhàn rỗi theo đơn vị đồng hồ lại hoàn toàn không có ý nghĩa tuyệt đối với chúng ta: chất lượng của thời gian rảnh ấy, nhịp điệu và nội dung của nó, ngay cả việc nó được tính là thời gian dư lại sau khi thỏa mãn các đòi hỏi công việc hay là một thời gian “tự trị”: chính những yếu tố đó mới làm nên đặc thù của từng cá nhân, từng hạng người, từng tầng lớp. Thậm chí, sự dư thừa công việc và thiếu vắng nhàn rỗi cũng có thể trở thành một đặc quyền - của nhà quản lý hay của quan chức cấp cao.
Bất chấp những bất bình đẳng này - những điều chỉ có thể được xem xét đầy đủ trong một lý thuyết vi sai về các dấu hiệu của địa vị (trong đó “thời gian rảnh bị tiêu thụ” là một phần) - sự thật vẫn là thời gian giữ một giá trị huyền thoại đặc biệt, như thứ cân bằng điều kiện con người. Giá trị này được khẳng định và đưa thành chủ đề mạnh trong thời chúng ta qua khái niệm “thời gian rảnh”. Câu ngạn ngữ xưa, “mọi người đều bình đẳng trước thời gian và cái chết,” từng có lúc bao trọn đòi hỏi về công bằng xã hội, thì ngày nay sống lại trong huyền thoại được chăm chút kỹ lưỡng rằng tất cả mọi người đều bình đẳng trong nhàn rỗi.
Đi săn cá bằng lao cùng nhau và cùng uống rượu Samos đã tạo nên một cảm giác đồng điệu sâu xa. Trên chuyến tàu về, họ nhận ra rằng họ chỉ biết tên thánh của nhau, và khi muốn trao đổi địa chỉ thì phát hiện ra cả hai làm cùng một nhà máy - một người là giám đốc kỹ thuật, người kia là gác đêm.
Ngụ ngôn nhỏ nhắn, thú vị này - bao quát toàn bộ tư tưởng của Club Méditerranée - có vài ngụ ý siêu hình:
- Nhàn rỗi là địa điểm của tự do.
- Mỗi người, về cơ bản, đều tự do và bình đẳng với người khác: chỉ cần được đặt trở lại trạng thái “tự nhiên,” anh ta sẽ tìm được tự do, bình đẳng và bác ái ấy. Do đó, các hòn đảo Hy Lạp và các vùng biển sâu trở thành những điểm thừa kế lý tưởng của Cách mạng Pháp.
- Thời gian là một chiều tiên nghiệm, siêu nghiệm, tồn tại trước cả nội dung của nó. Nó ở đó, chờ sẵn ta. Nếu nó bị tha hóa và khuất phục trong công việc thì ta “không có thời gian.” Khi thoát khỏi công việc hay không bị ràng buộc, thì ta “có thời gian.” Như một chiều tuyệt đối, không thể bị tha hóa, giống như không khí hay nước, trong nhàn rỗi, nó một lần nữa trở thành tài sản riêng của mọi người.
Điểm cuối cùng này mới là then chốt: nó gợi mở rằng thời gian có thể chỉ là sản phẩm của một nền văn hóa nhất định, chính xác hơn là của một phương thức sản xuất nhất định. Nó tất yếu đứng ngang hàng với mọi hàng hóa trong hệ thống sản xuất: với tài sản, tư hữu hay công hữu; với sự chiếm hữu và sở hữu đối tượng - tha hóa hay tự do; và giống như mọi đối tượng được sản xuất bởi hệ thống ấy, nó tham dự vào sự vật hóa trừu tượng của giá trị trao đổi.
Ta vẫn có thể nói rằng hầu hết các đối tượng mang một giá trị sử dụng nhất định, có thể tách rời khỏi giá trị trao đổi của chúng, trên lý thuyết. Nhưng điều này có đúng với thời gian không? Giá trị sử dụng ở đâu, giá trị có thể được xác định bằng một chức năng khách quan hay một thực hành cụ thể nào? Chính ở đây lộ ra đòi hỏi nằm dưới khái niệm “thời gian rảnh”: rằng ta phải trả lại cho thời gian giá trị sử dụng của nó, rằng ta phải giải phóng nó như một chiều trống rỗng để có thể lấp đầy nó bằng tự do cá nhân. Thế nhưng, trong hệ thống của chúng ta, thời gian chỉ có thể được “giải phóng” như một đối tượng, như một thứ tư bản định lượng bằng năm, giờ, ngày, tuần - để mỗi người “đầu tư” theo ý mình. Như vậy, trên thực tế nó không “tự do,” bởi nó đã bị quy định trong tính chất đo đếm bởi chính sự trừu tượng toàn diện của hệ thống sản xuất.
Đòi hỏi nằm dưới khái niệm nhàn rỗi, do đó, là một đòi hỏi bất khả giải, đầy mâu thuẫn và tuyệt vọng. Khát vọng nồng nhiệt về tự do ấy là bằng chứng cho sức mạnh của hệ thống ràng buộc - vốn đạt đến độ toàn diện nhất ở cấp độ thời gian. “Khi tôi nói đến thời gian thì nó đã qua rồi,” Apollinaire từng nói. Còn về nhàn rỗi, ta có thể nói: “Khi anh ‘có’ thời gian thì nó không còn tự do nữa.” Ở đây, mâu thuẫn không phải là mâu thuẫn từ ngữ mà là mâu thuẫn yếu tính. Nghịch lý bi kịch của tiêu thụ: ai cũng muốn đặt - tin rằng mình đã đặt - dục vọng vào từng đối tượng sở hữu, tiêu thụ, vào từng phút rảnh rỗi. Nhưng từ mỗi đối tượng bị chiếm hữu, từ mỗi sự thỏa mãn đạt được, và từ từng phút “có được,” dục vọng đều đã vắng, tất yếu phải vắng. Chỉ còn lại “nước cốt” của dục vọng.
Trong các xã hội nguyên thủy, không có khái niệm thời gian. Câu hỏi “có thời gian hay không” hoàn toàn vô nghĩa ở đó. Thời gian chỉ là nhịp điệu của hoạt động tập thể lặp đi lặp lại (nghi thức lao động và lễ hội). Nó không thể tách rời những hoạt động ấy để bị phóng chiếu vào tương lai, hay bị hoạch định và thao túng. Nó không mang tính cá nhân; nó chính là nhịp điệu của trao đổi, được đẩy tới cao trào trong thể động lễ hội. Nó không có tên gọi; nó hòa vào các động từ của sự trao đổi, vào tuần hoàn của con người và tự nhiên. Vì vậy, nó “bị ràng buộc,” nhưng không bị cưỡng chế, và sự “ràng buộc” (Gebundenheit) này không đối lập với “tự do.” Nó mang tính biểu tượng đúng nghĩa, nghĩa là nó không thể bị cô lập bằng trừu tượng. Nhưng nói “thời gian là biểu tượng” thì không có nghĩa gì, bởi thời gian ở đó không tồn tại, cũng giống như tiền không tồn tại.
Tương đồng giữa thời gian và tiền bạc là cơ bản trong phân tích về “thời chúng ta”, cũng như trong những gì mà chia tách lớn giữa thời gian lao động và thời gian nhàn rỗi hàm ý. Đây là sự chia tách quyết định, vì mọi lựa chọn cơ bản của xã hội tiêu thụ đều dựa trên đó. “Thời gian là tiền bạc”: khẩu hiệu này - được khắc bằng chữ lửa trên những máy đánh chữ Remington - cũng được viết trên cổng nhà máy, in sâu trong thứ thời gian bị khuất phục của đời sống hằng ngày, trong khái niệm ngày càng quan trọng: “ngân sách thời gian.” Nó còn chi phối cả nhàn rỗi và thời gian rảnh. Và cũng chính khẩu hiệu này định nghĩa thời gian rỗng, được khắc lên đồng hồ mặt trời ngoài bãi biển và trên lối vào các khu nghỉ dưỡng.
Thời gian là một hàng hóa khan hiếm và quý giá, chịu sự chi phối của luật giá trị trao đổi. Điều này rõ ràng đúng với thời gian lao động, vì nó được mua bán. Nhưng ngày càng nhiều, chính thời gian rảnh cũng phải được mua trực tiếp hoặc gián tiếp trước khi có thể “tiêu thụ.” Norman Mailer từng phân tích cách người ta tính toán khi sản xuất nước cam dạng đông lạnh và dạng lỏng đóng hộp. Loại thứ hai đắt hơn, vì trong giá bán đã tính cả hai phút tiết kiệm được so với việc chuẩn bị loại đông lạnh: theo cách này, thời gian rảnh của chính người tiêu thụ đang được bán lại cho họ. Điều này hoàn toàn hợp lý, bởi “thời gian rảnh” thực chất là thời gian “kiếm được,” là tư bản có thể sinh lời, là năng lực sản xuất tiềm năng, nên muốn kiểm soát nó thì phải mua. Cái ý rằng bỏ một đồng xu vào máy hát tự động để “mua lại” hai phút im lặng có thể nghe ngây ngô, nhưng nó hé lộ cùng một sự thật.
Như vậy, thời gian có thể chia nhỏ, trừu tượng, đo đếm được, trở thành đồng chất với hệ thống giá trị trao đổi: nó là một phần của hệ thống ấy trên cùng cơ sở của mọi hàng hóa khác. Với tư cách một đối tượng của phép tính thời gian, nó có thể và phải được trao đổi ngang với bất cứ hàng hóa nào (đặc biệt là tiền). Hơn nữa, khái niệm “thời gian như đối tượng” [temps/objet] là khái niệm đảo: cũng như việc thời gian là một đối tượng, mọi đối tượng được sản xuất đều có thể được coi là thời gian kết tinh - không chỉ thời gian lao động trong tính toán giá trị thị trường của chúng mà còn cả thời gian nhàn rỗi, trong chừng mực các đối tượng kỹ thuật “tiết kiệm” thời gian cho người dùng và được bán trên cơ sở đó. Máy giặt chính là thời gian rảnh cho người nội trợ, thời gian rảnh khả thể được biến thành một đối tượng mua bán (thời gian rảnh mà người nội trợ có thể dùng để xem TV và các quảng cáo cho máy giặt!)
Luật của thời gian ở tư cách giá trị trao đổi và lực lượng sản xuất không dừng lại ở ngưỡng cửa của nhàn rỗi, như thể nhàn rỗi, một cách kỳ diệu, có thể thoát khỏi mọi ràng buộc chi phối thời gian lao động. Các quy luật của hệ thống (sản xuất) không có ngày nghỉ. Trên các con đường, các bãi biển, trong các làng nghỉ mát - khắp nơi, thời gian liên tục được tái sản xuất. Phân chia bề ngoài giữa thời gian lao động và thời gian nhàn rỗi - trong đó cái sau được xem như cõi siêu nghiệm của tự do - thực chất là một huyền thoại. Đối lập lớn lao ấy, đã ngày càng trở nên nền tảng ở cấp độ kinh nghiệm sống của xã hội tiêu thụ, rốt cuộc vẫn chỉ là vẻ ngoài. Toàn bộ phân chia năm xã hội thành “năm mặt trời” và “năm xã hội,” với kỳ nghỉ như điểm chí của đời sống riêng tư và mùa xuân như điểm chí (hay điểm phân) của đời sống tập thể - sự dâng lên và rút xuống khổng lồ này chỉ có vẻ nhịp theo mùa ở bề ngoài. Thực ra, nó không phải là nhịp (một chuỗi những khoảnh khắc tự nhiên của một chu kỳ), mà là một cơ chế chức năng: một tiến trình hệ thống duy nhất phân nhánh thành hai - thời gian lao động và thời gian nhàn rỗi. Và như ta sẽ thấy, theo logic khách quan chung này, những chuẩn mực và ràng buộc vốn thuộc về thời gian lao động được chuyển nguyên sang thời gian rảnh và nội dung của nó.
Hãy quay lại với ý luận đặc thù của nhàn rỗi. Nghỉ ngơi, thư giãn, trốn thoát và giải trí có lẽ là những “nhu cầu”; nhưng tự thân chúng không định nghĩa được tính tất yếu riêng của nhàn rỗi, vốn là sự tiêu thụ thời gian. Thời gian rảnh có thể là toàn bộ những hoạt động vui chơi mà người ta lấp đầy vào đó, nhưng trước hết, nó là tự do để lãng phí thời gian của mình, thậm chí là để “giết” nó, tiêu hao nó như một sự mất mát thuần túy (chính vì vậy mà nói nhàn rỗi “bị tha hóa” chỉ vì nó là thời gian cần thiết để tái sản xuất sức lao động thì chưa đủ. Sự tha hóa của nhàn rỗi sâu sắc hơn: không phải là sự lệ thuộc trực tiếp vào thời gian lao động mà chính là sự bất khả trong việc lãng phí thời gian).
Giá trị sử dụng đích thực của thời gian, giá trị sử dụng mà nhàn rỗi tuyệt vọng tìm cách khôi phục, chính là ở chỗ được lãng phí. Kỳ nghỉ là cuộc kiếm tìm một khoảng thời gian mà người ta có thể lãng phí theo nghĩa đầy đủ nhất của từ này, không để sự lãng phí ấy lại bước vào một quá trình tính toán, không để khoảng thời gian ấy (đồng thời) bị xem như một thứ “kiếm được.” Trong hệ thống sản xuất và lực lượng sản xuất của chúng ta, người ta chỉ có thể kiếm được thời gian: định mệnh ấy đè nặng lên nhàn rỗi cũng như lên lao động. Người ta chỉ có thể “khai thác” (faire-valoir) thời gian của mình, cho dù chỉ bằng một sự tiêu phí lộng lẫy nhưng rỗng tuếch. Thời gian rảnh của kỳ nghỉ vẫn là tài sản riêng của người đi nghỉ: một vật, một sở hữu mà anh ta kiếm được bằng mồ hôi công sức suốt năm; nó là thứ anh ta sở hữu, chiếm hữu, như mọi đồ vật khác - thứ mà anh ta không thể đem cho hay hy sinh (như làm với đồ vật khi đem tặng), trả lại nó vào trạng thái khả dụng tuyệt đối, vào tình trạng vô-thời gian vốn là tự do thực sự. Anh ta bị buộc vào “thời gian của mình” như Prometheus bị xiềng vào tảng đá, bị buộc vào huyền thoại Prometheus về thời gian như lực lượng sản xuất.
Sisyphus, Tantalus, Prometheus: tất cả huyền thoại về “tự do phi lý” đều là những hình dung khá chính xác về kẻ đi nghỉ trong hoàn cảnh của hắn - với nỗ lực tuyệt vọng để mô phỏng sự “nghỉ dưỡng,” một sự vô vụ lợi, tước bỏ hoàn toàn, một khoảng trống, sự đánh mất mình và thời gian của mình - nhưng tất cả những điều đó hắn không thể đạt được, bởi hắn, xét cho cùng, đã trở thành một đối tượng bị cuốn vào chiều đối tượng hóa tận cùng của thời gian.
Chúng ta đang sống trong một thời mà con người sẽ không bao giờ có thể lãng phí đủ thời gian để thoát khỏi cái tất yếu là phải dành cả đời để “kiếm” nó. Không thể cởi bỏ thời gian như cởi bỏ đồ lót. Không còn có thể “giết” nó hay lãng phí nó, cũng như không thể làm điều đó với tiền, bởi cả hai đều là biểu hiện của hệ thống giá trị trao đổi. Ở bình diện biểu tượng, vàng và tiền là chất thải. Thời gian đã bị đối tượng hóa cũng vậy. Nhưng thực tế, trong hệ thống hiện tại, là bất khả về mặt logic chuyện tiền hay thời gian có thể được trả lại chức năng “nguyên thủy,” mang tính hy sinh, của chất thải. Thực sự làm được như vậy có nghĩa là giải thoát mình khỏi chúng trong bình diện biểu tượng. Trong trật tự dựa trên tính toán và tư bản, sự việc, theo một nghĩa nào đó, hoàn toàn đảo ngược: bị đối tượng hóa tận cùng như giá trị trao đổi, chính chúng ta mới trở thành chất thải của tiền, chính chúng ta mới trở thành chất thải của thời gian.
Bất chấp hư cấu về tự do trong nhàn rỗi, “thời gian rảnh” là bất khả; chỉ có thể tồn tại thời gian bị ràng buộc. Thời gian của tiêu thụ chính là thời gian của sản xuất. Nó chỉ là một dấu ngoặc chạy loăng quăng trong chu trình sản xuất. Nhưng sự bổ sung chức năng ấy (dù khác nhau giữa các giai tầng xã hội) không phải là điểm cốt yếu. Nhàn rỗi bị ràng buộc trong chừng mực mà, đằng sau vẻ ngoài vô vụ lợi, nó trung thành tái sản xuất mọi ràng buộc tinh thần và thực hành vốn là đặc điểm của thời gian sản xuất và đời sống hằng ngày bị nô dịch.
Nó không được đặc trưng bởi các hoạt động sáng tạo: sáng tạo, nghệ thuật hay bất cứ dạng nào khác, không bao giờ là một hoạt động nhàn rỗi. Nhàn rỗi thường được đặc trưng bởi những hoạt động thoái lui thuộc loại có trước các hình thức lao động hiện đại (chơi gốm, thủ công, sưu tầm, câu cá). Mô hình dẫn dắt cho thời gian rảnh chính là mô hình duy nhất từng được kinh nghiệm cho tới lúc đó: mô hình tuổi thơ. Nhưng ở đây tồn tại một sự lẫn lộn giữa kinh nghiệm tuổi thơ về tự do trong trò chơi và hoài niệm về một giai đoạn phát triển xã hội trước khi có phân công lao động. Bởi tính toàn vẹn và bộc phát mà nhàn rỗi tìm cách khôi phục chỉ xuất hiện trong một thời gian xã hội vốn được đánh dấu chủ yếu bởi sự phân công lao động hiện đại, chúng mang hình thức khách quan của sự thoát ly và vô trách nhiệm. Mà sự vô trách nhiệm trong nhàn rỗi thì tương đồng với và bổ sung cho sự vô trách nhiệm trong lao động. “Tự do” một bên, “ràng buộc” bên kia: cấu trúc thực ra là một.
Phân chia chức năng giữa hai thể thức thời gian này cấu thành một hệ thống, biến nhàn rỗi thành ý luận của lao động bị tha hóa. Sự phân đôi tạo ra những thiếu hụt và mâu thuẫn hệt nhau ở cả hai bên. Chúng ta bắt gặp trong nhàn rỗi và kỳ nghỉ cùng lý tưởng về việc hoàn thành như trong lao động: cùng một đạo đức của sự gắng sức dưới áp lực. Cũng như tiêu thụ - mà nó hoàn toàn thuộc về - nhàn rỗi không phải là praxis của sự thỏa mãn. Hoặc, ít nhất, ta có thể nói rằng nó chỉ như thế ở bề ngoài. Trên thực tế, nỗi ám ảnh với việc phơi nắng, cái vòng quay bối rối trong đó du khách “chinh phục” Ý, Tây Ban Nha và tất cả các phòng trưng bày nghệ thuật, các môn thể dục và sự khỏa thân vốn là mệnh lệnh bắt buộc dưới ánh mặt trời, trên hết là những nụ cười và joie de vivre (niềm vui sống) không bao giờ vắng mặt: tất cả chứng minh rằng kẻ đi nghỉ tuân thủ trong từng chi tiết các nguyên tắc của bổn phận, hy sinh và khổ hạnh. Đây chính là “đạo đức của vui chơi” mà Riesman nói tới, sự cứu rỗi của nhàn rỗi và khoái lạc, thứ mà ngày nay không ai có thể trốn thoát, trừ khi bằng cách tìm kiếm cứu rỗi trong những tiêu chí khác của thành tựu.
Xu hướng ngày càng rõ rệt hướng tới sự tập trung thể chất của du khách và những người đi nghỉ - vốn đối lập với động cơ được tuyên bố: theo đuổi tự do và tự chủ - tuân theo một nguyên tắc cưỡng chế tương đồng với nguyên tắc trong lao động. Cô đơn là một giá trị được nhắc tới, nhưng không được thực hành. Người ta chạy trốn công việc nhưng không chạy trốn sự tập trung thể chất. Ở đây, dĩ nhiên, phân biệt xã hội cũng đóng vai trò (xem Communications, số 8). Biển, cát, nắng và sự hiện diện của đám đông cần thiết với những người đi nghỉ ở tầng dưới của thang bậc xã hội hơn nhiều so với kẻ khá giả. Điều này phần nào là do nguồn lực tài chính, nhưng trên hết là khát vọng văn hóa: “Bị đẩy vào những kỳ nghỉ thụ động, họ cần biển, nắng và đám đông để cảm thấy rằng họ thực sự là một ai đó” (Hubert Mace, trong Communications, số 10, “Vacances et tourisme”, 1967).
“Nhàn rỗi là một chức phận tập thể.” Tít báo ấy này tóm gọn tính thiết chế, sự nội tâm hóa chuẩn mực xã hộimà thời gian rảnh và việc tiêu thụ nó đã khoác lên mình, trong đó đặc quyền được tận hưởng tuyết trắng, sự lười nhác và ẩm thực quốc tế chỉ che giấu sự tuân phục sâu xa đối với:
- Luân lý tập thể của sự tối đa hóa nhu cầu và thỏa mãn khu vực riêng tư, cũng như nguyên tắc tối đa hóa sản xuất trong khu vực “xã hội”;
- Mã của sự phân biệt: tiêu chí phân biệt đối với tầng lớp giàu có của các thời kỳ trước là “nhàn rỗi” thì giờ đã trở thành “tiêu thụ” thời gian vô ích. Chính cưỡng bức rằng người ta không được làm gì (có ích) mới là điều chi phối nhàn rỗi - và nó chi phối hết sức độc đoán - y như nó từng chi phối địa vị của kẻ đặc quyền trong các xã hội truyền thống.
Nhàn rỗi, vốn vẫn được phân phối rất bất bình đẳng, vẫn là, trong các xã hội dân chủ của chúng ta, một yếu tố của sự phân biệt văn hóa. Tuy nhiên, ta có thể hình dung xu hướng này sẽ đảo ngược (ít nhất ta có thể tưởng tượng vậy): trong Brave New World của Aldous Huxley, chỉ có những người Alpha là làm việc, còn đám đông còn lại thì bị kết án phải sống trong khoái lạc và nhàn rỗi. Ta có thể thừa nhận rằng, cùng với sự tiến triển của nhàn rỗi và sự “thăng tiến” phổ biến của thời gian rảnh, sẽ có một sự đảo ngược đặc quyền. Nếu - điều này là khả thể, mặc dù trái với những gì vốn là mục tiêu lý tưởng của nó - các hoạt động nhàn rỗi, khi phát triển, lại ngày càng lún sâu vào cạnh tranh và đạo đức kỷ luật, thì ta có thể cho rằng lao động (một loại lao động nhất định) sẽ trở thành địa điểm và thời gian để người ta hồi phục từ chính kỳ nghỉ của mình. Hiện tại, lao động đã có thể trở thành dấu hiệu của đặc quyền, như trong trường hợp “nô lệ giả vờ” của các tổng giám đốc và giám đốc điều hành cấp cao, những người cảm thấy mình phải làm việc 15 tiếng một ngày.
Ở đây, ta đi đến tận cùng nghịch lý: chính lao động trở thành cái được tiêu thụ. Trong chừng mực lao động được chuộng hơn thời gian rảnh, khi nó đáp ứng một nhu cầu “ám ảnh thần kinh,” và khi sự dư thừa nó trở thành một dấu hiệu của uy tín, ta đã bước vào lĩnh vực tiêu thụ lao động. Nhưng ta biết rằng bất cứ thứ gì cũng có thể trở thành đối tượng tiêu thụ.
Tuy nhiên, sự thật vẫn là hôm nay, và còn lâu nữa sau này, giá trị phân biệt của nhàn rỗi sẽ vẫn tồn tại. Ngay cả phản ứng đề cao giá trị của lao động cũng chỉ chứng minh, theo lối phản chứng, sức mạnh của nhàn rỗi như một giá trị cao quý trong những quan niệm sâu xa nhất của chúng ta. “Sự kiêng cữ hiển ngôn khỏi lao động trở thành chỉ số quy ước của sự đáng kính,” Veblen viết trong Lý thuyết tầng lớp nhàn rỗi. Lao động sản xuất là thấp hèn: truyền thống ấy vẫn còn sống. Nó thậm chí được củng cố bởi sự cạnh tranh địa vị ngày càng tăng mà ta thấy trong các xã hội “dân chủ” hiện đại. Luật của giá trị-nhàn-rỗi đang mang sức mạnh của một quy phạm xã hội tuyệt đối.
Nhàn rỗi không hẳn là chuyện hưởng thụ thời gian rảnh, thỏa mãn hay nghỉ ngơi mang tính chức năng. Nhàn rỗi, từ định nghĩa, là sự tiêu thụ phi sản xuất của thời gian. Ta trở lại với việc “lãng phí” thời gian mà ta đã nói ở phần đầu, để chỉ ra rằng thời gian rảnh tiêu thụ thực chất là thời gian sản xuất. Thời gian này, vốn không sinh lợi về mặt kinh tế, lại là thời gian của một sản xuất giá trị - giá trị phân biệt, giá trị địa vị, giá trị uy tín. Làm không gì cả (hay không làm gì có ích về mặt sản xuất) là một sự làm đặc thù. Sản xuất giá trị (dấu hiệu, v.v.) là một đóng góp xã hội bắt buộc; nó là đối lập với tính thụ động, cho dù thụ động là định ngôn biểu hiện của nhàn rỗi. Thực tế, trong nhàn rỗi, thời gian không hề “tự do”: nó được tiêu thụ, không phải như một sự mất mát thuần túy mà là khoảnh khắc của sự sản xuất địa vị. Không ai “cần” nhàn rỗi, nhưng tất cả đều bị buộc phải chứng minh tự do của mình trong việc không thực hiện lao động sản xuất.
Sự tiêu thụ thời gian rỗng, do đó, là một dạng potlatch, trong đó thời gian rảnh đóng vai trò như chất liệu của sự tạo nghĩa và trao đổi dấu hiệu (song song với tất cả những hoạt động phụ thuộc và nội tại của nhàn rỗi). Như trong La Part maudite của Bataille, nó có được giá trị chính ở sự hủy hoại nó, trong việc bị hy sinh. Và nhàn rỗi là nơi diễn ra vận hành mang tính biểu tượng này.
Như thế, chính trong logic của sự phân biệt và sản xuất giá trị mà nhàn rỗi, xét cho cùng, được biện minh. Ta thậm chí có thể kiểm chứng điều này gần như bằng thực nghiệm: khi được để mặc cho chính mình, trong trạng thái “tự do sáng tạo,” người nhàn rỗi sẽ tuyệt vọng tìm một cái đinh để đóng hay một cỗ máy để tháo rời. Ngoài phạm vi cạnh tranh, không có những nhu cầu tự trị, cũng chẳng có động cơ tự phát nào. Nhưng ngay cả thế, anh ta cũng không từ bỏ việc không làm gì. Trái lại. Anh ta “cần” một cách mệnh lệnh không làm gì cả, bởi vì chính điều đó có giá trị phân biệt xã hội.
Ngay cả ngày nay, cái mà một cá nhân trung bình tìm kiếm trong kỳ nghỉ và thời gian rảnh không phải là “tự do giải phóng mình” (để thành cái gì? bản tính ẩn giấu nào sẽ trỗi dậy đây?), mà là chứng tỏ sự vô dụng của thời gian mình có, sự dư thừa của thời gian mà anh ta sở hữu như một loại tư bản phô trương, một dạng của cải. Thời gian nhàn rỗi, cũng như thời gian tiêu thụ nói chung, đang trở thành phần mang điện tích cao trong toàn bộ thời gian xã hội, phần sản sinh ra giá trị - một chiều không thuộc về sinh tồn kinh tế mà thuộc về sự cứu rỗi xã hội.
Giờ ta có thể thấy nền tảng tối hậu của cái gọi là “tự do” của thời gian rảnh. Nó tương tự với “tự do” lao động và “tự do” tiêu thụ. Cũng như lao động phải được “giải phóng” thành sức lao động để có thể đảm nhận giá trị trao đổi kinh tế, cũng như người tiêu thụ phải được “giải phóng” với tư cách ấy - tức là được để (trên bề mặt) tự do lựa chọn và thiết lập sở thích để hệ thống tiêu thụ có thể vận hành - thời gian cũng phải được “giải phóng,” tức là tách khỏi những hàm nghĩa (biểu tượng, nghi lễ) của nó để trở thành: không chỉ (1) một hàng hóa (trong hình thức thời gian lao động) trong chu trình trao đổi kinh tế; mà còn (2) một dấu hiệu và chất liệu của dấu hiệu, đảm nhận trong nhàn rỗi một giá trị trao đổi xã hội.
Chính mô thức này mới định nghĩa thời gian được tiêu thụ. Thời gian lao động, về phần nó, không được “tiêu thụ” - hay đúng hơn, nó chỉ được tiêu thụ theo nghĩa động cơ tiêu hao xăng, một nghĩa hoàn toàn không liên quan gì đến logic của tiêu thụ. Còn về “thời gian biểu tượng” - tức là thời gian không bị ràng buộc kinh tế cũng không “tự do” như một chức năng dấu hiệu, mà gắn-buộc không thể tách rời với chu kỳ cụ thể của tự nhiên hoặc trao đổi xã hội - thì rõ ràng không bị tiêu thụ. Thực tế, chỉ nhờ phép chiếu của quan niệm thời gian theo niên biểu của chúng ta mà ta mới gọi nó là “thời gian”; nó chỉ đơn thuần là một nhịp trao đổi.
Trong một hệ thống toàn diện và tích hợp như của chúng ta, không thể nào tồn tại tự do thời gian. Và nhàn rỗi không phải là sự sẵn có của thời gian, mà là sự phô diễn nó. Quy định căn bản của nó chính là sự cưỡng bức phải khác với thời gian lao động. Nó không tự trị: nó được định nghĩa bằng sự vắng mặt thời gian lao động. Sự khác ấy, bởi cấu thành giá trị sâu xa của nhàn rỗi, nên ở khắp nơi đều được tô đậm đến thừa thãi, bị phô trương quá mức. Trong mọi dấu hiệu, mọi thái độ, mọi thực hành, mọi định ngôn về nó, nhàn rỗi sống nhờ vào sự phô trương và quá-phô-trương liên tục. Mọi thứ có thể bị tước bỏ khỏi nó - trừ điều này. Chính điều này định nghĩa nó.
Anh Hoa dịch
thời chúng ta
Tái bút về những xã hội kiểm soát
Mario Vargas Llosa: Nền văn minh thị kỹ
xã hội học
Max Scheler: Ressentiment, hai phương pháp
Norbert Elias: Dẫn nhập Xã hội học là gì
Roger Caillois: Xã hội học về đao phủ
