Unamuno đọc Chesterton
Năm 1936, ba nhà văn châm biếm và nghịch biện lớn của đầu thế kỷ XX qua đời: Chesterton ở Anh, Miguel de Unamuno ở Tây Ban Nha và Karl Kraus ở Áo. (Karl Kraus sinh cùng năm với Chesterton). Miguel de Unamuno thuộc Generación del 98, một nhóm trí thức, văn nghệ sĩ trưởng thành cùng nhịp với cú sốc thất trận cuối thế kỷ XIX, khi Tây Ban Nha mất hết những thuộc địa cuối cùng ở Cuba, Puerto Rico và Philippines, chính thức trở thành một vùng tỉnh lẻ cô lập ở Châu Âu. Thoạt nhìn, thật khó thấy Unamuno có điểm gì chung với Chesterton, nhưng đặc trưng của thế hệ 98 thường là phong cách nghịch biện (paradoja), tiếp nối từ Quevedo. Nhìn vào nghịch lý để tránh hoặc vượt thoát các cực của suy nghĩ mà con người hay sa phải, cái nghịch biện chỉ hướng cho chân lý và trao quyền nghĩ về chân lý cho ý thức cá nhân. Chân lý nằm trong một khoảng chứ không phải nằm về một cực.
Văn bản dưới đây là khai từ của Unamuno cho bản dịch cuốn sách Ý niệm man rợ (Sobre el concepto de barbaria) của Chesterton viết năm 1914. Thiện cảm của Unamuno dành cho Chesterton (rất hiếm khi thấy Unamuno biểu tỏ thiện cảm với bất kỳ ai) được hoàn thiện bởi một quan niệm về xung đột: truyền thống đối đầu hiện đại, văn minh đối đầu Kultur. Giống như Chesterton cười nhạo phái Whig, Bernard Shaw và các nhà Xã hội luận, Miguel de Unamuno ở Tây Ban Nha bút chiến với hầu hết các văn nhân trong thế hệ của mình, đặc biệt là Pio Baroja.
KHAI TỪ
Thanh danh của Gilberto Keith Chesterton, vốn trước cuộc chiến hiện tại đã lừng lẫy trong các dân tộc nói tiếng Anh, thì nay, sau biến động, càng thêm vang dội và toả sang các xứ khác. Ngày nay, tiếng tăm của một nhà văn trào lộng và nghịch biện [paradojista] ấy đã mang tính toàn cầu đến độ nó đã chạm tới cả đất Tây Ban Nha của chúng ta.
Và xin lưu ý cho, khi tôi gọi ông là trào lộng và một nhà nghịch biện, không phải tôi có ý định làm kém hay cùn đi tầm vóc ông, mà trái lại, tôi chủ ý làm cho nó thêm phần to lớn. Một kẻ trào lộng là cái gì nghiêm cẩn nhất trên đời, nếu ta hiểu sự nghiêm cẩn theo cái nghĩa cao quý và sâu sắc nhất của nó. Hơn nữa, nghiêm cẩn của một nhà trào lộng thường là một nghiêm cẩn bi kịch, cũng hệt như nghiêm cẩn của một luật sư, một kỹ sư hay một viên thống chế lại là một nghiêm cẩn hài kịch, dẫu luật sư có làm tán gia bại sản ngàn gia đình, tay kỹ sư có gây ra vụ vỡ đập nhấn chìm cả một ngôi làng, và viên thống chế, vì tuân theo những quy tắc mà người ta gọi là chiến lược, có san bằng hai mươi thành phố. Còn về kẻ nghịch biện, tôi biết nói gì về điều này đây khi chính tôi cũng mang tiếng là một kẻ như vậy? Và tôi không nói là một trong số rất nhiều, bởi vì không nhiều người đâu!
Chesterton là một con người nghịch biện và là một thi nhân, rất rõ là thế! Và trên hết, ông là một con người viết văn hơn là một văn sĩ. Với điều đó, tôi tin rằng mình đã nói ông là một con người của tranh đấu.
Về nghịch biện... Nghịch biện không gì hơn là một hình thức tu từ. Nhưng là thứ tu từ đích thực, thứ tu từ trào ra từ đam mê, không phải thứ tu từ được dạy trong cẩm nang giáo khoa trung học. Bởi lẽ trong mấy cuốn cẩm nang ấy người ta không bao giờ định nghĩa hay làm sáng tỏ nghịch biện, mà chỉ toàn những hoán dụ, cải dung, hô ngữ, nhân hóa, liên hoàn, đa thức và những thứ thuốc phiện quy tắc và kinh viện tương tự mà tất thảy những kẻ như Vázquez de Mella dùng cho các bài hùng biện của họ. Nghịch biện cốt ở chỗ tóm lấy một ý tưởng, tìm cho ra mũi nhọn của nó và dùng cái mũi nhọn ấy mà găm vào đầu công chúng. Đó là cách gây tổn thương lớn nhất cho cái gọi là lẽ thường [sentido común]. Tôi không nói là găm vào đầu của từng người tạo nên công chúng, bởi trong đầu mỗi người ấy đều ngự trị những ý thức riêng [sentido propio]. Và nghịch biện là biểu hiện của ý thức riêng, cũng như biểu hiện của lẽ thường là những sáo ngữ [lugar común], hay nói toạc ra là tầm thường. Giờ đây, vấn đề là ở chỗ một sáo ngữ có thể thăng hoa thành nghịch biện, nghĩa là lẽ thường có thể hưng phấn lên thành ý thức riêng, và cũng có thể nghịch biện lại sa sút thành sáo ngữ, điều xảy ra khi chân lý trong nó bị bào mòn và chết đi.
Và con người của những nghịch biện và phản đề này, vốn là một tín đồ Công giáo, đã viết một cuốn sách nhan đề Ortodoxia (Chính thống giáo), một biện hộ cho đức tin Công giáo của mình. Điều này gây ngạc nhiên chăng? Nhưng chẳng phải kẻ nghịch biện đáng gờm nhất lại chính là Thánh Augustine người Phi châu. Và sách Tin Mừng, không phải toàn bộ là một tấm vải dệt bằng những ẩn dụ, ngụ ngôn và phản đề ư? Ở đó chẳng có một tam đoạn luận nào cả. Quá rõ! Bởi các thánh sử không là luật sư hay thần học gia. (Dẫu hai thứ đó cũng chỉ là một).
Thế thì, con người thi nhân trào lộng và đầy nghịch lý Chesterton này, người đã viết phê bình, tiểu thuyết, tùy bút, thi ca... ngay khi cuộc chiến vừa bùng nổ giữa nền văn minh Công giáo châu Âu và cái Kultur tà giáo Đức, đã đứng ngay, như một đại diện chân chính của ý thức riêng, về phía văn minh, về phía Công giáo và về phía châu Âu.
Và hãy nhớ rằng khi nói về ý thức riêng, đối lập nó theo một cách nào đó với lẽ thường - dẫu cả hai cần đến nhau và bổ sung cho nhau - tôi không hề có ý nói điều gì thuộc về vô trị. Ý thức riêng, vì phải là của từng người, nên cũng phổ quát như lẽ thường vậy. Các nhà logic học dạy rằng những phán đoán cá nhân mang tính phổ quát.
Chesterton, khi bút chiến với khái niệm và cảm quan [el sentimiento] Đức về quyền lực và tổ chức cũng như cái lẽ thường - thứ mà ở Đức là một thứ cảm quan quan liêu sáo rỗng - đã viết chúng ta phải bảo vệ những bất hòa nội bộ của mình chống lại sự đồng phục hóa của thói man rợ. Bởi vì sự man rợ của những kẻ không có khả năng tự suy nghĩ, bằng ý thức riêng, và chỉ nghĩ - tức là tụng niệm - bằng lẽ thường, bằng khẩu hiệu, luôn tìm cách áp đặt đồng phục tinh thần và tâm linh lên tất cả những người khác.
Kẻ nghịch biện Công giáo, dân chủ, tông đồ chiến đấu của ý thức riêng và tự do lương tâm này, là một nhà logic đáng gờm. Từ đó suy ra rằng ông sẽ chẳng thuyết phục nổi những kẻ thân Đức thuộc dạng người hang động của chúng ta, những kẻ mà sức mạnh tối thượng nằm ở chỗ không chịu để ai thuyết phục. Có lẽ vì chúng không có khả năng thấu hiểu. Trước những lý lẽ quá đỗi sắc bén, sống động, đầy tính phê phán, nghĩa là quá đỗi nghịch biện và chẳng chút tam đoạn luận nào, mà Chesterton dùng trong các tiểu luận này để phô bày tính nhân văn trong hành động của nước Anh trong cuộc chiến này, đám người hang động thân Đức của chúng ta sẽ tụng niệm, lặp lại bài học thuộc lòng từ mấy gã thầy đồ Đức [los dómines tudescos], cái câu: "ấy là vì khi đó nước Anh sẽ làm...", hoặc: "ấy là vì ý định của nó là...", hoặc: "nếu nó tuân thủ các hiệp ước là vì nó thấy có lợi". Bởi người ta ném vào mặt nước Anh ngay cả việc nó thấy có lợi khi trung thành với các cam kết quốc tế. Đó là một trong những sự xảo trá của nó, rằng để không phải xé bỏ những mảnh giấy, nó ký vào đó với mục đích giữ gìn chúng vì những gì đã ký, ngoài việc công chính, còn thuận lợi cho lợi ích của nó. Hay nói một cách nghịch biện hơn: sự xảo trá lớn nhất của nó là công lý lại trở thành một lợi ích cho nó.
Chỉ cần so sánh triết học đạo đức Anh gọi là chủ nghĩa vị lợi, kiểu của một Stuart Mill, với nền tảng là những quy luật vĩnh cửu của cái thiện và công lý là điều hữu ích nhất cho con người, điều mang lại lợi ích nhất để gìn giữ, với triết lý đạo đức Phổ về mệnh lệnh tuyệt đối [imperativo categórico] và cái mớ bòng bong "thiện vì thiện" kia. Với cái đó, mỗi kẻ, nếu là người Phổ, rốt cuộc sẽ tự tuyên bố mình là chuẩn mực tối thượng của pháp luật. Chesterton, như một người Công giáo tốt, và Công giáo Anh, về cơ bản là người theo chủ nghĩa vị lợi. Ông tin rằng phải làm điều thiện để cứu rỗi linh hồn. Và chắc chắn ông sẽ nói: "Ta với Chúa!" chứ không phải "Chúa với chúng ta!" - Gott mit uns! - như người Phổ vẫn nói. Hay đúng hơn, như nước Phổ nói. Bởi Phổ, chính họ, từng kẻ một, chẳng nói gì hết.
Nếu nhìn kỹ, sẽ thấy cái gọi là mệnh lệnh tuyệt đối của Kant, một phạm trù thuần túy hình thức, hay như ta nói là kỹ thuật, chính là công thức tối cao của cái mà Chesterton gọi là sự man rợ Phổ, một man rợ có chủ đích, cố tình đối lập với văn minh. Văn minh, vốn là Công giáo và La Mã, nói: "Hãy yêu người xung quanh như chính mình", hoặc: "Đừng làm cho người khác điều ngươi không muốn cho mình" hay theo công thức La Mã: Alteri non laedere; suum cuique tribuere (Không làm hại người khác, trả cho ai cái thuộc về người ấy), trong khi cái Kultur kia lại nói một cách đầy vẻ sư phạm rởm đời: "hãy hành động sao cho hành động của ngươi có thể dùng làm quy tắc phổ quát". Điều nghe có vẻ như một mớ rối rắm và còn tệ hơn thế.
Hãy chú ý đến những gì Chesterton viết về sự phủ nhận tính tương hỗ [reciprocidad] từ phía người Phổ. Tự nhiên thôi! Vì cái mệnh lệnh tuyệt đối không nảy sinh và trào dâng từ một Thượng Đế nhân văn, không thuộc về giống này hay nòi kia, mà từ lương tâm Phổ, hay trong mọi trường hợp là từ lão Gott già nua, bộ trưởng của Đế chế, thì làm gì có sự tương hỗ khả dĩ nào. Sự tương hỗ chỉ được quan niệm khi bên trên hai con người đang tương tác có một Ngôi vị tinh thần [Persona espiritual] tối cao khác, không phụ thuộc vào ai trong hai người và cả hai đều phụ thuộc vào Ngôi vị đó. Và Ngôi vị đó có thể trừng phạt họ. Nhưng với mệnh lệnh tuyệt đối, chẳng còn hình phạt cuối cùng nào khác ngoài sự hối hận. Và còn lâu lương tâm Phổ mới cắn rứt, khi nó tin chắc rằng sự cần thiết, tức là sự cần thiết của nó, tạo ra luật! Cũng như lời gã đệ tử Kant là Bethmann-Hollweg rằng sự cần thiết không thừa nhận luật lệ chẳng qua chỉ là bản dịch chính trị của mệnh lệnh tuyệt đối. Mệnh lệnh tuyệt đối của Phổ là chiến thắng, bằng bất cứ giá nào. Và chiến thắng đối với Phổ nghĩa là chính nó ra luật cho cả thế giới: Ueber alles in der Welt (Trên tất cả mọi thứ trên đời)!
Hơn một lần Chesterton đã viết rằng điều khủng khiếp ở người Phổ là hắn không biết nghi ngờ. Nghi ngờ sao được khi hắn đã phát minh ra triết học phê phán! Để giải thoát khỏi mọi nghi ngờ, hắn ném nó vào thế giới của cái siêu việt, nghĩa là, sang phía bên kia không gian, vào cái kho chứa của những vật tự thân [númenos]. Bằng cách đặt nghi ngờ một cách hệ thống và chuyên nghiệp về tính khách quan của không gian hay tính bản thể của linh hồn, người Phổ chuẩn bị để không nghi ngờ những thông cáo của Bộ Tổng tham mưu quân đội hay sự ưu việt của chính hắn trên tất thảy những kẻ phàm trần khác. Và do đó, không nghi ngờ về sứ mệnh thiêng liêng tổ chức thế giới được giao phó cho Phổ.
Việc bọn họ ngu đến độ thậm chí không ngờ vực sự ngu của chính mình và tin tưởng một cách chân thành và sâu sắc rằng mình là dân tộc tuyển chọn của Gott, điều đó có thể hiểu được. Mặc xác chúng. Nhưng điều đáng buồn là chúng ta lại phát hiện ra giữa chúng ta, ngay đây, ở Tây Ban Nha, biết bao kẻ ngốc kiểu Phổ.
Tôi đã từng tin rằng phần lớn những kẻ ngốc của chúng ta là ngốc kiểu Tây Ban Nha, nghĩa là, ngốc một cách thủ thế, thâm tâm tin rằng mình ngốc, hoặc ít nhất là tin rằng những người Tây Ban Nha không ngốc khác coi họ là ngốc, và họ ra vẻ khôn ngoan như một cách phòng vệ chính đáng, giống như con thằn lằn Úc tội nghiệp kia, vốn vô hại, lại khoác lên mình vẻ hung dữ, dựng cái bờm cổ lên, để dọa kẻ thù bằng nỗi sợ của chính nó. Nhưng giờ đây tôi bắt đầu phát hiện ra rằng ở Tây Ban Nha không thiếu những kẻ ngốc kiểu Phổ, thỏa mãn với sự ngu ngốc của mình và không mảy may có chút nghi ngờ nào về việc mình ngốc. Chỉ cần nhìn xem có bao nhiêu người Tây Ban Nha đã xuất hiện, những kẻ chẳng biết lấy một chữ tiếng Đức hay nước Đức nằm ở đâu, chưa từng đặt chân đến đó, giờ đây lại tuyên bố tin chắc không chỉ rằng người Đức ưu việt hơn người Tây Ban Nha về mọi mặt, mà còn rằng chính người Đức là những kẻ phải khám phá ra chúng ta cho chính chúng ta, những kẻ phải đặt chúng ta trước lương tâm của chính mình, và là những kẻ phải tổ chức chúng ta. Sự cứu rỗi của Tây Ban Nha, họ bảo, nằm ở việc đặt mình vào tay nước Đức, bắt chước nó và tổ chức theo kiểu Đức. Tôi gọi cái đó là thói mê Đức và những ai trong chúng tôi không chịu để bị thuyết phục bởi điều đó thì bị họ gán cho là những người Tây Ban Nha tồi tệ và mất gốc.
Chesterton không viết cho những kẻ ngốc hung hăng, kiểu Phổ, không có ý thức về sự ngu của mình. Những tên ngốc đó chẳng có gì ngoài lẽ thường thuần túy, nghĩa là, lẽ thường bị giản lược thành ý thức riêng. Cái lẽ thường thuần túy, cái thứ chẳng là gì hơn ngoài lẽ thường, là một cái gì đó thuần túy Đức, như mọi thứ thuần túy, rein. Lý tinh thuần túy, kinh nghiệm thuần túy, khoa học thuần túy, toán học thuần túy, ý chí thuần túy... tất cả thuần túy này về bản chất là của người Đức. Và cả sự ngu thuần túy, không pha trộn thứ gì khác ngoài ngu, nghĩa là sự ngu không hề lờ mờ nhận ra hay ngờ vực chính nó.
Những kẻ ngốc thuần túy, hay những kẻ thuần túy ngốc, không thể thấu hiểu sức mạnh logic của những nghịch biện kiểu Chesterton. Và cả của tôi nữa.
Bạch Dương dịch
Tại sao tôi là người Công giáo?
